phan-tich-ve-dep-buc-tranh-tu-binh-trong-bai-tho-viet-bac

Phân tích vẻ đẹp của bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc: Ta về, mình có nhớ ta…. Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung 

Vẻ đẹp của bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc: “Ta về, mình có nhớ ta…. Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.  

Gợi ý làm bài:

* Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, vấn đề

* Thân bài: Phân tích đoạn thơ:

* Nội dung:

Mùa đông, sới sắc xanh bao la của rừng núi điểm những bông hoa chuối đỏ tươi như bó đuốc sáng rực xua đi sự lạnh lẽo, hiu hắt của núi rừng, thắp lên ngọn lửa ấm áp, mang lại ánh sáng hơi ấm cho nơi đây. Con người trước thiên nhiên bao la của núi rừng trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn với hoạt động phát nương, làm rẫy.

Mùa xuân,hoa mơ nở trắng rừng làm bừng sáng cả khu rừng làm bừng sáng, dịu mát tâm hồn người Con người đan nón, chuốt từng sợi giang, một vẻ đẹp tình nghĩa được thể hiện qua bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút, cần mẫn vào từng sản phẩm lao động.

Mùa hè, rừng phách đổ vàng, màu vàng rực của thiên nhiên dường như chuyển đột ngột qua từ “đổ” hòa quyện với tiếng ve kêu dường như cảnh sinh động, có hồn và tưng bừng hơn. Con người: Hình ảnh cô gái hái măng một mình đã lột tả được vẻ đẹp của sự cần mẫn, chịu thương chịu khó của con người nơi đây.

Mùa thu, ánh trăng dịu nhẹ, huyền ảo gợi không khí thanh bình, yên ả. Con người: Con người hiện lên với tiếng hát “ân tình thủy chung” với bao tình cảm, ân tình sâu sắc với cách mạng

* Đánh giá:

– Nội dung: Bức tranh tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được kết hợp hài hòa dưới ánh sáng của hoài niệm da diết không nguôi.

– Nghệ thuật: Thể thơ lục bát, cấu trúc đối đáp, lối xưng hô mình – ta.  Ngôn từ mộc mạc mà giàu sức gợi.

* Kết bài: Đánh giá, mở rộng vấn đề


Bài văn mẫu:

  • Mở bài:

Thành công của bài thơ Việt Bắc không những là ghi lại một cách chân thực và cảm động tình cảm lưu luyến, bịn rịn trong phút chia tay của cán bộ về xuôi và nhân dân Việt Bắc mà còn làm nổi bậc vẻ đẹp thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc. Tố Hữu đã khắc họa rất thành công bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc:   

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

  • Thân bài:

Đoạn thơ là lời giải bày của nỗi nhớ của người ra đi. Nhớ chiến khu Việt Bắc là nhớ “những hoa cùng người”; nhớ thiên nhiên đầy hương sắc và âm thanh; nhớ con người Việt Bắc sâu đậm, tình nghĩa:

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc. Khi nhớ người thì hiện lên bóng hoa, khi nhớ hoa thì hiện lên bóng người. Có thể nói đây là đoạn thơ đẹp nhất trong thi phẩm Việt Bắc. Bốn cặp lục bát đã tạo nên một bức trang tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc cân xứng và hài hòa. Ở mỗi cặp lục bát, đan cài sau mỗi dòng “nhớ” cảnh là một dòng “nhớ” người. Lúc nào, thiên nhiên cũng làm phong nền cho sự xuất hiện của con người.

Mùa đông Việt Bắc hiện lên với sắc xanh rừng thẳm và hoa chuối đỏ giữa đại ngàn cùng con người lao động khở khoắn:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao, nắng ánh dao gài thắc lưng”

Giữa màu xanh bát ngát của rừng già, nổi bật lên màu sắc rực rỡ của bông hoa chuối đỏ tươi. Màu đỏ nồng ấm ấy xua tan cái lạnh lẽo của núi rừng, làm ấm cả không gian và ấm cả lòng người. Rừng núi, nơi chiến khu và hoang sơ vừa mang vẽ đẹp diễm lệ.

Trên bức tranh thiên nhiên hiền hòa và tươi tắn xuất hiện hình ảnh con người trên đất đèo cao đầy nắng với gió ánh nắng chan hòa khấp nơi phản chiếu lấp lánh trên chiếc dao người đi rừng. Đó là con người trong tư thế lao động với vóc dáng mạnh mẽ, tự tin, làm chủ núi rừng và mang đậm chất miền núi. Hình ảnh con người với tư thế vững chãi khỏe khoắn đã trở trành trung tâm của bức tranh thiên nhiên.

Mùa xuân Việt Bắc tươi đẹp với sắc mở trắng rừng và người lao động bình dị:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đang nón chuốt từng sợi giang”

Mùa xuân sang thiên nhiên khoát tấm ái mới, vạn vật sôi nảy nở, tràn đày sức sống, cả núi rừng ngập tràn hoa mơ trắng. Đó là sắc trắng diệu dàng và tinh khiết. Không gian thơ mộng và thanh thoát đến kỳ lạ

Động từ “nở” tạo nên sức sống từ bên trong đang tràn đầy. Hai tiếng trắng rừng làm bừng sáng cả núi rừng khởi sắc trắng của hoa mơ. Trong bài “theo chân Bác”  Tố Hữu đã từng viết : “Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”

Nỗi nhớ về mùa xuân gắn liền với hình ảnh với người đan nón chuốt từng sợi giang. Đôi bàn tay lao động khéo leo, tỉ mỉ và tài hoa của người Việt Bắc được gợi lên thật tinh tế qua động từ “chuốt”.

Vào mùa hè được cảm nhận bằng thính giác và thị giác:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.

Bức tranh mùa hè không chỉ có màu sắc ánh sáng mà có cả âm thanh tiếng ve. Tiếng ve ngân vang, khách núi rừng rộn rã. Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm thiên nhiên thay chiếc áo mới. Cả rừng phách đồng loạt trổ hoa vàng rực rỡ đay là bức trang sơn mài được vẽ bằng hoài niệm. “Đổ” là cách dùng từ rất tinh tế, nhấm mạnh sự chuyển màu nhanh chóng kỳ lạ, đồng thời nói lên sự bừng sáng tươi tắn của thiên nhiên.

Giữa thiên nhiên rực rỡ, hình ảnh con người hiện lên bình dị và đáng yêu biết máy. Đó là cô em Việt Bắc trẻ trung, thầm lặng hái măng giữa rừng. Ba chữ “cô em gái” đã nói lên tình cảm thương mến, lưu luyến mà tác giả dành cho người Việt Bắc.

Cảnh sắc mùa thu Việt Bắc được cảm nhận qua ánh trăng rừng hiền hòa và tiếng hát ân tình, thủy chung:

“Mùa thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình chung thủy”

Câu thơ mở ra khung ảnh đêm trăng rất êm đềm. Ánh trăng thu trong trẻo rọi qua vòm lá tạo nên khung cảnh huyền ảo. Câu thơ gợi không khí thanh bình, êm ả. Từ lâu trăng chiến khu đã bén duyên với thơ ca cách mạng. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến ánh trăng trong thơ Bác: “Trăng lòng cổ thụ bóng lòng hoa”. Hình ảnh ánh trăng toát lên cái khát vọng hòa bình của dân tộc.

“Ai” là đại từ phím chỉ. Chữ “nhớ ai” thể hiện tình cảm yêu mến mà tác giả dành cho nhân dân Việt Bắc đã âm thầm che trở cho cách mạng suốt thời kỳ kháng chiến. Nhớ Việt Bắc là nhớ “tiếng hát ân tình thủy chung”. Hai chữ “nhớ ai” thể hiện tấm lòng yêu mến trân trọng và lòng biết ơn của tác giả đối với mảnh đất và con người Việt Bắc.

  • Kết bài:

Đoạn thơ được viết bằng thể thơ lục bát truyền thống giàu nhạc điệu. Giọng điệu thơ ân tình ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc. Hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn từ tinh tế, giàu sức gợi cảm. Sau mỗi câu thơ miêu tả thiên nhiên là một câu thơ đang xen diễn tả vẻ đẹp của con người. Con người gắn bó khăng khít với thiên nhiên, làm cho thiên nhiên càng đẹp, càng thêm sức sống. Con người hiện lên bình dị, đáng yêu như chính cuộc sống hồn hậu của con người miền núi thực thà, chất phác, ân tình, thủy chung.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang