Phân tích hình tượng người lái đò trên sông Đà qua tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
- Mở bài:
Tập tùy bút Sông Đà là kết quả của chuyến đi thực tế vùng đất Tây Bắc của nhà văn Nguyễn Tuân. Đây là một tuyển tập với mười lăm tùy bút và một bài thơ phác thảo. Thiên nhiên và con người Tây Bắc đã tạo điều kiện để nhà văn Nguyễn Tuân hoàn thành những trang viết độc đáo, tài hoa và hấp dẫn về miền đất Tây Bắc. Tập tùy bút ra đời góp thêm cho nền văn học nước nhà những trang viết đầy giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Trong đó, vẻ đẹp hình tượng người lái đò trên sông Đà trong Người lái đò sông Đà để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đặc sắc, không thể phai mờ.
- Thân bài:
Một trong những thành công của Nguyễn Tuân trong tập tùy bút Người lái đò sông Đà chính là xây dựng hình tượng người lái đò trên Sông Đà. Trong thiên tùy bút này, nhà văn với phong cách độc đáo của mình đã khắc họa thành công hình tượng người lái đò tài ba dũng cảm, gây một ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc, một người lao động bình thường được nhìn nhận dưới góc độ của một người nghệ sĩ trong lao động.
Trên cái nền của một con sông Đà hung bạo và hiểm ác “như kẻ thù số một của con người”, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò trí dũng, bình dị và là một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác bao ghềnh. Nhân vật ông lái đò trong tác phẩm thực sự đã trở thành một hình tượng chân thật, sống động, là nơi kí thác những ý tưởng thẩm mĩ của nhà văn, một con người suốt đời khao khát kiếm tìm cái đẹp và khẳng định cái đẹp.
Có thể nói nhân vật ông lái đò chắc chắn sẽ trở nên mờ nhạt nếu Nguyễn Tuân chỉ miêu tả ông trong cuộc sống mưu sinh phẳng lặng trên dòng sông hiền hòa thơ mộng. Cuộc sống mưu sinh hằng ngày của ông lái đò ở đây đã được nhà văn miêu tả đó là một cuộc chiến sinh tồn với thiên nhiên khắc nghiệt của Tây Bắc. Hình tượng ông lái đò hiện lên với vẻ đẹp kiêu hãnh trong mối trương quan với sự dữ dội mà kì vĩ của nhân vật sông Đà. Đây có lẽ cũng chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
Người lái đò không phải là một thanh niên trai trẻ như trong câu chuyện vượt thác của Võ Quảng. Đó là một người đã gần bảy mươi tuổi với một vẻ bề ngoài khá ấn tượng. Người lái đò với thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng mun. Đôi tay dài lêu nghêu như cái sào. Hai chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như lúc nào cũng kẹp lấy một cái cuốn lái tưởng tượng.
Với tính cách của một người ưa mạo hiểm, ông làm nghề chở đò dọc trên sông Đà. Điều dặc biệt khiến người ta chú ý là ông không thích lái thuyền trên những quãng sông bằng phẳng mà chỉ thích lái đò trên những quãng sông nhiều ghềnh thác.
Đặc biệt trí nhớ của ông có lẽ khó ai bì kịp: “trí nhớ của ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mặt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả luống nước của tất cả con thác hiểm trở. Sông Đà, đối với ông như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và đoạn xuống dòng”.
Không chỉ có vậy, vẻ đẹp ấn tượng về ông lái đò là sự tồn tại sống động trước thử thách ghê gớm của sông Đà. Cũng chính vì lẽ đó mà Nguyễn Tuân đã “ghi ở đoạn nàu cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà”.
Hình tượng người lái đò xuất hiện thật đậm nét, dữ dội trước “thạch trận”. Đó là một trận địa bằng đá “bày thạch trận trên sông. Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc”. Sông Đà lúc này hiện lên thật dữ dội, thật ghê gớm. Nó như một con thủy quái rình rập và sẵn sàng vồ lấy bất cứ con thuyền nào đi qua. Khi chiếc thuyền vụt tới thì cũng là lúc trận đồ bát quái trên sông được bày xong “phối hợp với đã, với nước thác reo hò làm thanh viện cho đã, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt”. Chính lúc này hình ảnh ông lái đò hiện lên mới thật oai phong đầy bản lĩnh.
Trong cái trùng vi thạch trận thứ nhất, sông nước như muốn nuốt chửng con thuyền nhỏ nhoi, người lái đò vẫn bình tĩnh “giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Mặc dù sóng nước như một đội quân hùng mạnh đang liều mạng tấn công, đội cả thuyền lên, thậm chí chúng đánh cả những đòn độc hiểm nhất “đá trái, thúc vào gối vào bụng vào hông thuyền… cả cái luống nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò” nhưng ông lái đò vẫn “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi”. Ông lái vẫn tỉnh táo, ngắn gọn ra lệnh trên cái thuyền sáu bơi chèo.
Thế là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất nhưng ông vẫn chưa thể nghỉ ngơi dù chỉ là một phút mà phải tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai. Ở vòng vây thứ hai này trận thế sông nước mở ra còn nguy hiểm hơn ở vùng vây thứ nhất. Nó tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Với bản lĩnh của một người đã lái đò hàng chục năm trên sông nước, ông lái đã nắm chắc “binh pháp của thần sông. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Với kinh nghiệm dày dặn “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, ông lái đò lần lượt đánh bại sự vây hãm của sóng nước. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt được cái bờm sớm đúng luồng rồi, ông lái đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước trên bờ trái liều xô ra định níu lấy nhau thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến.
Hết trùng vây thứ hai nhưng vẫn chưa được phép lơ là, ông lái tiếp tục đưa con thuyền của mình vượt qua cái rùng vi thạch trận cuối cùng “ít cưả hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng thứ ba này lại ở giữa ngay bọn hậu vệ đá của con thác”.
Trong trận chiến cuối cùng này hình tượng người lái đò hiện lên thật dũng mãnh. Thuyền vút qua cổng đá cảnh mở, cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác.
Bằng một hệ thống những ngôn ngữ đầy chất tạo hình cùng với sự am hiểu sâu sắc về sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc những cảm giác mạnh đến nghẹt thở trong trận chiến đầy kịch tính giữa con người với thiên nhiên.
Qua cuộc “ác chiến” giữa con người và dòng sông, nhà văn đã ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động bình thường nhưng mang khí phách của một anh hùng trong cuộc chiến đấu đầy nguy hiểm với thiên nhiên hung bạo.Vì thế, người đọc có thể bắt gặp ở đây hình tượng người lái đò trên sông Đà rất tài hoa nghệ sĩ bên cạnh nét đẹp của lòng dũng cảm và bản lĩnh cao cường trước những thử thách của thiên nhiên. Đây cũng chính là một đặc điểm nổi bật trong phong cách của Nguyễn Tuân đó là “thiên nhiên hay con người đều được chú ý khám phá ở phương diện văn hóa mĩ thuật của nó”.
Tuy nhiên, khi miêu tả hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân có phần cường điệu để nói hết sự vất vả của nghề sông nước nhưng xét cho cùng mục đích chính của nhà văn vẫn là khắc họa vẻ đẹp của ông lái đò, một người lao động bình thường mà phi thường. Hình tượng ông lái đò trên sông Đà là một biểu tượng đẹp về con người Việt Nam mới trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đó cũng chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng có ngay trong cuộc sống lao động hằng ngày chứ không phải nhất thiết là bom đạn chiến tranh.
Hình tượng ông lái đò, qua những trang viết của Nguyễn Tuân, hiện lên là một người lao động bình thường đã trở thành dũng sĩ trong cuộc vật lộn với ghềnh thác. Nhưng khi trở về với cuộc sống đời thường vẫn giữ nét tính cách đáng quý, giản dị, khiêm nhường. Cũng như bao người bạn đò khác, ông lái đò hàng ngày tung hoành trên sông nước và thậm chí đã có thâm niên hàng chục năm nhưng đêm về vẫn rất bình dị. Đêm cắm sào dừng thuyền, nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng.
Cũng chẳng thấy ai bàn về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ… “Họ nghĩ thế lúc ngừng chèo”.
Có thể khẳng định rằng Người lái đò sông Đà là một bài ca về cuộc sống lao động, ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động chính vì thế mà ông lái đò cho dù đã làm nghề lái đò vài chục năm mà trên ngực vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu” mà Nguyễn Tuân gọi đó là “cái hình ảnh quý giá của một thứ huân lao động siêu hạng”.
- Kết bài:
Với nét bút tài hoa uyên bác, trí tưởng tượng phong phú cùng với việc vận dụng tri thức và ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau Nguyễn Tuân đã cung cấp cho người đọc kiến thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử, địa lý,… Người lái đò sông Đà còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm nhận được cái đẹp một cách sâu sắc đó là vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. Đặc biệt hơn, đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lao động – người lái đò sông Đà. Qua đây ta còn thấy được vốn kiến thức uyên bác, phong phú và tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật miêu tả.
Bài văn tham khảo:
Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân viết: Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình.[…] Thế là hết thác.
(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2019, Tr. 188-189)
Anh/ chị hãy cảm nhận về hình tượng người lái đò sông Đà ở đoạn trích trên; từ đó nhận xét về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích.
BÀI LÀM
- Mở bài:
Theo Nguyễn Đăng Mạnh, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân dù là ở giai đoạn sáng tác trước hay sau cách mạng, đều có thể tóm gọn trong một chữ “Ngông”. Chính từ điểm nhìn này, Nguyễn Tuân luôn tiếp cận với mọi đối tượng từ góc độ tài hoa nghệ sĩ. Tài hoa nghệ sĩ ở đây không chỉ là những con người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, mà rộng hơn, dù làm bất cứ việc gì, ở bất cứ lĩnh vực nào, nhân vật của Nguyễn Tuân cũng đạt đến trình độ thượng thừa, hoàn hảo và mang tính thẩm mĩ cao. Hình tượng người lái đò trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là một điển hình cho cách xây dựng nhân vật như thế. Đến với nhân vật ông lái đò, ta không khỏi ngưỡng mộ và cảm phục trước tài năng và bản lĩnh phi thường của một con người lao động bình thường ở vùng cao Tây Bắc, nhất là qua cuộc chiến sinh tử với sóng nước sông Đà, được thể hiện một cách thật đặc sắc qua đoạn trích sau: “Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình […] Thế là hết thác”.
Thân bài:
1. Khái quát tác giả, tác phẩm
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn, có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học nước nhà, đặc biệt là ở thể tùy bút. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có thể tóm gọn trong một chữ “ngông”. Thể loại sở trường của ông là tùy bút, với rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó “Người lái đò Sông Đà” có thể được xem là một trong những áng văn tiêu biểu của ông ở thể loại này. Bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế đầy gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Tổ quốc, được rút từ tập “Sông Đà”, xuất bản lần thứ nhất vào năm 1960. Bài tùy bút tập trung miêu tả hình tượng con sông Đà và người lái đò vượt thác trên sông Đà, qua đó ngợi ca “chất vàng mười” của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
2. Cảm nhận về hình tượng ông lái đò qua đoạn trích:
Quan đoạn trích, ta có thể thấy, trước hết, ông lái đò là một người trí dũng song toàn. Phẩm chất đó của ông lái đò được thể hiện ở quá trình chiến đấu và vượt qua ba trùng vi thạch trận sông Đà.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà mở ra năm cửa trận, “có bốn cửa tử, một cửa sinh”. Dòng sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, mang diện mạo của một con thủy quái khổng lồ, hung hãn: “Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nguy hiểm làm sao khi mà “sóng thác đã đánh đến những miếng đòn hiểm độc nhất… vào hạ bộ người lái đò”. Sự hung hãn của con sông Đà đã khiến ông lái đò bị đau. Nỗi đau khiến mắt ông đò nhòa đi. Cơn đau đến “nổ đom đóm mắt” khiến ông thấy “mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng”. Nỗi đau cũng khiến cho mặt ông “méo bệch”. “Méo bệch” là một sáng tạo về mặt từ ngữ của Nguyễn Tuân, là sự kết hợp giữa hai hình dung từ “méo xệch” và “bệch bạc”. Nó vừa làm hiện lên trước mắt chúng ta một khuôn mặt méo mó, bị biến dạng bởi nỗi đau, vừa diễn tả được cái sắc diện trắng bệch, bợt bạt, cũng bị gây nên bởi nỗi đau khủng khiếp ấy. Thế nhưng ông đò vẫn rất can trường. Ông cố nén vết thương, hai tay vẫn ghì chặt mái chèo, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái. “Trên chiếc thuyền có sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo” của ông.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà càng thêm phần nguy hiểm. Nó “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Thế nhưng Ông đò đã chiến đấu và chiến thắng bằng sự dạn dày kinh nghiệm của mình. Ông hiểu rằng: cưỡi lên thác nước sông Đà là “phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nghĩa là chỉ cần sa chân, sẩy tay chốc lát, ông đó sẽ bị con sông ăn sống nuốt tươi. Hiểu như thế, nên khi đối diện với những con sóng hung dữ, ông vẫn bình tĩnh. Mỗi hành động của ông vừa linh hoạt, mềm dẻo, vừa chính xác từ những chi tiết: “Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh ra mà rải bơi chèo, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra để mở đường tiến”. Bằng tài năng và bản lĩnh của mình, ông đã vượt qua tất cả các cửa tử, đưa con thuyền vào đúng cửa sinh khiến cho “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng cửa sinh mà nó trấn lấy”.
Cuộc chiến đấu càng trở nên quyết liệt hơn ở trùng vây thạch trận thứ ba, khi mà “bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Sông Đà quả là khôn ngoan và nham hiểm, thể hiện ở việc nó liên tục thay đổi vị trí của cửa sinh: lúc nằm bên phải, lúc nằm bên trái, lúc nằm ở giữa. Sự thay đổi liên tục cách bố trí này, cộng với tốc độ dòng nước chóng mặt, cùng với vô vàn đá nổi đá chìm thực sự là một thử thách chết người. Nhưng, hiện lên trên dòng thác tử thần ấy vẫn là hình ảnh của ông lái đò với tâm thế bình tĩnh, quyết đoán, thông minh và nhanh nhẹn. Đó là một con người đầy kiêu hãnh vì đã nắm vững “binh pháp của thần sông thần đá”. Hãy xem cách ông điều khiển con thuyền lao qua vòng vây thứ ba này: “Thuyền vút qua cánh cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Quả thật, trình độ lái đò của ông đã đạt đến độ thượng thừa. Ông và con thuyền dường như đã đạt đến cảnh giới “thân chu hợp nhất”. Câu văn “Thế là hết thác” vừa như một tiếng thở dài khoan khoái, cũng lại vừa như là một nhận định bình thản về việc kết thúc một hành trình quen thuộc, đơn giản, xảy ra thường xuyên như cơm bữa, không có gì đáng nói thêm. Tuy nhiên, đó cũng có thể là cái trầm trồ của Nguyễn Tuân khi vừa được chứng kiến cái hành trình ngoạn mục vô tiền khoáng hậu của ông đò.
Không chỉ trí dũng, kiên cường, dạn dày kinh nghiệm, ông lái đò còn mang phẩm chất của người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước. Đối với Nguyễn Tuân, mỗi nhân vật dù thuộc loại người nào, làm công việc gì cũng phải là nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình. Vì thế, ta bắt gặp trong thiên tùy bút này hình ảnh một ông lái đò tài hoa nghệ sĩ bên cạnh vẻ đẹp dũng cảm, đầy bản lĩnh trước thử thách của thiên nhiên.
Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung đầy chất nghệ sĩ. Do “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, do “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này” nên ông đã vượt qua sóng thác một cách tài tình và nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn. Người đọc không thể quên chi tiết “nắm chặt lấy được bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Khi miêu tả cái cử chỉ “nắm được lấy cái bờm sóng”, cái dáng điệu “lái miết một đường chéo”, câu chữ của Nguyễn Tuân đã làm toát lên được cái vẻ hồn nhiên mà cũng rất hào hoa, dũng mãnh của ông đò, một người kị sĩ và đồng thời cũng là một người nghệ sĩ trên sông nước.
Ở ông đò, tài nghệ lái đò đã đạt đến độ phi thường, chạm đến tầm mức của nghệ thuật, của cái đẹp. Ông lái con thuyền trên sông Đà cứ như một nghệ sĩ làm xiếc: “Thuyền vút qua cánh cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Câu văn khiến người đọc vừa tâm phục khẩu phục, vừa sảng khoái hả hê trước sự chiến thắng của ông đò. Đúng là một tay lái lụa, một “tay lái ra hoa” như Nguyễn Tuân từng ca ngợi. Đôi tay của ông đò không chỉ rắn chắc như sừng như mun mà còn có cả sự khéo léo, tinh tế, uyển chuyển. Ông đã biến công việc chèo đò bình thường, nặng nhọc thành ra một thứ nghệ thuật: nghệ thuật lái đò.
3. Nghệ thuật
Thành công về mặt nghệ thuật của đoạn trích là ở việc sử dụng nhiều những liên tưởng, so sánh, nhân hóa độc đáo bất ngờ; cách sử dụng từ ngữ mới lạ, điêu luyện; câu văn giàu hình ảnh, nhạc tính; vốn kiến thức uyên bác.
4. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nguyễn Tuân luôn tiếp cận sự vật ở góc độ thẩm mĩ, tiếp cận con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ, và hình tượng người lái đò Sông Đà ở đoạn trích trên cũng không ngoại lệ. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, ông lái đò từ một con người lao động bình dị, đã vụt trở thành một nghệ sĩ trên sông nước, với “tay lái ra hoa”, với trí nhớ phi phàm, với sự dũng cảm hiếm có, và thái độ bình thản những khi trải qua trận chiến đấu sinh tử. Nhân vật người lái đò cũng mang bóng dáng của cái “tôi” tác giả: đó là con người tài hoa, ngông nghênh kiêu bạc, thích chiếm lĩnh những đỉnh cao. Người đọc vừa cảm phục, yêu mến người lái đò trên dòng sông dữ dội, vừa cảm phục yêu mến nhà văn tài hoa Nguyễn Tuân trên dòng sông chữ nghĩa. Cái tài hoa của ông đò và cái tài hoa của nhà văn đã gặp nhau, tạo nên chất nghệ sĩ đậm đặc, thấm đẫm trong từng câu chữ.
- Kết bài:
Tóm lại, qua đoạn trích trên, Nguyễn Tuân đã tái hiện một cách sinh động vẻ đẹp của người lái đò vượt thác trên sông Đà, qua đó ca ngợi chất “vàng mười” của con người lao động miền Tây Bắc. Đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống lâu bền cho bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, đồng thời làm cho tên tuổi của nhà văn tài hoa Nguyễn Tuân sống mãi trong lòng người đọc mọi thế hệ.
Cảm nhận tùy bút Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân