Phân tích thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua hình ảnh các nhân vật Vũ Nương, Thúy Kiều và Kiều Nguyệt Nga
- Mở bài:
Trong tư tưởng Nho giáo có quy định, phụ nữ không có bất kì một quyền lợi hoặc quyền lực nào trong đời sống gia đình và xã hội. Khẳng định quan điểm giáo dục của mình, Khổng Tử từng cho rằng trong xã hội có hai loại người không thể giáo hóa được đó là hạng tiểu nhân và hạng đàn bà. Xuất phát từ tư tưởng đó, có biết bao nhiêu quy định khắc khe ràng buộc và siết chặt cuộc đời người phụ nữ, khiến cho đời sống của họ hết sức khổ cực, số phận của họ vô cùng bi đát. Những tiếng khóc than thê thiết còn in đậm mãi mãi trong các tác phẩm văn học vẫn còn lưu truyền đến nay trong Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ), Truyện Kiều (Nguyễn Du) và Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu).
- Thân bài:
Trước hết, họ bị tước đoạt mọi quyền lợi. Họ không được xã hội thừa nhận và hoàn toàn bị phụ thuộc vào đàn ông. Thân phận người phụ nữ như chiếc lá khô trên cành, như hoa trôi trên nước, như ngọn gió vô danh thầm lặng thổi qua cuộc đời không ai hay biết.
Có thể thấy trong xã hội phong kiến nước ta, rất nhiều người phụ nữ không được gọi tên chính thức, cái khẳng định sự tồn tại của họ trên thế giới này. Lúc nhỏ, họ được gọi là cái tên tục. Lớn lên lấy chồng họ thường được gọi theo tên của chồng. Khi con đã lớn, họ thường được gọi theo tên của con trưởng. Bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ khắt khe “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một nam là có, mười nữ xem như không có).
Xã hội phong kiến lại đặt ra cho họ những điều luật khắt khe cần phải tuân thủ. Trong đó Tam tòng tứ đức là điều luật khắt khe nhất. Tam Tòng (ba điều phải làm theo) được quy định khá rõ ràng: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Có nghĩa là khi còn ở nhà bố mẹ, phải nghe lời cha. Khi đi lấy chồng phải nghe lời chồng. Nếu chồng mất sớm phải ở vậy nuôi con suốt đời. Còn tứ đức (bốn đức tính cần phải có) cũng hết sức chặt chẽ.
Người phụ nữ chuẩn mực trong xã hội phải hội tụ hoặc rèn luyện được đủ bốn đức tính căn bản: công (đảm đang việc nhà), dung (tư dung tốt đẹp), ngôn (ăn nói chuẩn mực), hạnh (giữ gìn tiết hạnh khả phong). Bốn đức tính ấy tuy đúng đắn nhưng trong hoàn cảnh nào đó lại trở thành điều ràng buộc,gây biết bao phiền phức đối với người phụ nữ.
Thực hiện “tam tòng tứ đức”, các nhân vật nữ đều biết giữ trọn đạo nghĩa, thực hiện chu toàn bổn phận của mình.
Rõ nét nhất ở nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương. Vũ Nương khi về làm vợ Trương Sinh đã biết giữ gìn gia phong hết sức chuẩn mực. Dù Trương Sinh là người có tính hay ghen, lại là người đa nghi, tính tình thô lỗ, nàng cũng chưa từng vì lòng hẹp hòi mà dẫn đến gia đình bất hòa hay để sảy ra điều tiếng. Đó là người phụ nữ đảm đang và đức hạnh, biết giữ lễ nghi và thực hiện bổn phận của mình một cách đúng đắn. Nàng chịu nhận thiệt thòi về mình để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Tấm lòng nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó của Vũ Nương cũng là tấm lòng của biết bao người phụ nữ Việt Nam xưa nay.
Nhân vật Thúy Kiều cũng vì chữ hiếu mà lưu lạc khắp nhân gian, trải qua 15 năm đoạn trường khốc liệt. Sinh ra trong gia đình gia giáo, Thúy Kiều cũng đã tuân thủ nguyên tắc ấy hết sức nghiêm ngặt. Dù đang ở tuổi yêu đương nhưng nàng rất biết giữ gìn khuôn phép, ít đi ra ngoài, sợ điều tai tiếng làm ảnh hưởng đến gia phong.
Ở nhân vật Kiều Nguyệt Nga, khi được Lục Vân Tiên cứu thoát khỏi tay bọn cướp, Kiều Nguyệt Nga đã giải bày về gia cảnh và bổn phận làm con:
“Làm con đâu dám cãi cha
Ví dàu nghìn dặm, đường xa cũng đành”
Có thể thấy, xã hội phong kiến đã đặt ra cho người phụ nữ những trách nhiệm vô cùng nặng nề, ràng buộc họ trong bổn phận nữ nhi thường tình. Những điều luật ấy vừa giúp họ có định hướng để sống và hành động đúng đắn nhưng cũng trở thành mối ràng buộc chôn chân họ trong thân phận nhỏ bé, không thể sống đúng với chính mình như cuộc sống vốn có.
Người phụ nữ là lớp người phải chịu những bất công ngang trái, bị sỉ nhục vùi dập và chà đạp một cách tàn bạo của xã hội phong kiến bất nhân. Cuộc đời và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ở bất kì thời đại nào cũng được con người quan tâm. Đặc biệt nền văn học thế kỷ XVIII, hàng loạt các tác phẩm có giá trị lên tiếng bênh vực ca ngợi người phụ nữ. Ở họ có đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp, xứng đáng có được cuộc sống gia đình hạnh phúc. Thế nhưng hoàn cảnh trái ngang đã khiến cho cuộc đời họ đầy đau thương, đẩy họ vào bước đường cùng không lối thoát.
Chỉ với thói hay ghen và hành động thiếu suy nghĩ mà Trương Sinh đã khiến cho Vũ Nương phải lấy cái chết để chứng minh mình trong sạch. Cái chết của Vũ Nương có sức mạnh cảnh tỉnh những người chồng ngu muội, vô tình, vô nghĩa như Trương Sinh.
Cái chết của nhân vật Vũ Nương cũng là tiếng nói phê phán nghiêm khắc xã hội phong kiến bất công tàn bạo, bức ép, đẩy con người vào bước đường cùng không lói thoát. Chi tiết hồn Vũ Nương trở về trên bến sông, nói lời từ biệt rồi từ từ biến mất có ý nghĩa là xã hội phong kiến đã không còn chỗ cho những người phụ nữ tốt đẹp như nàng
Cuộc đời và số phận của nhân vật Thúy Kiều lại là một tấm bi kịch khác, khổ đau và tủi nhục gấp nhiều lần hơn thế. Nàng có tài năng và sắc đẹp ấy là một núm hàng quý giá, đã ra sức chiếm hữu và khai thác nó một cách tàn bạo, khác cho cuộc đời Thúy Kiều hết lần này đến lần khác bị đẩy vào bi kịch hết sức khốc liệt. Kết thúc câu chuyện, Thúy Kiều được đoàn viên với gia đình. Thế nhưng, cuộc đời này từ đó cũng không còn ý nghĩa gì nữa.
Tất cả danh dự nhân cách nhân phẩm của nàng đã bị xã hội ấy hủy hoại. Sự sống của nàng chẳng qua là làm theo ước muốn của người thân mà thôi.
Ở nhân vật Kiều Nguyệt Nga, tuy không đi vào bước đường cùng như Vũ Nương và Thúy Kiều nhưng bóng dân của xã hội phong kiến bao trùm lên cuộc đời nàng hết sức rõ nét. Sức mạnh bao trùm của nó quyết định hành động và tư tưởng của nàng và gần như mọi hành động của nàng đều hướng đến thực hiện bổn phận của mình.
Tuy bị vùi dập, chà đạp, bức hại nhưng ở người phụ nữ vẫn luôn tỏa sáng nhưng vẻ đẹp tuyệt vời, vốn có của họ. Có lẽ, các tác giả đã dành những trang văn, trang thơ hay nhất để ca ngợi vẻ đẹp hình thức và phẩm chất tâm hồn.
Vũ Nương được giới thiệu là một người phụ nữ thùy mị nết na, lại thêm tư suy tốt đẹp. Không những thế nàng là một người vợ thủy chung, sâu sắc, một người mẹ đảm đang tận tụy, một người con dâu hiếu thảo nghĩa tình. Nàng tự giác thực hiện các bổn phận của mình và xem đó là nguồn sống, nguồn hạnh phúc.
Ở nhân vật Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, kết hợp với tâm hồn thanh cao, tấm lòng hiếu nghĩa vô bờ bến sẵn sàng hi sinh và người thân yêu đã khiến nàng trở thành biểu tượng của các lần vẻ thực và tâm hồn của con người. Nguyễn Du đã hết sức chú trọng và trân trọng khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều. Ông đã tôn vinh tài sắc của nàng đến mức độ chưa từng có ở trên đời. Tình yêu của nàng đối với Kim Trọng và tấm lòng hiếu nghĩa của nàng đối với cha mẹ có thể lây động đến trời xanh. Có thể nói Thúy Kiều là nhân vật đẹp nhất trong văn học từ xưa đến nay.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga cũng được miêu tả là người có sắc đẹp hiếm có và tấm lòng hiếu nghĩa có ai sánh bằng. Tình cảm của nàng đối với Lục Vân Tiên lại hết sức cao thượng và trong sáng, là sự kết hợp giữa tình yêu, tấm lòng tri ân và cả tinh thần thần tượng người anh hùng. Tác giả cũng đã giành cho Kiều Nguyệt Nga những câu thơ hay nhất, say đắm nhất được ca ngợi và tôn vinh người phụ nữ trong xã hội.
Có thể nội trong dòng văn học đương đại, hình ảnh người phụ nữ là hình ảnh trung tâm tập trung sự phản ánh. Dù bị chèn ép, bị khinh miệt nhưng họ vẫn tỏa sáng bằng cái đẹp vốn ở họ. Viết về thân phận người phụ nữ, các tác giả đã thể hiện sự cảm thông và trân trọng sâu sắc đối với lớp người nhỏ bé, khổ đau trong xã hội, lên tiếng phê phán tố cáo và đã kích xã hội phong kiến bất nhân tàn bạo đã chà đạp lên nhân cách, nhân phẩm của con người, đồng thời ca ngợi phơi bày nhưng vẻ đẹp vốn có và sức sống mãnh liệt của người phụ nữ trước khó khăn thách thức khắc nghiệt của cuộc đời.
- Kết bài:
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã được các tác giả khắc họa bằng ngòi bút nhân đạo cao cả. Mỗi tác phẩm là một bài ca đầy vang vọng khẳng định giá trị của người phụ nữ, thể hiện khát vọng sống, đòi quyền sống và quyền làm người của họ. Mỗi nhà văn là một nhà nhân đạo có trái tim bao dung và cái nhìn sáng suốt thấu rõ vào từng số phận con người.
- Suy nghĩ về cái chết đầy oan nghiệt của nhân vật Vũ Nương
- Qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, hãy phân tích nỗi thương nhớ của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
- Suy nghĩ về số phận đau thương của nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam xương”
- Cảm nhận về nhân vật Lục Vân Tiên và nhân vật Kiều Nguyệt Nga trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”