Phân tích tình cảm thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ của người cán bộ về xuôi trong bài thơ Việt Bắc: “Ta với mình, mình với ta…. Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
- Mở bài:
Việt Bắc là khúc hát ân tình của nhân dân Việt Bắc và người cán bộ về xuôi. Lấy bối cảnh chính phủ kháng chiến rời căn cứ Việt Bắc trở về thủ đô Hà nội, nhà thơ Tố Hữu đã viết nên một bài thơ hết sức cảm động về tình cảm quân dân khăng khít. Cả người đi kẻ ở đều luyến lưu, bịn, rịn, không nỡ rời xa. Người ở lại gửi lời dặn dò mến thương. Người ra đi thầm hứa một lòng thủy chung với quá khứ nghĩa tình ấy. Tình cảm thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ của người cán bộ về xuôi trước tấm chân tình của nhân dân Việt Bắc được thể hiện rõ ràng qua đoạn thơ:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
……………………….
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
- Thân bài:
Nếu ở phần đầu bài thơ là lời của người ở lại gửi người cán bộ về xuôi hãy nhớ lấy, giữ lấy quá khứ nghĩa tình và tấm lòng chân thật, gắn bó, thủy chung của nhân dân Việt bắc thì đến đây, bài thơ biểu hiện tấm lòng của người ra đi một lòng son sắt:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Người kháng chiến đạp lại bằng một lời khẳng định tình cảm trước sau như một. Câu thơ “ta với mình, mình với ta” ngắt nhịp 3/3, “mình” và “ta” như hình ảnh phản chiếu của nha, luôn gắn bó thủy chung. Đại từ “mình” , “ta” hoán đổi vị trí cho nhau, khéo léo và tinh tế. “Mình” và “ta” có sự chuyển hóa, hai mà như một, trong ta có mình, trong mình có ta, thống nhất hào hợp.
Lời tâm tình của người ra đi:
“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình báy nhiêu”
Câu thơ “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình báy nhiêu” vừa là cấu trúc so sánh vừa là cấu trức tăng tiến như muốn nhân mạnh, khẳng định nghĩa tình của người ra đi với Việt Bắc vô cùng sâu nặng. Nguồn nước kia không bao giờ cạn thì nghĩa tình của người kháng chiến với Việt Bắc sẽ không bao giờ dứt.
Chỉ qua bốn câu thơ, người cán bộ cách mạng đã bày tỏ và khẳng định tình cảm của mình với với Việt Bắc. Đó là tình cảm thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ trước ân tình mà Việt Bắc dành cho cách mạng.
Tiếp tục mạch thơ, nhà thơ đã khắc hạo vẽ đẹp của thiên nhiên và con người ở mảnh đất Việt Bắc. Những hình ảnh hiện lên trong dòng hồi tưởng đều chứa đựng nỗi nhớ niềm thương tha thiết:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lữa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngoài Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Hình ảnh so sánh “nhớ gì như nhớ người yêu” diễn tả mức độ sau sắc mãnh liệt của nỗi nhớ. Bởi vì, không có nỗi nhớ nào sao sánh được với nỗi nhớ của những người đang yêu, như ca dao từng có câu;
“Đêm nay ngồi dưới ánh trăng
Thương cha nhớ, nhớ mẹ không bằng nhớ em”
Nỗi nhớ được thể hiện ở nhiều tầng bậc hết sức sinh động. Có khi nõi nhớ hiện hữu cùng bước đi thời gia: “trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya”. Có khi nỗi nhớ trải ra khắp không gian: “bản khói cùng xương – bếp lữa- rừng nưa- bờ tre- ngoài Thia – sông Đáy- suối Lê…” . Từ nỗi nhỡ thiết tha ấy, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp êm đềm thơ mộng, con người cũng đáng mến, đáng yêu. Chỉ có những người gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có những cảm nhận sâu sắc và thấm thía về Việt Bắc đến như vậy.
Trong nỗi nhớ của người ra đi, những kỉ niệm tiếp tục được khơi gợi. Có lẽ hình ảnh sâu đậm trong nỗi nhớ vẫn là những con người trên mảnh đất này. Họ bình thường, giản dị mà anh hùng, thủy chung:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đấp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Điệu con lên rẫy bẽ từng bấp ngô”.
Từ “những” gợi tả chi tiếc cụ thể, chân thực của cuộc sống thời chống Pháp, Tố Hữu đã sáng tạo nên những hình ảnh thơ có sức khái quát hơn. Nhà thơ đưa người đọc trở về những ngày kháng chiến đầy gian khổ, thiếu thốn. Hiện thực đó chỉ càng làm ngời sáng tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ của quân và dân ta:
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bác cơm sẽ nước chăn sui đáp cùng”
Câu thơ gợi lại một thời quá khứ cơ cực gian nan mà thấm thiết ân tình giữa đồng bào Việt Bắc và cáng bộ kháng chiến. Họ sẵn sàng chia sẻ cho nhau từng bát cơm, từng mảnh chăn sui để ấm lòng trong những ngày gian khó. Nghĩa tình cách mạng chân thành, cảm động ấy là nguồn sức mạng làm nên chiến thắng vĩ đại sau này. Đó cũng chính là vẻ đẹp của nhân dân ta, vốn có truyền thống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
Trong ký ức của người ra đi vẫn luôn ghi nhớ một hình ảnh rất cảm động. Đó là hình ảnh của bà mẹ của quê hương Việt Bắc:
“Nhớ người mẹ nắng lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”
Ý thơ gợi liên tưởng hình ảnh bà mẹ Tây Nguyên trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Măt trời của mẹ, em nằm trên lưng”
Tố Hữu là nhà thơ viết nhiều và viết hay về những bà mẹ Việt Nam. Người mẹ Việt Bắc không chỉ hiện là thân cho một miền quê mà còn ẩn dụ cho vẻ đẹp của dân tộc, của đất nước. Ở đây, hình ảnh người mẹ vất vả, lam lũ, tần tảo hiện lên như một biểu tượng đẹp cho tấm lòng yêu thương, đức hi sinh và đôi bàn tay lao động cần cù của nhân vật Việt Bắc. Họ đã góp phần không nhỏ vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
Nhớ về Việt Bắc người ra đi như được sống lại với những ngày tháng chiến đấu đầy gian nan, thử thách mà vẫn phơi phới niềm vui:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều”
Chày đêm nên cối đều đều suối xa….”
Đó là những lớp học xóa nạn mù chữ, mang ánh sáng văn hóa đến cho đồng bào Việt Bắc. Và hoạt động văn nghệ với “đồng khuya đuốc sáng” để liên hoan mừng tin thắng trận kháng chiến dù gian khổ nhưng quân và dân ta vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào ngày mai chiến thắng. Trong nỗi nhớ da diết của người ra đi, cái âm thanh đọng lại chính là tiếng mõ rừng chiều và tiếng chày giã gạo bằng sức nước gợi lên cuộc sống bình dị và khung cảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc.
- Kết bài:
Đoạn thơ được viết bằng thể thơ lục bát truyền thống giàu nhạc,giọng điệu thơ tâm tình ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc. Từ xưng hô “mình ta” thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa người cán bộ cách mạng và Việt Bắc. Tấm lòng thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ của người cán bộ về xuôi trước tấm chân tình của nhân dân Việt Bắc được thể hiện thật cảm động qua nỗi nhớ miên man. Cội nguồn sau xa của tình cảm đó chính là tình cảm yêu qua hương đất nước, niềm tự hào về truyền thống ân nghĩa, đạo lý thủy chung của dân tộc Việt Nam.