gia-tri-truyen-ngan-hai-dua-tre-cua-thach-lam

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Phân tích truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

  • Mở bài:

Thạch Lam là nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn. Truyện của Thạch Lam thường có cốt truyện rất đơn giản, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, chứa đựng tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước cảnh vật và lòng người. Văn Thạch Lam trong sáng giản dị, mà thâm trầm sâu sắc. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trích trong tập truyện “Nắng trong vườn” (1938 ) là một tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn của Thạch Lam.

  • Thân bài:

Truyện Hai đứa trẻ viết về cuộc sống tối tăm, nghèo nàn của những người lao động nghèo ở một phố huyện nhỏ bé, tăm tối. Chị em Liên và An được cha mẹ giao cho trông nom một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Cũng như những người dân phố huyện, chị em Liên vừa bán hàng, vừa trông chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội về. Chuyến tàu đêm mang một chút ánh sáng của Hà Nội, ầm ầm chạy vượt qua rồi im tiếng trong màn đêm sâu thẳm. Phố huyện và chị em Liên chìm vào bóng đêm và giấc ngủ yên tĩnh.

Tác phẩm bộc lộ niềm cảm thương chân thành của Thạch Nam đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ờ phố huyện nghèo trước Cách Mạng và trân trọng ước mong đôi đời tuy còn mơ hô của họ. Hai yếu tố hiện thực và trữ tình luôn đan cài, xen kẻ nhau, thấm đượm tình nhân ái. Thạch Lam có khả năng đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật một các. Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương. Đọc truyện, trước hết chúng ta có ấn tượng về cuộc sống lụi tàn, tù túng của những kiếp người sống nghèo đói, quấn quanh, không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở ra bắt đầu là một buổi chiều tàn rồi đi dần vào đêm khuya ớ một phố huyện nghèo nhỏ bé xa xôi. Bắt đầu là cảnh lúc chiều xuống. Thời gian vân động từ chiều tàn đến đêm xuống rồi về khuya. Không gian thu hẹp dần, yên tĩnh và êm đềm, cùng với những âm thanh gợi nỗi niềm xao xác. Đặc biệt, không gian nghệ thuật là không gian bóng tối. Ánh sáng le lói, hiếm hoi, bóng tối tràn lan, dày đặc nhấn chìm, phủ mờ cảnh vật, đè nặng lên cuộc đời của những con người bé nhỏ. Không gian, thời gian gợi nỗi buồn sâu lắng, mênh mông,

Không gian được cảm nhận bằng thính giác. Tiếng trống thu không từng tiếng một vang ra, tiếng ếch nhái kêu vang, tiếng muỗi vo ve. Những âm thanh đơn điệu, tẻ nhạt trong một không gian vắng lặng. Cảnh vật tiếp tục được nhìn nhận bằng thị giác: Phương tây đỏ rực như lửa cháy, đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. So sánh màu sắc mang tính chất tả thời khắc ngày tàn.

Sau cùng, bức tranh phố huyện nghèo được cảm nhận bằng cảm giác. Cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào trong hồn, lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Một nỗi buồn len lỏi thấm sâu vào trong tâm hồn. Cảnh phố huyện lúc chiều tàn vắng vẻ, đìu hiu được cảm nhận bằng nhiều giác quan khác nhau, được quan sát ở nhiều góc độ: xa gần, vừa cụ thể vừa mơ hồ, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với thiên nhiên.

Trong cảnh xác xơ tiêu điều và ngập đầy bóng tối là những cuộc đời lặng lẽ trong bóng tối. Ở đây, Thạch Lam đã dựng nên bức tranh đời sống chân thật và thấm đượm cảm xúc trữ tình, đã gây nên cảm giác buồn thương day dứt trong lòng người đọc: cuộc đòi những con người nghèo nơi phố huyện. Đó là những con người nghèo khổ, lam lũ, sống lay lắt, đắm chìm trong bóng tối.

Hình ảnh hai chị em Liên và An được nhà văn khắc họa đơn sơ nhưng để lại ấn tượng đậm nét. Bởi gia đình sa sút, hoàn cảnh đổi thay, chị em Liên phải sớm mưu sinh lam lũ nhưng có tâm hồn đẹp, luôn khao khát vươn lên trong cuộc sống. Hai chị em tuy còn nhỏ nhưng phải giúp mẹ lo liệu trông coi cửa hàng từ sáng đến tối để tìm kế sinh nhai. Cuộc sống của chị em Liên tuy có đỡ cơ cực hơn những đứa trẻ khác nhưng cũng hết sức đơn điệu, buồn chán và hiu quạnh.

Sau một thời gian chị em Liên dần dần hoà nhập với cuộc sống tẻ nhạt nơi huyện nhỏ. Trước hết là quen với bóng tối. Lúc đầu còn buồn, sau quen dần và cuối cùng là chấp nhận nó trong cuộc sống của mình. Chị em Liên cảm nhận “một mùi âm âm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá… tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này “.

An ngây thơ, biết nghe lời. Cậu rất thèm chơi đùa với những đứa trẻ, thèm những li nước xanh đỏ. Đó là những khao khát tự nhiên. Nhìn lũ con nhà nghèo mà động lòng. Liên giàu tình yêu thương, hiếu thảo, đảm đang. Cô bé có đời sống nội tâm phong phú. Những suy nghĩ riêng của Liên làm nên chất thơ cho truyện. Tác giả kể tỉ mỉ những tâm trạng, nghĩ suy của Liên. Đêm tối ngập đầy đôi mắt cửa Liên. Khi trời về chiều Liên ngồi im lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, bổng dưng thấy cái buồn cửa một ngày tàn thấm thía vào tâm hồn. Liên thích ngồi im lặng ngắm nhìn hàng quán trong đêm. Về khuya, Liên ngồi im lặng trong đêm, đón chờ con tàu cho đến khi tàu đi vụt qua thì Liên mới ngập dần vào giấc ngủ.

Đêm nào hai chị em cũng cố thức cho tới giờ xe lửa đi qua. Không phải để chờ bán được hàng, cũng không phải chỉ để nhìn những toa tàu lấp lánh ánh sáng mà có cái gì sâu hơn nhiều đối với hai đứa trẻ. Chuyến tàu như một niềm an ủi, một nỗi khát khao, một mơ ước không bao giờ tắt. Ánh sáng đoàn tàu lướt qua mang lại một chút tươi sáng cho sự sống tối tăm, nghèo khổ. Khi tàu đến, “Liên dắt em đứng dậy” . Khi tàu đi xa, Liên và em cứ nhìn theo cho đến khi cái chấm nhỏ của chiếc đèn treo khuất sau rặng tre.

Tàu đi rồi thì Liên im lặng không đáp lời em. Liên lặng theo mơ tưởng. Liên nhớ về Hà Nội xa xăm, Liên so sánh thế giới con tàu vừa mang đến với thế giới của chị Tí, bác Siêu đang sống càng đen tối bao bọc xung quanh đất quê và ruộng đồng mênh mông. Liên liên hệ cuộc đời của mình như chiếc đèn của chị Tí chỉ sáng một vùng đát nhỏ. Liên khao khát chờ con tàu đêm vì nó như đem lại cho Liên một chút thế giới khác hẳn cái vầng sáng cửa chị Tí và bác Siêu. Con tàu đưa đến cho Liên những khoảnh khắc bừng sáng, hấp dẫn, một cái gì sôi động, sang trọng hơn, vui vẻ, huyên náo hơn của Hà Nội.

Ngày nào cũng vậy nhịp sống của chừng ấy những con người vẫn tiếp diễn một cách buồn tẻ đơn điệu. Đã thành thói quen, chị em Liên kiên nhẫn chờ đợi một chuyên tàu đêm từ Hà Nội ầm ầm lăn bánh vút qua rồi khuất dần im tiếng trong trời đêm sâu thẳm họ mới dọn hàng. Chị Tí, ngày đi mò cua bất tép, tối dọn hàng bán nước. “Khi trời nhá nhem tối là thấy mẹ con chị xuất hiện”. Thằng cu Xẻ xách điếu đóm và khiêng hai cái ghé trên lưng ớ trong ngõ đi ra… Tối đen chị mới dọn hàng bán nước. Cái gọi là cửa hàng, cái cơ nghiệp của chị có thể mang vác dễ dàng, vì nó quá nhỏ bé, quá ít ỏi. Tuy chẳng kiếm được bao nhiêu “ôi chao sớm với muộn có ăn thua gì” nhưng chị vẫn phải bán.

Bác Siêu với gánh phở. Gánh hàng rong của bác Siêu xuất hiện lúc chập tối và gánh về lúc nửa đêm. Tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt mỗi lúc bác Siêu gánh đi, gánh về.Bác Siêu cũng không bán được cho ai vì đó là món ăn quá xa xỉ đối với con người nơi phố huyện.

Cuộc đời bác Xẫm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, bám sát mặt đất trong bóng tối. Trước mặt là cái thau sắt trắng. Tiếng đàn héo hắt lọt thỏm trong bóng tối. Bác Xẫm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất. nghịch nhặt những rác bấn. Cái gia đình ấy phải sống bằng nghề bán tiếng hát và quỳ gối cầu xin sự thương hại của mọi người.

Trong phố huyện nghèo ấy, còn có những đứa trẻ khác. Chúng đứng lặng lẽ trong bóng tối. Chúng lom khom trên mặt đất lại tìm tòi… Chúng nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được cửa những người bán hàng để lại. Cuộc đời của những đứa trẻ chìm ngập trong đói khát, sự cô đơn đáng sợ.

Đó là những thân phận nhỏ bé, sống lay lắt, chật vật mưu sinh, quẩn quanh trong nghèo túng. Nhưng họ vẫn chăm chỉ, hiền lành, nhẫn nại, lặng lẽ chia sẻ, quan tâm nhau. Cuộc sống con người nơi phố huyện hiện ra trong bần cùng, cơ cực, nghèo nàn, buồn tẻ. Chừng ấy những con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày.

Hình ảnh chuyến tàu đêm qua phố có lẽ là một điểm nhấn táo bạo mà nhà văn đã cố công mang tới trong tác phẩm. Trước khi đoàn tàu xuất hiên, phố huyện yên lặng, đầy bóng tối. Khi đoàn tàu xuất hiên từ những báo hiệu đầu tiên: Đèn ghi đã ra kia rồi, tiếng còi xe lừa ở đâu vang lại, một làn khói bừng sáng giang lên đàng xa, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ.

Chuyến tàu đến với tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường, những toa hành khách trên sang trọng, lố nhố người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng. Ánh sáng và âm thanh phá vỡ sự tĩnh mịch trong đêm tối của phố huyện, đem lại sự huyên náo khác thường.

Trong khắc khoải lo toan, chị em Liên vẫn kiên nhẫn đợi đoàn tàu di qua dù đã rất buồn ngủ. Đối với chị em Liên: để hồi tưởng về Hà Nội – quá khứ hạnh phúc, được sống trong “một thế giới khác”, thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ, tù túng hiện tại. Đối với dân phố huyện: để có được một dư vị, dư âm khác lạ, “ tươi sáng hơn sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Đoàn tàu được miêu tả từ xa đến gần rồi lại từ gần đến xa, bàng nhiều giác quan và sắc thái cảm giác khác nhau. Đoàn tàu “đã mang một chút thê giới khác đi qua”– một thê giới thật đáng sống với sự giàu sang và rực rỡ ánh sáng, sự huyên náo của thế giới thị thành. Khi đoàn tàu đi qua, phố huyện lại chìm trong bóng tối và sự nghèo nàn vốn có.

Đoàn tàu đã đưa phố huyện ra khỏi cảnh sống tù đọng, u uẩn – dù chi trong chốc lát. Chờ đợi đoàn tàu là nhu cầu, là niềm vui và hi vọng – dẫu còn mơ hồ – về một ngày mai tươi sáng, là khát vọng sống mãnh liệt trong tâm hồn những con người nghèo khổ. Thạch Lam đã thể hiện một cách nhìn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng về người lao động nghèo bằng tình cảm và tấm lòng nhân hậu của mình.

Chuyến tàu đêm với ánh sáng rực rõ, chói lên rồi vụt biến mất trong bóng tối gợi lên mơ ước và hoài niệm đẹp đẽ về một thế giới sáng rực, vui vẻ, huyên náo. Đem đến một thế giới khác tung bừng, huyên náo và đầy ánh sáng, làm thay đổi hẳn khung cánh tối tăm nơi phố huyện. Chuyến tàu mang đến hy vọng, ước mơ đổi đời của những con người nghèo khổ nơi phố huyện, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp.

Với cốt truyện đơn giản, ít nhân vật, ít hành động và sự kiện nhưng đầy suy tư của nhân vật; ngôn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng, yếu tố hiện thực và lãng mạn đan cài vào nhau, gọng văn nhẹ nhàng, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng đã giúp nhà văn biểu đạt thành công cuộc sống lặng lẽ, hiu hắt, tàn tạ nơi phố huyện nghèo.

Tác phẩm thể hiện nhẹ nhàng mà thấm thía niềm thương cảm, xót xa trước những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh, đặc biệt là trẻ thơ, trân trọng những ước mơ bình dị mà tha thiết – tuy còn mơ hồ – của họ. Qua tâm trạng nhân vật Liên, Thạch Lam như muốn lay tỉnh những tâm hồn đang lụi tắt hãy cố vươn tới một cuộc sống có ý nghĩa, một tương lai tốt đẹp hơn. Tác phẩm cũng là bài ca về thiên nhiên đất nước: miêu tả bức tranh quê hương gần gũi, thơ mộng, gợi nhắc tình cảm nguồn cội, quê hương với những kí ức đẹp mà buồn của mỗi người.

  • Kết bài:

Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của thạch Lam, ta thấy đằng sau vẻ chân chất, dung dị lại là sự tinh vi, sâu sắc, rất đúng với phong cách Thạch Lam. Đi vào tác phẩm của Thạch Lam là đi vào thế giới tâm tình. Tình tiết của truyện đơn sơ nhưng chính những cảm nghĩ chân thành của nhà văn đối với những mảnh đời khốn khó khiến cho người đọc xúc động. Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét: Truyện “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quá vãng, đồng thời cũng đánh động một cái gì còn ở trong tương lai… Nơi cái thế giới quan của một đôi trẻ ở một phố quê. Hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ” thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín.

Bài văn tham khảo:

Phân tích ý nghĩa truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

  • Mở bài:

Thạch Lam là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX. Ông là người đôn hậu và đa cảm, có biệt tài về truyện ngắn. Truyện ngắn Thạch Lam chú trọng khai thác thế giới nội tâm nhân vật một cách tinh tế với lời văn giản dị, trong sáng. Mỗi tác phẩm của Thạch Lam được ví như những bài thơ trữ tình, với giọng điệu điềm đạm chứa đựng tình cảm yêu mến và sự nhạy cảm trước những biến đổi của thiên nhiên và lòng người. Hai đứa trẻ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn của Thạch Lam

  • Thân bài:

Hai đứa trẻ được trích trong tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938). Truyện xoay quanh cuộc sống của chị em Liên ở nơi phố huyện. Chị em Liên được mẹ giao trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu tại một phố huyện nghèo bên cạnh ga xe lửa. Cũng như nhiều người dân lam lũ tại phố huyện, hai chị em Liên và An vừa bán hàng vừa trông chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội về, ầm ầm lăn bánh qua phố huyện rồi khuất dạng, im tiếng trong trời đêm sâu thẳm. Lúc đó người buôn bán ở phố huyện mới dọn hàng sau một tối ế ẩm, yên tĩnh để trở về nhà. Còn hai đứa trẻ dần dần chìm vào giấc ngủ.

Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, nhất là những người phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm lặng, chịu đựng, giàu lòng hi sinh. Ông chắt chiu từng hình ảnh, con người mà ông đã bắt gặp rồi đưa vào những trang viết vừa chân thực vừa hết sức cảm động.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh phố huyện lúc chiều tàn được gợi lên bằng câu văn vừa nhẹ nhằng, vừa lắng sâu nỗi buồn: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.

Bắt đầu bằng âm thanh của “tiếng trống thu không vang lên để gọi buổi chiều”, với “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng” và “tiếng muỗi vo ve”. Màu sắc và đường nét đầy xung đột của khoảnh khắc ngày tàn: “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, dãy tre đen lại in lên nền trời. Bức tranh quen thuộc, gần gũi, thi vị nhưng đượm buồn.

Khung cảnh cuộc sống nơi phố huyện nghèo và tâm trạng của Liên khi hoàng hôn buông xuống. Toàn bộ bức tranh hiện lên qua hình ảnh phiên chợ tàn. Kết thúc buổi chợ chiều, người về hết, tiếng ồn ào không còn, chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị. Kho gian bốc lên cái mùi ẩm móc quen thuộc của rác, của cống rãnh.

Phố huyện lúc đêm khuya, bóng tối bao trùm lên tất cả. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối. Tối hết cả con đường ra song, qua chợ về nhà. Các ngõ vào làng lại càng sẩm đen hơn nữa…

Trong thế giới của bóng tối ngự trị, ánh sáng lóe lên đâu đó ít ỏi nhưng mạnh mẽ. Trên trời, hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh. Dưới đất, vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây. Cả phố huyện chỉ có một vài thứ ánh sáng yếu ớt. Ánh sáng lóe lên từ khe sáng của những cửa hàng còn thức, quần sáng thân mật của ngọn đèn chị Tí, từng hột sáng của ngọn đèn nhà Liên…

Ánh sáng nhỏ bé, đơn điệu, mong manh càng làm cho bóng tối dày đặc hơn (nghệ thuật lấy sáng để tả tối của Thạch Lam). Phố huyện ngập chìm trong bóng tối mênh mông.

Hình ảnh con người hiện lên hiu hắt. Những đưa trẻ con nhà nghèo luẩn quẩn quanh góc chợ. Mẹ con chị Tí dọn quán nước, vơi cho cụ chồng bác Xẫm đìu hiu, cụ Thi hơi điên… Cuộc sống nơi phố huyện hiện lên tàn lụi, nghèo đói, tiêu điều.

Chiều nào, chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”. Tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa nấu phở – món hàng xa xỉ với người dân phố huyện. Gia đình bác Xẩm xuất hiện trên manh chiếu với cái thau trước mặt, góp chuyện bằng “máy tiếng đàn bầu bần bật trong im lặng”. Chị em Liên bận rộn tính tiền hàng. Người nhà cụ Thừa, cụ Lục đi gọi người đánh tổ tôm.

Những động tác quen thuộc, nhịp sống quen thuộc đã làm nên cuộc sống ở đây. Nhịp sống của người dân phố huyện cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt. Tuy thế những người dân phố huyện vẫn “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”

Ngay trong không gian ấy, tâm trạng Liên cũng có nhiều thay đổi. Ngay khi hoàng hôn buông xuống, cô thấy lòng buồn man mác trước cái thời khắc của ngày tàn. Liên cảm nhận được “cái mùi riêng của đất nước, của quê hương này”. Cô động lòng thương cảm cho mấy đứa trẻ con nhà nghèo, xót thương cho mẹ con chị Tí, lo lắng cho cụ Thi… Chi tiết ấy cho thấy, Liên là cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Ở cô bé có một lòng trắc ẩn lớn lao, yêu thương con người tha thiết.

Trong bóng tối, cô nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội: “bấy giờ, mẹ Liên nhiều tiền, được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ … một vùng sáng rực và lấp lánh”. Liên buồn bã, yên lặng dõi theo những cảnh đời nhọc nhằn, những kiếp người tàn tạ. Tuy còn bé nhưng Liên có những cảm nhận sâu sắc về cuộc sống từ đọng trong bống tối của người dân phố huyện. Tâm hồn cô nhạy cảm, tinh tế và yêu thương con người.

Hai đứa trẻ kiên nhẫn, khắc khoải đợi tàu. Mặc dù đêm đã khuya, dù đã “buồn ngủ ríu cả mắt, tuy vậy hai chị em vẫn gượng thức khuya chút nữa: “An đã nằm gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sữa rơi xuống còn nhắn với: tàu đến, chị đánh thức em dậy nhé”. Chuyến tàu đến trong sự háo hức say mê của hai đứa trẻ. Nó lướt qua trong sự buồn lặng, bâng khuân nuối tiếc của Liên và An.

Đoàn tàu đi qua phố là hình ảnh ấn tượng nhất trong truyện. Dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu là sự xuất hiện của người gác ghi. Tiếp theo, Liên trông thấy “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”. Rồi cô nghe thấy “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, kèm theo “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xe, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào”. Thế rồi, “tàu rầm rộ đi tới”, “các toa đèn sáng trưng”, “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh”. Cuối cùng là cảnh tàu đi vào đêm tối, “để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”…

Chuyến tàu được miêu tả tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng mong chờ của chị em Liên và người dân phố huyện. Với chị em Liên: chuyến tàu mang đến hình ảnh của Hà Nội (xa xăm, sáng rực, vui vẻ và huyên náo), của hạnh phúc, của những kí ức tuổi thơ êm đềm. Với tất cả những người dân phố huyện: chuyến tàu là biểu tượng của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của người dân phố huyện.

Thạch Lam đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng… Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực…

Cốt truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Bút pháp tương phản, đối lập kết họp với nghệ thuật miêu tả sinh động, Thạch Lam đã diễn đạt thành công những biến đổi tinh tế của cảnh vật và tâm trạng con người.

Ngôn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng, giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng, một đặc điểm thường thấy trong trang văn Thạch Lam.

Qua tâm trạng của chị em Liên, Thạch Lam muốn bộc lộ những ý nghĩ kín đáo, nhẹ nhàng nhưng thấm thía biết bao cho tâm hồn người đọc. Đó là tác giả muốn bày tỏ nỗi niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng, hạnh phúc. Trong xã hội cũ, có biết bao con người như thế. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt vô nghĩa, đến trong mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt qua phố huyện tiêu điều, lụi tắt của cuộc đời mình.

Cuộc sống của họ cũng sẽ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục ra” trong tăm tối đói nghèo, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra là trên đất nước lầm than nô lệ. Qua đó Thạch Lam đồng thời cũng muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn.

Thạch Lam đã khơi dậy ở họ ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ. Phải có sự thức tỉnh của “cái tôi” cá nhân mới có được niềm xót thương và sự lay tỉnh đáng quý ấy

  • Kết bài:

Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, bằng một truyện ngắn trữ tình có cốt truyện đơn giản, Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước cách mạng. Đồng thời, ông cũng biểu lộ sự trân trọng ước mong đổi đời dù còn mơ hồ của họ. Thạch Lam đã đặt tất cả trong một cái nhìn già dặn trước tuổi trong đôi mắt trẻ thơ. Điều ấy dường như từ tác phẩm đã vút lên tiếng kêu hãy cứu lấy những đứa trẻ; trả lại cho chúng sự hồn nhiên, vô tư vốn có, đừng biến chúng trở thành những kiếp người tàn.

Bài văn tham khảo:

Phân tích chất lãng mạn và hiện thực trong truyện ngắn Hai đứa trẻ

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp.

“Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. Lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ.

Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.

Bài văn tham khảo:

Phân tích tâm trạng hai chị em Liên khi đợi tàu

Một truyện ngắn hay theo quan niệm truyền thống phải có cốt truyện đặc biệt được tạo ra bởi những tình huống éo le đầy kịch tính. Không đi theo lối mòn đó, truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” của Thạch Lam chỉ là một chuyện tâm tình nhỏ nhẹ nhưng không vì thế mà ta có thể dễ dàng quên được tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên. Ngày lại ngày khi đêm về khuya, chuyến tàu từ Hà Nội về đi qua phố huyện vậy mà hai chị em Liên vẫn khắc khoải thao thức và nhẫn lại, hồi hộp chờ đợi được nhìn nó với bao vui buồn và hi vọng.

Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sáng tác của ông thiên về phản ánh hiện thực đời sống của tầng lớp người nghèo ở các phố huyện nhỏ và làng quê nghèo. Đọc những truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan”… nhất là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta dễ dàng nhận ra một lối viết thật tinh tế cùng tấm lòng rất mực nhạy cảm và nhân hậu. Ở đó, ông chủ yếu đi sâu thể hiện những xúc cảm mong manh mơ hồ trong thế giới nội tâm nhân vật vì thế truyện ngắn của ông còn được ví như “một bài thơ trữ tình đượm buồn”.

Câu truyện được bắt đầu với những xao động trong tâm hồn hai đứa trẻ khi nghe tiếng trống thu không gọi chiều về trên phố huyện. Tiếp đó, màn đêm buông xuống, bóng tối “ngập đầy dần đôi mắt Liên”. Đêm tối như ôm trùm lên tất cả phố huyện và càng dày đặc mênh mông hơn khi nhà văn điểm vào đó những “hột sáng”, “quầng sáng” leo lét, lờ mờ và một chấm lửa nhỏ lơ lửng trôi đi trong đêm… Nổi bật lên giữa thế giới đầy bóng tối và sự tàn tạ của cảnh vật: chiều tàn, chợ tàn, chõng tàn… là cảnh sống lam lũ quẩn quanh của những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên và hai chị em Liên và An với gian hàng tạp hoá còm cõi, lèo tèo, xơ xác. Cuộc sống của hai chị em thật lay lắt, tẻ nhạt, ngày cũng như đêm cứ lặp đi lặp lại thật đơn điệu và buồn chán. Hai em như hai cái mầm non mọc trên mảnh đất cằn cỗi, bạc phếch.

Nhưng con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vừng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố thức, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em nhé.”

Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”.

Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm. Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”. Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của cô bé Liên. Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ thường ngày của họ”.

Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy bóng tối.

Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày buồn tẻ.

Không một chi tiết éo le, truyện hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé, tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ trước cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát.

Trang sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta nhận ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông.

Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này.

Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc.

Bài văn tham khảo:

Phân tích cảnh phố huyện

Câu chuyện diễn ra trong một khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận ở cả hai chiều thời gian và không gian. Đó là khoảng thời gian rất ngắn, không gian có sự thay đổi từ cảnh chiều tàn cho đến khi màn đêm buông xuống và đất trời về khuya. Màu sắc của cảnh vật thì từ nhờ nhờ chuyển sang đen sẫm. Màu của cuộc sống ban đêm càng khuya càng tăm tối. Trên cái nền ấy nổi lên một số cảnh tình cứ xoáy mãi vào lòng người đọc. Đó là cảnh ngày tàn nơi phố huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, một góc chợ đơn sơ, một quán nước nghèo nàn, những kiếp người cơ cực và hình ảnh đoàn tàu vụt qua trong đêm tối.

Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày: Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây

đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hổn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

Các hình ảnh trên đều gợi cảm giác bâng khuâng, man mác.. Gọi là phố huyện nhưng là huyện nhỏ, hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi chứ không phải là một tháp canh. Cái chòi bé tí lại lẩn vào dãy tre làng đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.

Trong bức tranh chiều tàn nơi phố huyện có sự hoà trộn giữa hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Chẳng hạn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều là thơ mộng; còn tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve… thì đã gợi ra cuộc sống nghèo nàn nơi thôn dã.

Thật ra, cũng khó mà nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn thơ ngây của hai chị em lan tỏa ra, nhuốm vào cảnh vật. Chỉ biết ở đây có một cái gì đó thật nhịp nhàng, hòa hợp giữa cảnh với người.Đoạn văn mở đầu vừa giàu hình ảnh, nhạc điệu, vừa uyển chuyển, tinh tế. Nó không những khiến người đọc hình dung ra cảnh vật mà còn khơi gợi tình cảm, xúc cảm trước thiên nhiên gần gũi, bình dị của quê hương.

Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người chỉ là bóng tối và sự vắng lặng, quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn bộc lộ rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Đó là mặt trái, là một thứ bóng tối của chợ.Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào xu thế thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban ngày trước cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng mỗi lúc một mạnh của những cảnh tình ban đêm mà bóng tối dần dần ngự trị.

Mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Bóng tối mênh mang, phủ trùm lên tất cả cảnh vật và con người.Lúc còn tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng ấy không thể xua tan bóng tối, khiến những hòn đá nhỏ hãy còn một bên tối. Bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa thì bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo đến tận đàng xa. Chị em Liên ngồi trên chiếc chồng tre dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa. Trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối.

Bóng tối át cả ánh sáng. Vài ánh sáng thưa thớt, mờ nhạt khiến bóng tối lại càng dày đặc. Vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây, cũng như hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên liền trời… Thứ ánh sáng xa vời ấy là sản phẩm của đêm, hoà tan trong bóng đêm. Đáng chú ý là ngọn đèn le lói trên chõng hàng nước của mẹ con chị Tí, bếp lửa thấp thoáng nơi gánh phở của bác Siêu, ánh đèn yếu ớt trong quầy hàng của chị em Liên và từ cái đèn lồng trong tay người nhà hiệu khách, từ chiếc đèn ghi xanh lét của nhà ga. Ngọn đèn trên chõng hàng nước của chị Tí chỉ là một quầng sáng nhỏ nhoi giữa mặt đất ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật. Bếp lửa của bác Siêu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối, thoáng hiện, thoáng mất, chi làm cho bóng bác mênh mang. Ánh đèn trong cửa hàng chị em Liên thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng thì lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn. Chiếc đèn ghi thì lửa xanh biếc như ma trơi. Trong khi đó, chung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một bóng tối đen kịt, mênh mông, vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ làm cho bóng đêm thêm dày đặc, âm u.Trang sách nhuộm đầy bóng tối là để gắn vào cái khung tối tăm ấy những mảnh đời không kém tối tăm.

Trong cảnh ngày tàn, chợ tàn, hiện lên những kiếp người tàn tạ. Những kẻ kiếm Sống ban ngày với phiên chợ như mấy bà bán hàng về muộn, mấy đứa trẻ nhặt rác, chị em Liên. Những người kiếm sống ban đêm quanh góc chợ và sân ga xép như mẹ con chị Tí, bà cụ Thỉ, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm… Họ có chung cuộc sống tối tăm, nghèo đói, chung cảnh ngộ tẻ nhạt, buồn chán. Tuy vậy, trong tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tình quê hương và le lói một niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.

Sau khi phiên chợ chiểu đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi. Vào đêm thì có cuộc đời của mẹ con chị Tí với cái hàng nước đơn sơ. Ban ngày thì hai mẹ con mò cua bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi, điếu thuốc lào cho dăm ba phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục, có khi chờ mãi mà chẳng thấy ai ra. Hai mẹ con vừa xách, vừa vác trên lưng, vừa đội trên đầu… vậy mà chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén, chiếc điếu cày, nắm đóm… Thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè. Nước, thuốc đã sẵn sàng. Chị Tí luôn tay phe phẩy túm lá chuối khô, bất giác thốt lên nỗi nóng lòng sốt ruột trước cảnh ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? Dù rằng chị đã biết trước: Ối chao, sớm với muộn thì có ăn thua gì! Câu nói ngẫu nhiên mà giúp người đọc hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ cơn chị, đã cơ cực mà chi còn trông cậy vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng mấy hi vọng.

Nhưng mẹ con chị Tí vẫn có một chiếc ghế để ngồi, một ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác xẩm thì nằm ngồi ngổn ngang ngay trong chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơ để trước mặt. Im lìm như một gia đình bò sát, nếu không có mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện. Rồi sau đó không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên đất. Còn cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu (xị rượu), khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và tiếng cười khanh khách nhỏ dần.

Ba cảnh đời trên của lũ trẻ ven chợ, của mẹ con chị Tí, của gia đình bác xẩm đều bị bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó phủ lên đen ngòm. Sự thê thảm lồ lộ, chẳng ẩn giấu chút gì. Riêng bà cụ Thi vẫn có tiền uống rượu, vẫn nói năng ôn tồn, âu yếm với cô bé bán hàng nhưng rượu thì nốc một hơi, lại cười khanh khách, không biết vì duyên cớ gì? Đêm đêm, chỉ thấy bà từ trong làng đi ra rồi lại lẩn vào bóng tối phía làng. Oan ức gì chăng? Buồn khổ gì chăng? Không rõ, nhưng chắc chắn bóng tối đã đè nặng lên cuộc đời bà, góp thêm một hình ảnh vừa lạ lùng vừa đáng sợ vào những cảnh đời – bóng tối ỡ phố huyện này. Bác Siêu bán phở không xa nhưng cũng không gần các cảnh đời kia. Bác như dấu gạch nối giữa hạng người bần cùng với những hạng người khác trong phố huyện. Họ thấp thoáng ở nơi có người cầm đèn lồng đi đón bà chủ ở ga về, nơi có hội bài tổ tôm sát phạt nhau hàng chục bạc mà hạng người khốn khổ nằm mơ cũng không thấy nổi, nơi có lính tráng đánh trống thu không và mõ cầm canh. Cuộc sống khá giả của họ như tấm phông làm nổi bật những cảnh đói nghèo, như ánh sáng tương phản với bóng tối.Trong bối cảnh của truyện, nét nào cũng tối đen: lũ trẻ ven chợ như loài dơi chờ xẩm tối mới mò ra, tìm cái sống ở bất cứ cái gì người ta vứt đỉ. Mẹ con chị Tí hàng nước kiếm sống ở sự chờ đợi rủi may. Gia đình nhà xẩm hầu như sắp lẩn mình vào đất. Bà cụ Thi hơi điên chứa chất một góc tối om trong sâu kín tâm hồn. Nlhập chung lại thì toàn là những cảnh đời – bóng tối. Liệu còn le lói chút uớc mong nào không? Khung cảnh phố huyện giờ đây thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi ở đó còn có ngọn đèn tù mù, trong khi cả phố tối om. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ của họ.Trong bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hoà trộn đầy dụng ý giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng thì chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng,… mà bóng đêm thì vừa dày đặc vừa mênh mông. Tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa. Tối đến mức dường như tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống cầm canh của phố huyện tưởng chừng cũng không vang lên được. Điều này khiến người đọc phần nào hình dung ra những kiếp sống chìm khuất, mỏi mòn gần như bị bỏ quên nơi ga xép của phố huyện nghèo nàn, đồng thời gợi một niềm thương cảm sâu xa.

Chất hiện thực và lãng mạn trong truyện ngắn Hai đứa trẻ“Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng. Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy kkóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”.

Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn ‘‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sông để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nới phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết vể chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc “bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt cua Liên.Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sông cùa cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành dộng tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận,

săn tìm một tín hiệu vui.Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi “, nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơa nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình nhưng lại thấm đượm nghệ thuật hiện thực.

Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ để thấy rõ phong cách riêng, độc đáo của nhà văn TL.
Cách dựng truyện.
Đây là loại truyện tâm tình, truyện không có truyện, không khai thác mâu thuẫn căng thẳng dồn nén, tích tụ mà đi sâu vào những chi tiết bình dị, đời thường.

+. Thời gian ngắn: một khoảnh khắc chiều tà và vào đêm.

+. Không gian nhỏ hẹp: một góc phố huyện nghèo nàn, hẻo lánh.

+. Thế giới nhân vật ít.

Chi tiết đơn giản không có gì: cả truyện chỉ là những tâm tư, cảm xúc của những đứa trẻ nghèo tạo nên những ám ảnh, day dứt về cuộc sống nghèo nàn đơn điệu của xã hội Việt Nam trước cách mạng trong đó số phận con người nhỏ bé, đáng thương.

+. Cái đơn điệu, tẻ nhạt của cuộc sống ấy được cảm nhận qua bức tranh thiên nhiên Cảnh chiều: buồn tàn lụi (phân tích)

+. Cảm giác tiêu điều về cuộc sống: chợ tàn (phân tích).

+. Hình ảnh con người nơi đây: tác giả không miêu tả nhiều chỉ cần một vài phiến ảnh

nhưng cũng đủ làm nổi bật hình ảnh những kiếp người lay lắt, nhỏ bé, đang phải sống cuộc sống buồn tẻ, đáng thương:

Chị Tí Bác Siêu Bác Xẩm

Bà cụ Thi điên

Tiền cảnh là chị em Liên

Văn TL không cần những mâu thuẫn gay gắt, nóng bỏng, không khiến cho lòng người phải uất ức, căn hờn. Văn TL chỉ cần những chi tiết, hình ảnh bình dị, chân thực nhưng gợi lên nỗi xót thương về cuộc sống không lối thoát, về những kiếp người nhỏ bé, đáng thương.
2.  Thủ pháp tương phản: ánh sáng và bóng tối.
Câu chuyện mở ra trong lúc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối:

+. Ánh sáng nhạt dần, yếu ớt không đủ soi tỏ cuộc sống xung quanh.

+. Bóng tối dần chiếm lĩnh, bao phủ toàn tác phẩm.

→ tạo nên nỗi ám ảnh về một cuộc sống tối tăm, tù đọng. Con người thật nhỏ bé trước vũ trụ.

Trong bóng tối, ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu thực sự có ý nghĩa (phân tích). Nó đã đánh thức tâm hồn con người: khao khát một sự đổi thay, khao khát về một cuộc sống khác có ý nghĩa hơn.

→ Bóng tối tương phản với ánh sáng chính là một thành công độc đáo của tác phẩm. Nó góp phần thể hiện chủ đề của thiên truyện.

3.  Khả năng miêu tả những rung động mong manh, tinh tế trong tâm hồn con người
Cảm giác mong manh mơ hồ như cánh bướm non, xúc cảm trong sáng tinh tế trong tâm hồn con người: diễn biến tâm trạng của Liên.
Trong buổi chiều quê buồn thấm thía, Liên cảm nhận được từng bước đi của thời Cái lặng lẽ, man mác của buổi chiều quê như thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị:

+. Tiếng trống… nhịp thời gian trôi chảy.

+. Tiếng ếch nhái… cảm giác thân thuộc với cảnh đồng quê.

+. Mùi vị đất cát quê hương…mùi riêng.

→ Chỉ bằng vài nét chân thực đã khơi gợi được cảm giác thân quen của con người Việt. TL đã miêu tả diễn biến tâm trạng hết sức tinh tế tạo sức gợi trong lòng người đọc.

Giữa cái mênh mông, yên lặng của quê hương Liên thả tâm hồn mình mơ tưởng tới vũ trụ xa xanh với bầu trời đêm huyền bí đưa Liên trở về với quá vãng chưa xa thật êm đềm. Đó là giây phút lòng người neo đậu những cảm xúc thật yên tĩnh.

+. Xúc cảm của Liên hướng tới việc chờ đợi đoàn tàu. Những trang viết miêu tả tâm trạng thật tinh tế (phân tích ngắn gọn tâm trạng Liên chờ tàu).

Hấp dẫn trong những trang văn của TL là ở khả năng khơi gợi những rung động tinh tế như thế trong tâm hồn con người. Tác phẩm của TL đậm đà tình cảm và rất giàu chất thơ, không phải ai cũng dễ dàng có được những trang văn tinh tế như thế nếu không xuất phát từ

tấm lòng nhân hậu với cuộc sống, với con người.

4.  Văn TL đẹp như thơ: ngữ điệu nhỏ nhẹ, thủ thỉ, câu văn giàu hình ảnh, nhạc điệu ru hồn người tạo nên những xúc cảm tinh tế mà trong sáng.
Quên làm sao được những trang văn miêu tả chiều quê đẹp thế. Nhịp điệu chậm rãi, êm ả, tạo ấn tượng mơ hồ về một quá vãng. Điều đó thể hiện tâm hồn gắn bó rất sâu với quê hương, với ruộng đồng. Nó đã gióng lên trong tâm hồn con người một nỗi niềm tha thiết “Chừng ấy con người trong bóng tối…của họ”.
Văn đẹp như thơ góp phần thanh lọc tâm hồn con người, khiến cho những rung động mơ

hồ trở nên thấm thía hơn.

Hai đứa trẻ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của TL. Đó là một bài thơ trữ tình xót xa. Với những gì mà TL đã thể hiện, HĐT sẽ sống mãi trong lòng người đọc, giúp chúng ta biết nâng niu quí trong cái đẹp, dù nhỏ nhoi ở xung quanh ta, làm tâm hồn ta trong sáng hơn.

Câu 1: Tại sao trong tác phẩm“Hai đứa trẻ”, hai chị em Liên đêm đêm lại thức đợi đoàn tàu từ Hà Nội về? Ýnghĩa?
Hai chị em Liên đêm đêm lại thức đợi đoàn tàu từ Hà Nội về vì cuộc sống mà hai đứa trẻ sinh sống là một cuộc sống nghèo khổ,lãm lũ,tù đọng,đơn điệu,tẻ nhạt. Dường như ngày nào cũng vậy,từ chập tối cho đến nửa đêm,lúc nào Liên cũng chị thấy lặp đi lặp lại những hình ảnh quen thuộc (chị Tí,bác Siêu,bác Xẩm…). Chừng ấy người ngồi trong bóng tối dưới những thứ đèn leo lắt đang chờ đợi một cái gì đó tươi sang hơn sự sống nghèo khổ hang ngày củahọ. Tất cả những điều đó đã hối thúc chị em Liên tìm đến ánh sáng đoàn tàu từ Hà Nội về như một sự giải thoát.
Ý nghĩa: Ánh sáng đoàn tàu vụt qua phố huyện với“các toa đèn sáng trưng” là nỗi khát khao chờ đợi của Liên.Đó là ánh sáng của khát vọng,của ước mơ về một cuộc sống tươi mới hơn,đẹp đẽ hơn,ánh sáng của nhu cầu tinh thần được sống dù trong một khoảnh khắc. Đó cũng là tình cảm nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam,nhà văn luôn tin tưởng vào khả năng vươn dậy của nhân vật.
Câu 2: Trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam miêu tả đếnnhững loại ánh sáng nào? Ý nghĩa?
Nhà văn miêu tả các loại ánh sáng:
Ánh sáng từ “ngọn đèn con” của hàng nước mẹ con chị Tí; chấm lửa nhỏ từ gánh phở bác Siêu; ngọn đèn của Liên “thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa.”
Ánh sáng đoàn tàu vụt qua phố huyện với “các toa đèn sáng trưng” là loại ánh sáng rực rỡ nhất,được mọi người trông đợi nhất.
Ý nghĩa:
Ánh sáng ngọn đèn con của chị Tí trở đi trở lạinhiều lần và đi vào giấc ngủ của Liên như một ám ảnh tâm lí.Đó là ánh sáng biểutrưng cho cuộc sống thực tại,mòn mỏi,lay lắt,quẩn quanh, nhỏ nhoi đầy bế tắc,buồnchán của chị em Liên,..; cho kiếp người vô danh,vô nghĩa,sống lam lũ,vật vờ…trongcái đêm tối mênh mông của XH cũ.
Ánh sáng đoàn tàu vụt qua phố huyện với “các toa đèn sáng trưng” là nỗi khát khao chờ đợi của Liên.Đó là ánh sáng của khát vọng,của ước mơ về một cuộc sống tươi mới hơn,đẹp đẽ hơn,ánh sáng của nhu cầu tinh thần được sống dù trong một khoảnh khắc.
Đó cũng chính là tình cảm nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam,nhà văn luôn tin tưởng vào khả năng vươn dậy của nhân vật.
Câu 3: Trong tác phẩm “Hai đứatrẻ”, Thạch Lam viết: “Chừng ấy người ngồi trong bóng tối đang trông đợi mộtcái gì đó tươi sáng hơn sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.” “Chừng người ấy”là ai? Họ đang trông đợi điều gì? Ý nghĩa?
“Chừng người ấy” là: hai chị em Liên và An, chị Tí, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm…
Họ đang trông đợi: chuyến tàu đêm từ Hà Nội về ngang qua phố huyện với cái không khí ồn ào,náo nhiệt cùng các toa đèn sáng.
Ý nghĩa:
Ánh sáng của đoàn tàu vụt qua phố huyện với “các toa đèn sáng trưng” là nỗi khát khao chờ đợi của Liên và của người dân nghèo nơi phố huyện.Đó là ánh sáng của khát vọng,của ước mơ về một cuộc sống tươi mới hơn,đẹp đẽ hơn,ánh sáng của nhu cầu tinh thần được sống dù trong một khoảnh khắc.Đó là niềm khao khát được vượt ra khỏi sự tù

túng,ngột ngạt để vươn tới cuộc sống khác tốt hơn.

Đó cũng chính là tình cảm nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam,nhà văn luôn tin tưởng vào khả năng vươn dậy của các nhân vật.Dù cuộc sống quẩn quanh,đơn điệu,bế tắc nhưng họ vẫn không ngừng hy vọng vào tương lai tươi sáng.
Câu 4: Cuối tác phẩm “Hai đứa trẻ” là hình ảnh nào đọng lại trong tâm trí của Liên? Ý nghĩa?
Cuối tác phẩm “Hai đứa trẻ” là hình ảnh nào đọng lại trong tâm trí của Liên là hình ảnh chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.
Ý nghĩa:
Ánh sáng ngọn đèn con của chị Tí trở đi trở lại nhiều lần và đi vào giấc ngủ của Liên như một ám ảnh tâm lý.
Đó là ánh sáng biểu trưng cho cuộc sống thực tại:mòn mỏi,lay lắt,quẩn quanh,nhỏ nhoi đầy bế tắc,buồn chán nản của chị em Liên…;cho kiếp người vô danh,vô nghĩa,sống lam lũ,vật vờ…trong cái đêm tối mênh mông của XH cũ.
Niềm đồng cảm sâu sắc của nhà văn đối với số phận con người,đặc biệt là số phận những người nông dân trước năm 1945. Đồng thời đó cũng chính là tình cảm nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam,nhà văn luôn tin tưởng vào khả năng vươn dậy và sức sống của nhân vật.


  • Câu hỏi luyện tập:

1. Cảnh vật trong truyện đã được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào?
2. Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống và hình ảnh người dân phố huyện ra sao?
3. Hình ảnh đoàn tàu trong truyện đã được miêu tả như thế nào? Vì sao chị em Liên và người dân phố huyện thức để đợi tàu? Ý nghĩa của chuyến tàu đêm?
4. Qua truyện ngắn hai đứa trẻ, Thạch Lam muốn phát biểu tư tưởng gì?
5. Phân tích cảnh đợi tàu trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
6. Cảm nhận của anh/chị về khung cảnh phố huyện và tâm trạng Liên lúc chiều tà
7. Vì sao có thể nói truyện ngắn “Hai đứa trẻ” giống như một “bài thơ trữ tình đượm buồn”?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang