phan-tich-hinh-tuong-nguoi-vo-nhat-trong-truyen-ngan-vo-nhat-cua-nha-van-kim-lan-678

Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân

Nhân vật người vợ “nhặt” trong truyện ngắn “Vợ nhặt”

a. Lai lịch, xuất thân.

– Tác phẩm của Kim Lân tập trung xung quanh câu chuyện của ba người trong 1 gia đình ở xóm ngụ cư. Lạ thay, thị là người phụ nữ không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ đại diện cho triệu triệu phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ trong xã hội cũ. Xuất thân, tương lai mù mịt để rồi sau đó trở thành người vợ của Tràng.

– Trong nạn đói năm Ất Dậu (1945), có vô vàn những cô gái như thị bị cái đói dứt ra khỏi cái tổ ám của mình và quê hương bản quán, bị cái đói xua đi lang thang trên những nẻo đường đói khát. Thị cũng giống như vô vàn người phụ nữ khác, phải tha phương cầu thực, nay đây mai đó. Thị cũng giống như bao người phụ nữ khác, ngày qua ngày cứ ngồi vêu mặt ra ở cửa nhà kho chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, xem có mướn làm thuê gì không.

b. Tên, ngoại hình, phẩm chất.

– Người đàn bà làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không có tuổi và mãi đến những dòng cuối của tác phẩm tác giả vẫn kiên quyết giấu tên. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì ngay từ đầu nhà văn đã chủ định gọi bằng một cái tên phiếm chỉ như vậy.

– Thị xuất hiện lần đầu tiên vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói với tất cả nỗi đau khổ, tủi hờn: Thị ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh.

– Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”.

c. Diễn biến tâm lí.

– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.

– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị:

+ Lần gặp thứ nhất: Có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”.

+ Lần gặp thứ hai: Chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh…cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.

– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: Sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.

– Trên đường về nhà, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:

+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận.

+ Về đến nhà, trông ngôi nhà xiêu vẹo của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.

+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, Thị thật đáng thương.

– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đánh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.

Bài văn tham khảo 1:

  •  Mở bài

Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình tượng người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt .Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.

  • Thân bài :

Hình tượng người vợ nhặt xuất hiện đầy ấn tượng.

Trước hết, về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp…

Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị.

Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.

Trước khi trở thành vợ Tràng thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh.

Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…

Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động.

Khi trở thành vợ Tràng thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang.

+ Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng (thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn”, ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”…) . Thật tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương…

+ Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.

+ Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.

III. Kết bài:

-Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng.

– Hình tượng người vợ “nhặt” hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình.Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ  bên bờ của cái chết.

Bài văn tham khảo 2:

Phân tích hình tượng người vợ “nhặt” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.

  • Mở bài :

Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện Con chó xấu xí. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu (1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình tượng người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt .Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.

  • Thân bài :

Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị. Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa, sống vất vưởng và chờ đợi may mắn.

Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Trong đói khát cùng cực, thị gần như đánh mất đi nhân cách, sự tế nhị của con người.

Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng cũng chẳng có gì khá hơn thị. Tràng đau chỉ nghèo mà còn có mẹ già, còn phải lo toan, biết có cưu mang thị nổi hay không, hay có thể sẽ khiến cuộc đời của thị thêm khổ. Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương. Ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự, bởi thế thị quyết định gắn kết với tràng, trở thành một phần trong gia đình, bất chấp ngày mai ra sao.

Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động.

Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng. Thị ngượng ngùng đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn, ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”… . Lúc này, trông thị thật tội nghiệp, cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương… Hành trang bước đến với hạnh phúc của thị là cả cuộc đời đen tối và nỗi lo sợ không thể nói nên lời.

Thế nhưng, có cái gì đó thật mới mẻ đã làm thay đổi người đàn bà ấy. Sau một ngày làm vợ, chị dậy thật sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình chứ không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.. Thị hiện rõ là một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Cuộc sống có cái gì đó khởi sắc mà không ai có thể lí giải được.

Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, bà cụ Tứ dành hết tình cảm cho con dâu mới. Chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.

Qua hình tượng người vợ nhặt, nhà văn đã mạnh mẽ lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp; đồng thời bày tỏ thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ; thái độ trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo; trong lao khổ họ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

  • Kết bài :

Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết…. Hình tượng người vợ “nhặt” khắc sâu trong tâm khảm người đọc một thời kì đen tối của đất nước nhưng ấm áp tình người, làm hiện rõ giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm.

Bài văn tham khảo 3:

NGƯỜI VỢ TRONG TRUYỆN “VỢ NHẶT” (ĐỖ NGỌC THỐNG)

Điều kiện tiên quyết của dạy đọc hiểu là học sinh phải được trực tiếp đọc, nhìn, quan sát toàn bộ văn bản. Học sinh đọc kĩ văn bản, coi như đã thành công một nửa. Trên lớp giáo viên không nhất thiết phải dạy tất, dạy hết mọi thứ mà có thể lựa chọn một vài nội dung trọng tâm, có vấn đề, giàu ý nghĩa để học sinh trao đổi, phân tích, thảo luận.

Với truyện Vợ nhặt, một trong vài vấn đề cần trao đổi là vai trò người vợ trong thiên truyện. Có thể nêu vấn đề: về nhân vật người vợ, có người cho rằng thị chỉ đóng vai trò thứ yếu; người khác lại nói đó là nhân vật chính, thể hiện được nội dung của truyện này một cách sâu sắc nhất. Ý kiến của em thế nào? Từ đó cho học sinh suy nghĩ, trao đổi, bàn luận. Những nội dung, ý nghĩa khác, có thể hướng dẫn HS tự đọc, tự tìm hiểu. Các diễn giải sau phục vụ cho lập luận: người vợ là nhân vật chính, rất quan trọng.

1. Thử nghĩ mà xem không có thị thì làm sao thành truyện. Mẹ con bà cụ Tứ vẫn sống thế, chẳng ai biết, chẳng có gì xảy ra. Như thế có thị mới có truyện. Thành truyện rồi thì nhân vật Tràng cũng có gì mà phân tích, bà cụ Tứ cũng không có gì nhiều để nói. Họ chỉ giúp vợ Tràng nổi hơn, tô đậm thêm chủ đề và thông điệp tư tưởng của văn bản vốn đã chói sáng ở “thị”. Cái tên “Vợ nhặt” cho thấy vấn đề chính nằm ở người “vợ nhặt”. “Nhặt”, động từ chỉ hành động cúi xuống cầm vật bị đánh rơi lên. Vật được nhặt như thế thường bé nhỏ, chữ “nhỏ nhặt” chắc cũng từ nghĩa này. Tràng nhặt được vợ như nhặt được một vật gì bé mọn, ngẫu nhiên, chẳng có chút giá trị gì. Trong tên truyện, “nhặt” đã chuyển sang tính từ (như vợ đẹp, vợ xấu…) nhưng nghĩa thì vẫn thế: chỉ người vợ chẳng có giá trị là bao.

2. Không ai biết tên thị là gì. Ngay cả Tràng, người nhặt thị về làm vợ cũng không biết, bà cụ Tứ cũng không hỏi. Chắc họ nghĩ hỏi và biết cũng chẳng để làm gì. Kim Lân đã cố tình không đặt tên cho thị. Chi tiết không tên là tuyệt vời. Người ta ai sinh ra mà chẳng có tên, cho dù cái tên khó nghe như Trạch Văn Đoành, một nhân vật của Nam Cao, “nghe như súng thần công chọc vào lỗ tai” nhưng vẫn là tên. Tên người là dấu hiệu và bằng chứng về sự có mặt của cá nhân đó trên cõi đời này. Nên đứa trẻ vừa sinh ra là phải đặt tên, thậm chí được đặt tên từ khi còn trong bụng mẹ… Với vợ Tràng, thị không có tên, vô danh. Như là con người này không tồn tại, không có trên đời. Và người đời, kể cả những người thân nhất cũng không có nhu cầu biết tên của thị. Thị không bằng con vật, vì nhiều con vật còn có tên, thậm chí tên đẹp, tên hay.

3. Thị vô gia cư, không người thân thích. Đành rằng nạn đói là chung cả thiên hạ. Nhưng với thị thì thật thê thảm.“Thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Việc thị theo không một người về làm vợ chỉ vì một câu hò vu vơ và mấy cái bánh đúc cho ta biết cái giá của thị rẻ đến thế nào. Nghe câu hò “thị ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” cũng chỉ vì đói, tưởng được “ăn cơm trắng với giò”. Vừa nghe nói “Muốn ăn gì thì ăn” thế là “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Chỉ thế cũng đủ biết tình cảnh thị khốn đốn, cơ cực ra sao. Cho đến khi “nhìn thị ngồi ngay giữa nhà” mà Tràng “vẫn ngờ ngợ như không phải thế”. Tràng ngờ ngợ vì “chỉ tầm phơ tầm phảo đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng”. Hóa ra hắn gặp may, lấy được vợ rẻ đến không ngờ, không tin là thật.

4. Sau khi thành vợ chồng, Kim Lân tập trung tái hiện lại sự thay đổi của các nhân vật. Dường như tất cả đều mới mẻ, tươi tỉnh và rạng rỡ hẳn lên trong một sớm mai. Nhưng rồi lại rất nhanh chóng chìm trong u tối, tủi hờn trước thực tại đói quay đói quắt. Ông đặc tả bữa cơm đầu tiên khi có con dâu mới. Một bữa“chè Khoán” nhưng thực ra là cháo cám đắng chát, nghẹn bứ. Nhìn bát cháo cám “hai con mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Bi kịch ở đây chẳng khác gì tình cảnh “Kép Tư Bền”.

5. Truyện hàm chứa nhiều ý nghĩa, đa chủ đề, nhưng theo tôi âm hưởng chính cất lên vẫn là âm thanh thê thảm của cuộc sống tận cùng đói khổ; là tâm trạng nhức nhối, xót xa, cay đắng, tủi hờn về thân phận con người, nhất là người phụ nữ trong cái thời lam lũ, cùng quẫn ấy. Nếu xác định âm hưởng chính của thiên truyện như thế thì sẽ thấy thị là nhân vật chính rất đáng chú ý; cần cho học sinh phân tích, trao đổi để đánh giá đúng vị trí, vai trò của nhân vật ấy.

Xem thêm:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang