tac-gia-nam-cao

Tác giả Nam Cao.

Tác giả Nam Cao.

Tác giả Nam Cao.

Cuộc đời.

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915. Ông sinh tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Nam Cao đã ghép hai chữ của tên tổng Cao Đà và huyện Nam Sang làm bút danh: Nam Cao.

Sinh ra và lớn lên ở một đất nước thuộc địa nửa phong kiến tăm tối và ngột ngạt. Làng Đại Hoàng – nơi ông sinh ra là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội ấy. Nằm ở một vùng xa phủ, huyện nên bọn cường hào chức dịch trong làng được dịp hoành hành. Nơi đây, hàng năm, thường xảy ra những vụ kiện tụng lẫn nhau giữa những bọn giàu có, nhiều thế lực, dẫn đến cảnh không ít những người nông dân phải rời bỏ làng quê đi tha phương cầu thực. Những sự việc có thực diễn ra ở đây đã được ghi lại trên trang sách của Nam Cao với dấu ấn nặng nề về một vùng quê đói nghèo và tăm tối.

Ông xuất thân từ một gia đình công giáo bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Đời sống khá chật vật, trong các anh em, chỉ có mình Nam Cao được đi học. Đói nghèo, bệnh tật theo đuổi Nam Cao ngay từ khi còn nhỏ.

Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Thi trượt Thành chung, Nam Cao theo một người cậu làm thợ may vào Sài Gòn kiếm sống. Rời bỏ cái làng quê nghèo đói và tù túng, Nam Cao mang theo nhiều mơ ước và dự định lớn lao. Nam Cao ấp ủ giấc mơ một ngày nào đó sẽ được sang Pháp để được nhìn rộng, biết nhiều, học cao hơn. Những tưởng những miền xa quê hương sẽ mở ra một chân trời mới lạ, nhưng rốt cuộc bệnh tật lại trả Nam Cao về với nơi chôn rau cắt rốn. Cũng là một người trí thức, Nam Cao ham hiểu biết và mơ ước được đi xa, tiếp xúc và học hỏi phương Tây. Nhưng xã hội mà Nam Cao sống đã bóp nghẹt mơ ước của người tri thức tiểu tư sản ấy và đẩy ông ta trở lại với cuộc sống quẩn quanh nơi làng quê đói nghèo, tù túng. Đây là lý do lý giải tại sao các tác phẩm của Nam Cao lại đi vào những chuyện vặt vãnh đời thường, những chuyện tưởng chừng như không muốn viết với những con người cũng hết sức đời thường hiện hữu xung quanh cuộc sống của nhà văn.

Nam Cao, sau khi trở về từ Sài Gòn, ông thi đậu Thành chung. Nam Cao định xin đi làm công chức, nhưng vì bệnh tật nên không được chấp nhận. Một người trong họ hàng của Nam Cao mở trường tư ở Hà Nội (trường tư thục Công Thanh, Thụy Khuê, Hà Nội) cần một giáo viên có bằng trung học, Nam Cao được mời lên dạy học. Cuộc sống của một thầy giáo khổ trường tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc thân phận của người tiểu tư sản trí thức nghèo trong một xã hội ngột ngạt, bế tắc. Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, trường bị đóng cửa, Nam Cao sống chật vật bằng nghề viết văn, làm gia sư, có khi thất nghiệp phải về quê ăn bám vợ.

Năm 1943, Nam Cao bí mật gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc cùng một số nhà văn như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi… Khi cơ sở Văn hoá cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về quê và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương.

Thời kỳ Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở Phủ Lý Nhân và được bầu làm chủ tịch xã. Sau đó ít lâu, Nam Cao được điều lên Hà Nội và công tác ở Hội Văn hoá cứu quốc. Có thời kỳ, Nam Cao được làm ở tòa soạn tạp chí Tiên phong – cơ quan của Hội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân tiến vào Nam Trung Bộ.

Năm 1946, ông lên Việt Bắc. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Cao vừa làm biên tập cho các báo Cứu quốc Việt Bắc, Cứu quốc trung ương, vừa làm mọi công việc của một cán bộ thông tin tuyên truyền với việc: viết tin, viết tài liệu giải thích các chính sách, làm ca dao tuyên truyền, viết truyền đơn địch vận…Tại chiến khu, năm 1948 Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.

Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sĩ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới.

Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành.

Nam Cao hy sinh ngày 28 tháng 11 năm 1951, khi đang làm nhiệm vụ của một người chiến sĩ cách mạng bảo vệ quê hương. Ông bị địch phục kích và bắn chết gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình) khi trên đường vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu Ba.

Con người.

Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói (ông tự giễu mình là có “cái mặt không chơi được”), nhưng đời sống nội tâm lại rất phong phú, luôn luôn sôi sục, có khi căng thẳng. Bình sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận, lấy làm xấu hổ về những việc làm, những ý nghĩ mà ông tự thấy là tầm thường của mình Người trí thức “trung thực vô ngần” (lời Tô Hoài) ấy luôn nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khao khát vươn tới “tâm hồn trong sạch và mơ ước tới cảnh sống, những con người thật đẹp”. Giá trị to lớn của sáng tác Nam Cao, nhất là những tác phẩm viết về người trí thức nghèo, gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, âm thầm mà quyết liệt trong suốt cuộc đời cầm bút của ông.

Nam Cao là người có tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Ông quan niệm, không có tình thương đồng loại thì không đáng gọi là người (Đời thừa). Đó chính là một trong những lí do dẫn Nam Cao đến với con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.

Cuộc đời lao động sáng tạo nghệ thuật vì lí tưởng nhân đạo và sự hi sinh anh dũng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của Nam Cao mãi mãi là tấm gương cao đẹp của một nhà văn chân chính. Năm 1996, Nam Cao đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Sự nghiệp văn học.

Các đề tài chính.

Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao được chia làm 2 giai đoạn chính, lấy cột mốc phân chia là năm 1945 trước và sau Cách mạng.

Ở giai đoạn thứ nhất, Nam Cao có sáng tác đăng báo từ năm 1936, nhưng sự nghiệp văn học của ông chỉ thực sự bắt đầu từ truyện ngắn “Chí Phèo” (1941). Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân ở quê hương.

Đề tài người trí thức:

Ở đề tài người trí thức, đáng chú ý là các truyện ngắn “Giăng sáng”, “Đời thừa”, “Những truyện không muốn viết”, “Mua nhà”, “Truyện tình”, “Quên điều độ”, “Cười”, “Nước mắt”,…và tiểu thuyết “Sống mòn”.

Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ, những “giáo khổ trường tư”, những nhà văn nghèo, những viên chức nhỏ, qua đó, đặt ra những vấn đề có tầm triết luận sâu sắc, có ý nghĩa to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Họ là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão, có tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý, nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Tập trung miêu tả và phân tích tình trạng “sống mòn” hay “chết mòn” cửa con người, Nam Cao đã phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời, thể hiện niềm khao khát một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu sắc, có ích và thực sự có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.

Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó, đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí thức, có ý nghĩa sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công, vô lý làm cho bị chết mòn về tinh thần. Những tác phẩm đó đã phê phán xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống và tàn phá con người. Đồng thời, chúng thể hiện sự vật lộn bên trong của người trí thức tiểu tư sản trong thực tế cố vươn tới một cuộc sống có ý nghĩa.

Đề tài người nông dân:

Không chỉ thành công trong sáng tác viết về trí thức, Nam Cao còn là cây bút xuất sắc về đề tài người nông dân. ông để lại chừng hai chục truyện ngắn viết về cuộc sống tối tăm, số phận bi thảm của người nông dân; tiêu biểu là các tác phẩm: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Dì Hảo”, “Lang Rận”, “Một bữa no”, “Một đám cưới”, “Mua danh”, “Điếu văn”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Tư cách mõ”, “Nửa đêm”; trong đó, “Chí Phèo” xứng đáng là một kiệt tác.

Ở đề tài nông dân, nhà văn quan tâm trước hết đến những kẻ cố cùng, bị ức hiếp nhiều nhất, những thân phận hẩm hiu, thiệt thòi nhất. Những con người ấy càng hiền lành nhịn nhục thì càng bị chà đạp phũ phàng, và ông càng đặc biệt quan tâm đến những trường hợp người nông dân bị lăng nhục một cách độc ác, bất công mà chẳng qua vì họ nghèo đói, khốn cùng. Bởi vậy, Nam Cao luôn bênh vực quyền sống và nhân phẩm những con người bất hạnh, bị xã hội đẩy vào tình cảnh nhục nhã đó (Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lang rận…).

Viết về những người nông dân bị lưu manh hoá, nhà văn đã kết án đanh thép và sâu sắc cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và linh hồn người nông dân lao động với bản chất vốn hiền lành. Nhà văn không hề bôi nhọ người nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ bị xã hội vùi dập, cướp mất cả nhân hình, nhân tính. Đồng thời, ông còn phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện đẹp đẽ của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập đến mất cả hình người, tính người. Chiều sâu mới mẻ của ngòi bút hiện thực và nhân đạo Nam Cao chính là ở chỗ đó. Tác phẩm của Nam Cao không những đã vạch ra nỗi khổ cùng cực của người nông dân mà còn thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý trong tâm hồn của họ (“Lão Hạc”, “Một đám cưới”, “Dì Hảo”).

Nhận xét:

Có thể nói, dù viết về người nông dân hay về người trí thức, vượt lên trên ý nghĩa cụ thể của đề tài, sáng tác của Nam Cao luôn chứa đựng một nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quát những quy luật chung của đời sống như vật chất và ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách,… Nam Cao luôn trăn trở về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người, luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo đã đày đoạ con người trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của họ; đồng thời cũng đau đớn vô hạn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị huỷ hoại cả nhân tính.

Ở giai đoạn sáng tác này, Nam Cao chưa tham gia phong trào cách mạng vì vậy các sáng tác của ông chủ yếu là cách hiểu, cách cảm riêng của nhà văn về thân phận con người trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Giai đoạn này, Nam Cao được đánh giá là một nhà văn hiện thực phê phán, một nhà nhân đạo chủ nghĩa.

Ở giai đoạn sáng tác thứ hai: năm 1945 ở Việt Nam là thời điểm lịch sử quan trọng đánh dấu sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà độc lập sau 87 năm chịu sự thống trị và đô hộ của thực dân Pháp. Nam Cao là một nhà văn chiến sĩ. Vì thế, sự kiện này đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng cũng như lập trường sáng tác của nhà văn. Từ năm 1943, Nam Cao đã tham gia vào phong trào Văn hoá cứu quốc cùng với một số nhà văn khác nên sau Cách mạng tháng Tám, ông lao mình vào mọi công tác cánh mạng và kháng chiến. Năm 1948, Nam Cao viết trên báo Cứu quốc: “Cuộc kháng chiến đã biến đổi hẳn cuộc sống của chúng ta, cuộc sống ở quanh ta, biến đổi từ y phục, ngôn ngữ, cử chỉ của từng người, biến đổi cả đến sự sinh hoạt tình cảm và tư tưởng” (“Vài ý nghĩ về văn nghệ”).

Trong nhiều bài bút kí (“Chuyện biên giới”,”Vài nét ghi qua vùng giải phóng”, “Trên những con đường Việt Bắc”,…), nhật ký (“Nhật ký ở rừng”), truyện ngắn (“Đôi mắt”), chúng ta đã thấy rõ những đổi mới lớn lao trong con người Nam Cao, khác với tâm trạng u tối, nặng nề của nhà văn trước Cách mạng. Chúng ta có thể bắt gặp trên từng trang giấy tâm trạng vui tươi, phấn khởi của một con người lạc quan và tin tưởng. Nếu như trước Cách mạng, Nam Cao dùng ngòi bút của mình để tố cáo những mặt đen tối của xã hội thực dân nửa phong kiến thì sau Cách mạng, trải qua thực tế đấu tranh, Nam Cao đã đi đến một quan niệm thực sự đúng đắn về nghệ thuật. Ông chỉ ra mối liên hệ khăng khít giữa nghệ thuật với quần chúng. Những tư tưởng Nam Cao trình bày trong các sáng tác thời kỳ này được đánh giá là “kim chỉ nam” về lập trường tư tưởng cho các nhà văn đương thời. Trên cơ sở những chuyển biến về thế giới quan và quan điểm nghệ thuật, con đường sáng tác của Nam Cao đã chuyển sang một bước phát triển mới. Từ một nhà văn hiện thực phê phán dần dần Nam Cao đã chuyển sang một nhà cách mạng. Ông tự nguyện làm người cán bộ tuyên truyền vô danh của cách mạng, có ý thức rèn luyện lập trường, tư tưởng tình cảm, khắc phục những sai lầm, hạn chế của thế giới quan cũ.

Sau Cách mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục viết về đề tài tiểu tư sản và tri thức. “Đôi mắt” là tác phẩm có giá trị trong giai đoạn sáng tác này. Thái độ của nhà văn trong Đôi mắt là thái độ phê phán kịch liệt những phần tử trí thức không chịu chuyển mình theo thời đại. Với Đôi mắt, Nam Cao đã đứng trên quan điểm của một người cách mạng để nhìn nhận và phê phán cái cũ trong con người trí thức. Bên cạnh “Đôi mắt”, “Nhật kí ở rừng” cũng là một tác phẩm có giá trị trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng của Nam Cao. Tác phẩm đề cao hình ảnh một người thanh niên tiểu tư sản sôi nổi nhiệt tình cách mạng. Người thanh niên ấy đã không ngừng phấn đấu và rèn luyện với một tinh thần lạc quan, tin tưởng để vươn lên theo kịp thời đại.

Cuộc đời và sự nghiệp văn học Nam Cao và Gorki đều là những cây bút trưởng thành trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động và thay đổi ở hai dân tộc, hai quốc gia châu Á. Bởi vậy, lẽ tất nhiên hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời đã có tác động không nhỏ đến sự nghiệp văn học của hai nhà văn.

Sau Cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954). “Nhật kí ở rừng” (1948), truyện ngắn “Đôi mắt” (1948), tập kí sự “Chuyện biên giới” (1950) là những tác phẩm có giá trị của văn xuôi thời kì đầu kháng chiến.

Quan điểm nghệ thuật

Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, đến Nam Cao, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945 mới thực sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của nó.

Khi mới cầm bút, Nam Cao chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Nhưng ông đã dần nhận ra thứ văn chương đó rất xa lạ với đời sống lầm than của nhân dân lao động và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Trong Giăng sáng (1942), ông phê phán thứ văn chương thi vị hoá cuộc sống đen tối, bất công, coi đó là thứ “ánh trăng lừa dối”; đồng thời yêu cầu nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật “tàn nhẫn”, phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân, vì họ mà lên tiếng.

Trong truyện ngắnĐời thừa” (1943), Nam Cao không tán thành loại sáng tác “chỉ tả được cái bề..ngoài của xã hội” và khẳng định: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”. Như vậy, trong quan niệm của Nam Cao, tư tương nhân đạo là một yêu cầu tất yếu đối với “một tác phẩm hay”, “một tác phẩm thật giá trị”. Nam Cao ý thức sâu sắc và đòi hỏi rất cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp của mình và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương” mà còn là “đê tiện”.

Sau Cách mạng, Nam Cao tích cực tham gia kháng chiến, sẵn sàng hi sinh thứ “nghệ thuật cao siêu của mình với ý nghĩ: lợi ích của dân tộc là trên hết. Tuy ấp ủ hoài bão sáng tác nhưng ông vẫn tận tuy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến với quan niệm “sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn (Nhật kí ở rừng, 1948).

Phong cách nghệ thuật.

Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là nhà văn có phong cách độc đáo. Nam Cao đặc biệt quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người trong con người” dù viết về người nông dân hay người trí thức. Ông quan niệm: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động. Bản tính cốt yếu của sự sống chính là cảm giác và tư tưởng. Cảm giác càng mạnh, càng linh diệu, tư tưởng càng dồi dào càng sâu sắc thì sự sống càng cao” (Sống mòn). Như vậy, Nam Cao luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài.

Với một quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông tỏ ra đặc biệt sắc sảo trong việc phân tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình tâm lí phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện với ác, giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật,…

Do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động. Mặt khác, cũng do yêu cầu miêu tả tâm lí mạch tự sự trong tác phẩm của ông thường đảo lộn thời gian và không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt vừa nhất quán, chặt chẽ. Ngòi bút Nam Cao cũng thường viết về cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh mà nhà văn gọi là khung truyện không muốn viết’? Từ những sự việc quen thuộc, thậm chí tầm thường trong đời sống hằng ngày, tác phẩm của Nam Cao đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn, thể hiện triết lí sâu sắc về con người, về cuộc sống và nghệ thuật.

Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thương chua chát; dưng dưng lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương,…

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hoá ở nửa đầu thế kỉ XX.

Vị trí của Nam Cao trong nền văn học Việt Nam.

Nam Cao khởi nghiệp từ lúc 22 tuổi với truyện ngắn “Cảnh cuối cùng” in trên “Tiểu thuyết thứ bảy” số 123 ngày 21 – 10 – 1936 với bút danh Thúy Rư. Chỉ từ khi tập truyện “Đôi lứa xứng đôi” (tên ban đầu của nó là “Cái lò gạch cũ” sau đổi lại thành “Chí Phèo”) ra đời với bút danh Nam Cao thì ông mới chính thức bước vào làng văn.

Trong bức tranh rộng lớn của nền văn chương Việt Nam, sáng tác của Nam Cao là những mảng nghệ thuật rất có ấn tượng trong lòng người đọc hơn thế kỉ qua. Đó còn là những dấu son nghệ thuật có sức tỏa sáng. Bởi vì, Nam Cao hơn ai hết đều hiểu sức mạnh của văn chương. Ông là nhà văn chân chính, tiến bộ, giàu tài năng nên đã lấy văn chương thức tỉnh con người, góp phần cải tạo xã hội.

Nam Cao có một vị trí đặc biệt, ông không chỉ là đại biểu xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945, mà còn là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Qua thử thách khắc nghiệt của thời gian, sự nghiệp văn học Nam Cao càng được khẳng định, càng thử thách lại càng ngời sáng. Tác phẩm của ông qua sự tiếp nhận của nhiều thế hệ đọc giả được phát hiện thêm nhiều tiềm tàng năng lượng, ẩn chứa lực hấp dẫn mạnh mẽ, tạo nên niềm say mê đồng cảm của hàng triệu trái tim. Những tác phẩm của Nam Cao phần lớn được sáng tác trước Cách mạng, đánh dấu bước phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong một thời kì tưởng chừng bế tắc. Là người đến muộn nhưng cây bút “biết đào sâu, biết tìm tòi”, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” này đã nhanh chóng trở thành lá cờ đầu của dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Có được thành công này là vì Nam Cao đã “có những chủ đề Nam Cao và có những nhân vật Nam Cao” (Lê Đình Kỵ).

Trước năm 1940, sáng tác của Nam Cao mang phong vị lãng mạn trữ tình. Từ năm 1940 trở đi, ngòi bút Nam Cao đứng hẳn về trào lưu hiện thực. Sau Cách mạng Tháng tám, Nam Cao tiếp tục sáng tác và tham gia hoạt động kháng chiến. Những tác phẩm hiện thực của Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội Việt Nam, nhất là cuộc sống của những người nông dân nghèo những năm 1940 – 1945. Viết về những chuyện đời thường, vặt vãnh của những lớp người lao khổ trong xã hội thực dân – phong kiến Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, những vấn đề mà tác giả đặt ra không bị bó hẹp bởi khuôn khổ không gian, thời gian ấy.

Qua những tuyên ngôn nghệ thuật, ví như “Chao ôi! Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than”… chúng ta hiểu Nam Cao là một nhà văn chân chính, luôn thấy rõ trách nhiệm của người cầm bút đối với con người, đối với xã hội, đất nước và dân tộc. Từ một nhà văn tiến bộ trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng của cách mạng, Nam Cao đã chiến đấu kiên định cho lý tưởng nghệ thuật cao cả của mình. Đóng góp lớn nhất của Nam Cao là cách tân, hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam.

Truyện ngắn của ông là thành tựu xuất sắc về phương diện thể loại. Tiểu thuyết của ông đạt đến đỉnh cao về thể loại mà vẫn đậm đà chất tự truyện. Ngôn ngữ, phong cách sáng tác của Nam Cao cũng là những thành công độc đáo. Văn nghiệp Nam Cao đã làm phong phú thêm những giá trị tinh thần trong đời sống con người, đánh dấu và khẳng định bước tiến của văn học dân tộc trên hành trình hiện đại hóa.

Mãnh liệt và cường tráng, ngay từ đầu, Nam Cao đã tự khẳng định vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam. Sáng tác của Nam Cao không chỉ có ảnh hưởng rộng lớn đến nhiều thế hệ nhà văn đương thòi, mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới tư tưởng và ý thức của con người trong xã hội hiện đại.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang