tinh-huong-truyen-doc-dao-cua-truyen-ngan-vo-nhat

Phân tích tình huống truyện độc đáo của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Phân tích tình huống truyện độc đáo của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.

– Trong truyện ngắn Vợ nhặt, tác giả đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn.

II. Thân bài:

Vai trò của tình huống trong truyện ngắn.

Tình huống là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt nào đó khiến cho bức tranh cuộc sống và tư tưởng của tác giả được bộc lộ rõ nét nhất. Tình huống truyện cũng bao hàm các mối quan hệ giữa nhân vật và môi trường sống, giữa các nhân vật với nhau…

Tình huống độc lạ, bất ngờ trong truyện Vợ nhặt.

– Tình huống truyện lạ, bất ngờ:

+ Vì người như Tràng hội tụ đủ các điểu kiện để “ế vợ”: nghèo túng, dân ngụ cư, vẻ ngoài xấu xí, thô kệch; nay bỗng dưng lấy được vợ, thậm chí là vợ theo không”.

+ Vì giữa thời buổi đói khổ cùng cực, người như Tràng nuôi thân chẳng nổi còn dám đèo bòng chuyện vợ con.

– Tình huống “nhặt vợ” giữa những ngày đói rét thê thảm vừa bất ngờ vừa éo le khiến cho tất cả những người chứng kiến đều ngạc nhiên, đều cảm thấy vui buồn trộn lẫn:

+ Những người dân xóm ngụ cư xôn xao khi thấy Tràng trở về cùng người đàn bà lạ. Họ tò mò, náo nức, quên cả cái đói. Những khuôn mặt hốc hác, u tối rạng rỡ hẳn lên“Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống” của họ. Nhưng từ đám đông, có cả những lời xót xa, ái ngại: “Ôi chao! Giời đất này mà còn đi rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.

Bà cụ Tứ – mẹ của Tràng cũng sửng sốt khi nhìn thấy “người đàn bà nào đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia”. Tràng phải giải thích cặn kẽ, tường tận, bà lão mới hiểu ra cơ sự. Dẫu “mừng lòng” vì con trai mình đã có vợ, bà cụ vẫn không nén được bao nỗi xót thương, buồn tủi, lo âu.

Ngay bản thân Tràng, cũng bàng hoàng khi nhìn cô vợ nhặt ngồi ngay giữa nhà “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”

– Tạo dựng tình huống truyện độc đáo ấy, Kim Lân không chỉ mang đến sức hấp dẫn cho cốt truyện mà còn bộc lộ được thân phận của những con người cùng khổ. Đó cũng là cái nền để nhà văn tô đậm những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn họ và phơi bày thực trạng xã hội đương thời:

Lên án, tố cáo thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, khiến con người rơi vào thân phận rẻ mạt. Việc trăm năm của đời người mà rẻ rúng đến tội nghiệp. Cuộc hôn nhân không cưới hỏi, không có nổi mâm cơm cúng gia tiên, cả nhà còn phải ăn cháo cám.

Tiếng nói khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người. Đó là tình mẹ thương con, tình người thương người – không tàn lụi kể cả khi con người bị đẩy đến bên bờ vực của cái chết. Bà cụ Tứ xót thương cho con trai; thương cho cả người con dâu “nhặt được”. Bà mở lòng, đón nhận người phụ nữ đói rách, xa lạ vào gia đình mình: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”Anh nông dân nghèo khổ, lam lũ, thô kệch vẫn dành cho người vợ nhặt được tình cảm yêu thương chân thành, ấm áp.

+ Ngợi ca khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc tiềm ẩn trong tâm hồn người lao động. Ngay trong cảnh cùng khổ, Tràng vẫn khát khao có một tổ ấm; bà cụ Tứ vẫn tin ở sự sống và tương lai; người vợ nhặt cũng không buông xuôi, không tuyệt vọng.

III. Kết bài:

– Tình huống truyện độc đáo của truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ mang lại sức cuốn hút cho câu chuyện mà còn thể hiện được tư tưởng nhân đạo của tác giả. Thông qua tình huống truyện, nhà văn đã phản ánh và trân trọng những con người bần cùng, lương thiện. Trong hoàn cảnh đói kém khủng khiếp, họ vẫn đùm bọc nhau, dành cho nhau hạnh phúc và hi vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Dàn bài tham khảo:

  • Mở bài:

Tình huống truyện, có người đã ví nó như một thứ nước rửa ảnh, mà qua đó làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Đọc “Vợ nhặt”, không ai không bị hấp dẫn bởi một tình huống hết sức độc đáo và bi hài mà cũng đậm chất nhân văn, thấm đẫm tình người.

  • Thân bài

1. Khái niệm tình huống truyện và tình huống truyện Vợ Nhặt.

– “Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là thủ thuật điểm huyệt. Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện bằng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày” (Nguyên Ngọc). Vậy là đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ – nói cách khác tình huống truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.

– Tình huống truyện “Vợ nhặt” hiện lên ngay từ nhan đề, gợi lên sự chua xót, mai mỉa, một nỗi đau không thể nói thành lời. “Nhặt vợ”, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng đến như vậy? Điều đó hoàn toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:

“Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Hoặc ít ra cũng là:
Ba trăm một mụ đàn bà
Mang về mà trải chiếu hoa cho ngồi”.

– Vậy mà ở đây, Tràng đã nhặt được vợ, trong cơn đói khủng khiếp mà có lẽ đến giờ con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình; trong khi Tràng khó lòng có thể lấy được vợ và thậm chí là ế vợ thì chàng ta lại “nhặt được vợ”. Cái lạ thường, kì dị của hành động “nhặt vợ” đã tạo nên một tình huống vô cùng độc đáo mang ý nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm.

2. Nét đặc sắc của “tình huống truyện” trong truyện ngắn Vợ nhặt

a. Tạo được sự bất ngờ hấp dẫn cho thiên truyện:

* Bất ngờ cho toàn dân xóm ngụ cư.

– Đã từ lâu, dân xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vập vạp, thô kệch của Tràng với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng trên môi, Tràng nghèo túng, xấu xí hơn cả những con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng thì làm gì có thể lấy được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Điều đó gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm. Sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và người đàn bà trên con đường xao xác nắng chiều. Mọi người cứ xì xầm bàn tán “Ai đấy nhỉ ! Hay là người nhà bà cụ Tứ mới lên?”; “Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai ương và chết chóc vọng mãi theo đôi uyên ương về cuối xóm.

– Mặc cho những lời bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma” thay cho khách và tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi, tiếng khóc hờ tỉ tê của những nhà có người chết thay cho pháo cưới. Câu chuyện chìm trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói đã luồn những làn gió chết chóc mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua được cái thời đói khát này không”.

* Bất ngờ cho bà cụ Tứ.

– Tình huống Tràng có vợ tạo ra một sang chấn cực mạnh trong xóm ngụ cư. Cả xóm ngạc nhiên đã đành, mà cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra.

* Bất ngờ cho chính bản thân Tràng.

– Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn “ngỡ ngàng”. “Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ, một cơn mơ theo đuổi tâm trí hắn cho đến tận buổi sáng ngày hôm sau. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị…

– Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng một câu nói suông. Đùa mà thành thật, Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau trong hạnh phúc ngỡ ngàng, đầy lo âu. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà mới chỉ gặp hai lần nay lại trở thành vợ hắn…

b. Tình huống đã phơi trần hiện thực và qua đó bộc lộ thái độ của nhà văn đối với con người cũng như xã hội:

– Cái đói – không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang đến một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nhà văn xoáy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh hoàng. Cái đói mang đến sự chết chóc, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó làm giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người dường như mất hẳn tính người, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, được sống…Cơn đói khát làm cho người đàn bà quên cả sĩ diện, được mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao. Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói luôn ám ảnh. Giận thị nhưng ta vẫn xót xa trước dáng hình tiều tụy của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.

– Cái đói, với bóng đen kinh hoàng của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình thường của mỗi con người. Nó không chỉ tàn phá nhân hình mà còn làm cho con người mất đi cả danh phẩm – một người vợ theo không, nhưng cái đói vẫn đeo bám. Thê thảm với đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”.

– Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân vật trong câu chuyện chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trên của số phận: có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ tận đáy lòng của bà mẹ chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con. Nỗi buồn tủi của bà cụ Tứ, thân phận bọt bèo của những con người như Tràng và cô vợ Nhặt, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân nó đã có sức tố cáo mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít….

– Nhà văn trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân: dù đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo nhưng họ vẫn luôn cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Thậm chí càng gieo neo, khốn khó lại càng yêu thương nhau. Đó là truyền thống cao đẹp đầy chất nhân văn của người Việt “Thương người như thể thương thân”. Rộng sâu hơn, nhà văn đã viết bản bi ca về niềm lạc quan, yêu sống, ham sống của con người. Đúng như nhà văn tâm sự khi viết truyện ngắn này : “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.

c. Nhưng tình huống truyện cũng làm ngời sáng lên vẻ đẹp của những người nông dân bình thường thô mộc, giúp các nhân vật bộc lộ sâu sắc tâm trạng và tính cách của mình.

* Với Tràng.

– Đó là khát khao hạnh phúc của anh Tràng. Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn với hắn. Thị theo hắn dường như để giải quyết nhu cầu ăn. Những chuyện tưởng như rất thô lậu và trơ trẽn nhưng dưới ngọi bút tài tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp lánh tình người. Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo này đến thân mình còn chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của một người có được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng đầy cảm động. Chính vì thế, hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình vừa có được. Lòng hắn chợt loé lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ, vẩn vơ, khó hiểu – khao khát đổi thay.

– Tính cách của Tràng cũng diễn biến rất tinh tế, thay đổi linh diệu nhờ tình huống nhặt vợ. Trước khi nhặt được vợ, Tràng chỉ là một anh chàng đẩy xe bò thuê, cuộc sống nghèo khổ, bấp bênh thậm chí là bế tắc với khuôn mặt đầy lo âu, khắc khổ và cái cười hềnh hệch. Nhưng khi thị quyết định theo Tràng về làm vợ, trong suy nghĩ của con người vô tư ấy chợt có những suy nghĩ đầy trưởng thành “thóc gạo này đến cái thân mình còn không biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”, rồi hắn quyết định, dứt khoát và đánh cược với số phận.

* Với bà cụ Tứ.

– Trong cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại sáng ngời lên mà tiêu biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn tình thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông cảm sẻ chia. Tình thương con dù bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó không đủ để chảy thành dòng “rỉ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa.

– Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng màn đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó khiến chúng ta hướng về và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí bà là viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây niềm vui của gia đình hoà thuận, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy xung quanh mình hôm nay có gì vừa thay đổi mới mẻ, khác thường. Niềm vui bất chợt của gia đình làm ta cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta muốn tha thứ tất cả, kể cả sự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh Tràng.

* Với Thị.

– Cũng như bất cứ một nhân vật nào trong truyện, Thị cũng khao khát sống, khao khát một hạnh phúc gia đình. Chính vì khao khát mãnh liệt ấy mà thị đã bán rẻ nhân phẩm của mình để theo Tràng về làm vợ. Thị một lần nữa đánh đu với số phận để tìm sự sống và hạnh phúc. Dù là mong manh và ít hi vọng. Điều đẹp đẽ, có hậu như một niềm tin vào sự sống, vào con người bởi sự thay đổi của Thị trong buổi sáng đầu tiên về làm dâu. Thị bỗng trở thành một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, khiến chính Tràng còn phải ngỡ ngàng trước sự thay đổi ấy: “Tràng nom thị hôm nay trông khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Thị tu chí làm ăn, và có ý thức cùng chồng vun vén, xây dựng gia đình. Hạnh phúc gia đình, sự cảm thông, lòng yêu thương giữa con người với con người chính là bàn tay ấm kéo con người về với cuộc sống.

  • Kết bài:

– Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩ của tình huống lại mang một giá trị nhân bản, tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Chính vì thế, tác phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấm như một ngọn lửa nhỏ lấp loé mãi trong cuộc đời. Và tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt vời nhân hậu, tuyệt vời đức hi sinh của những người nông dân Việt Nam. Dù đứng trước sự mất còn của mạng sống ( hiểu theo nghĩa đen trần trụi nhất) vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với tương lai. Lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đoàn người đói khát đi phá kho thóc của Nhật đâu chỉ là mộng tưởng. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo sẽ làm sáng lên những con người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng và cô “vợ nhặt” tội nghiệp….Họ sẽ viết tiếp truyện thống về phẩm giá con người Việt Nam trong tương lai.

Bài văn tham khảo 1:

Phân tích tình huống nghệ thuật độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt.

  • Mở bài:

Vợ nhặt là một nhan đề tạo ra những ấn tượng sâu sắc, kích thích sự tò mò, chú ý của người đọc, hé mở tình huống đặc sắc của tác phẩm. Nhặt là một động từ chỉ những hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm để lấy một vật gì đó thường là từ dưới đất lên, một vật hoặc quá nhỏ bé nên không ai để ý, hoặc không còn giá trị nên đã bị vứt bỏ. Vợ là một phần quan trọng trong cuộc đời người đàn ông, lấy vợ là một trong những việc lớn của đời người, một việc thường được thực hiện theo phong tục truyền thống của người Việt với các bước mai mối dạm hỏi, cưới xin…trang trọng.

  • Thân bài:

Với từ “nhặt” làm định ngữ, nhan đề Vợ nhặt đã khiến người đọc phần nào suy đoán được phẩm chất giá trị của người vợ khi được nhặt về như cỏ rác; cũng đồng thời hình dung được tình cảnh của người chồng khi một việc lớn lao, trọng đại của đời người lại được thực hiện bởi một hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm. Như vậy, nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt với sự hàm chứa những mâu thuẫn, éo le đã góp phần thể hiện những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm, giúp nhà văn phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của những người nông dân nghèo trong nạn đói 1945.

Tình huống được tạo dựng trên cơ sở những mâu thuẫn, trở nên được đẩy tới tận cùng giới hạn. Sự trớ trêu đầu tiên xuất hiện ở nhân vật Tràng- chủ thể của hành đồng nhặt vợ. Tràng là người mà ngay trong hoàn cảnh bình thường cũng rất ít khả năng có thể lấy được vợ – hắn là dân ngụ cư với địa vị lép vế trong làng xã, lại nghèo khổ, xấu xí, thô kệch và hơi dở tính. Vậy mà Tràng lại lấy được vợ, thậm chí chóng vánh, dễ dàng đến mức chính hắn cũng không tin nổi. Sự trớ trêu thứ hai đặt ra ở hoàn cánh nhặt vợ của Tràng. Hôn nhân là biểu tượng của cuộc sống gia đình, của sự sinh con đẻ cái, của sự sống. Vậy mà việc nhặt vợ của Tràng lại diễn ra vào thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói Ất Dậu, khi làng ngụ cư của Tràng bao trùm trong không khí chết chóc lạnh lẽo.

Tình huống éo le đã được tạo ra bởi sự đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa hi vọng và tuyệt vọng, giữa ấm áp của tình người và cái lạnh lẽo thê lương của chết chóc… Tình huống trớ trêu ấy đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người: dân xóm ngụ cư thì thầm phỏng đoán; bà cụ Tứ không tin nổi mắt mình và ngay cả Tràng cũng ngờ ngợ, bàng hoàng như đang trong một giấc mơ.

Việc một anh con trai nghèo khổ, xấu xí lại nhặt được vợ một cách chóng vánh, dễ dàng ngay trong những năm tháng đói khát khủng khiếp nhất của quê hương và đất nước, đó là một chuyện lạ, là một tình huống đặc sắc giúp nhà văn gửi gắm những vấn đề lớn lao của cuộc sống con người, đem đến cho tác phẩm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Tình huống kì lạ, độc đáo của tác phẩm đã giúp nhà văn phản ánh chân thực bức tranh hiện thực của làng quê Vợ nhặt khi việc nhặt vợ của Tràng diễn ra chính trong nạn đói 1945, qua đó mà bộc lộ những nét sâu đậm nhất của tư tưởng nhân đạo. Tràng đưa vợ về nhà và bắt đầu cuộc sống gia đình trong khung cảnh làng ngụ cư ngập tràn âm khí với những đám người dắt díu nhau, xanh xám, dật dờ như những bóng mà bên những người chết còng queo chưa kịp chôn cất, với âm thanh của tiếng hờ khóc người chết, tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết với mùi ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác chết và nhất là với bóng tối lạnh lẽo, thê lương trùm phủ xóm làng..

Không dừng lại việc phản ánh bề mặt hiện thực với những hình ảnh hay âm thanh, Kim Lân còn phản ánh bề sâu của hiện thực khi sự đói khát khiến giá trị của con người trở nên rẻ rúng, những điều đẹp đẽ thiêng liêng của cuộc sống trở nên bi hài, chua chát đến tội nghiệp. Sự đói khát đã khiến cho hình hài, bộ dạng con người tiều tụy, thê thảm. Trẻ con xóm ngụ cư ủ rũ như những ông già; người lớn mặt u tối, hốc hác; người vợ nhặt mặc bộ quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ con hai con mắt.

Sự đói khát đã hủy hoại cả nhân cách con người. Điều này thể hiện chua xót nhất trong nhân vật người vợ nhặt. Một người đàn bà phải vứt bỏ những ý tứ, những phép tác xã giao, những sĩ diện, xấu hổ, bẩu xíu vào một câu hò đùa để kiếm miếng ăn thật; phải gạt phăng những miếng trầu xã giao lễ nghĩa để chọn bốn bát bánh đúc mong lấp đầy cái dạ dày trống rỗng; phải vứt bỏ cả lễ giáo và sự thận trọng, bám vào một câu đùa tầm phơ tầm phào để theo không một người đàn ông xa lạ, mong tìm chốn nương thân, hi vọng chạy trốn cái đói. Miếng ăn ngày đói đã trở thành sự khởi đầu và đích đến của một mối quan hệ thiêng liêng, trở thành yếu tố chi phối khốc liệt với nhân cách con người.

Sự đói khát khiến cuộc sống trở nên đau đớn, kì quái, con người không được sống cho ra con người. Vợ nhặt là câu chuyện về một cuộc hôn nhân kì lạ : Tràng và người đàn bà xa lạ nên vợ nên chồng bởi một câu hò bâng quơ ( có hình ảnh của miếng ăn! ), một câu đùa tầm phơ tầm phao và bốn bát bánh đúc – cuộc hôn nhân không phải do tình yêu mà chỉ là duyên kiếp của những con người khốn khổ đến với nhau bắt đầu là vì miếng ăn, còn sau là hi vọng có thể chạy trốn cái đói. Giá trị con người trở nên rẻ rúng, thảm hại : vợ vốn là một phần quan trọng, đẹp đẽ trong cuộc đời người đàn ông lại được nhặt về như cỏ rác; việc lấy vợ vốn thiêng liêng, trọng đại lại giống như một trò đùa hài hước, oái oăm.

Tất cả những sự việc liên quan đến cuộc hôn nhân này đều bị hạ giá thê thảm: cô dâu cắp chiếc nón rách tàng, mặc bộ quần áo tả tơi như tổ đỉa về nhà chồng; hai hào dầu đã là xa xỉ, hoang phí cho đám cưới; ngày đưa dâu chỉ có hai bóng người lủi thủi, âm thầm, lặng lẽ về làng trên con đường khẳng khiu trong một buổi chiều ảm đạm, trong cái lạnh lẽo đầy âm khí của những làn gió ngắn ngắt thổi về từ ngoài đồng; đêm tân hôn phảng phất mùi đống rấm ở những nhà có người chết và văng vẳng tiếng hờ khóc tỉ tê; bữa cơm đầu tiên mẹ chồng đãi nàng dâu mới cũng thật thê thảm; giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo… niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn, để rồi, sau đó, cháo cám trở thành cỗ cưới trong nỗi tủi hờn ai oán của mọi người.

Không chỉ xót thương cho thân phận con người qua bức tranh hiện thực ngày đói, nhà văn còn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong việc khẳng định, ngợi ca, trân trọng và thể hiện niềm tin vào bản chất tốt đẹp của những con người biết vượt lên trên cái đói, cái thảm đạm để sống, để yêu thương, để vui và hi vọng.

Tình huống truyện đã cho thấy sự đói khát không làm con người mất đi lòng nhân ái. Lòng nhân ái đã thể hiện ngay trong việc nhặt vợ của Tràng. Chia sẻ miếng ăn với một người xa lạ đang đói khát không hẳn chỉ là bốc đồng, chia sẻ cuộc đời với một người đàn bà khốn khổ, xấu xí không hẳn chỉ là liều lĩnh – đằng sau sự bốc đồng, liều lĩnh ấy là tấm lòng hào hiệp của người đàn ông có trái tim nhân ái. Qua cảm nhận của Trang về tình nghĩa giữa hắn với người đàn và đi bên, sự băn khoăn thương xót của Tràng trước vẻ buồn bã của vợ, cách Tràng giới thiệu vợ với mẹ đầy trân trọng, cảm ơn: “ Nhà tôi nó mới về làm bạn với tối u ạ…., Kim Lân cho thấy trong lòng người đàn ông nghèo khổ mà nhân hậu ấy chỉ có tình nghĩa yêu thương mà không hé có sự rẻ rúng, khinh thường người vợ theo, vợ nhặt.

Lòng nhân hậu, vị tha đặc việt tập trung ở những nỗi niềm của bà đều chỉ xuất phát từ tình cảm xót thương vô bờ bến với cả con và dâu. Khi chấp nhận người đàn bà xa lạ, đói khát làm dâu con, bà đã bỏ qua không chỉ lễ giáo thông thường mà cả nỗi ám ảnh khủng khiết của sự đói khát, chết chóc đã chấp nhận cưu mang một con người khốn khổ, để vun đắp cho hạnh phúc của con cái. Biết trân trọng, yêu thương, biết chia sẻ, quan tâm lo lắng cho nhau ngay trong cảnh khốn cùng, đó là biểu hiện cao nhất của lòng nhân ái, đó cũng là phẩm chất đẹp đẽ truyền thống của một dân tộc luôn nhắc nhau lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân. Câu chuyện nhặt vợ của Tràng đã cho thấy tấm lòng nhân ái của con người không thể bị hủy hoại trước sự đói khát, thậm chí sự đe dọa ghê gớm là cái chết.

Tình huống truyện cũng giúp người đọc nhận ra sự đói khát không làm con người mất đi những khát vọng hạnh phúc. Quyết định nhặt vợ liều lĩnh của Tràng sau một thoáng phân vân, do dự; những khuôn mặt hốc hác, u tối… của những người dân xóm ngụ cư bỗng rạng rỡ hẳn lên khi nhìn thấy Tràng dẫn vợ về trong buổi chiều chạng vạng; cảm giác mới mẻ, hạnh phúc, trạng thái êm ái lửng lơ trong lòng Tràng vào sáng hôm sau; nét mặt nhẹ nhõm, tươi tình của bà cụ Tứ… đó là những biểu hiện rõ nhất của niềm khát khao hạnh phúc, niềm mong ước được tìm đến với nhau, được sum vầy trong những mái ấm gia đình, khát vọng ấy vẫn tồn tại trong tâm hồn những con người đang sống trên bờ vực hủy diệt của sự đói khát.

Khát vọng hạnh phúc bản năng, thường trực và bị khuất lấp sau nỗi đói khát đã xuất hiện một cách thật bất ngờ trong diễn biến tâm lí của người vợ nhặt. Lúc đầu, thị đi theo Tràng chỉ vì miếng ăn, vì hi vọng chạy trốn cái đói. Khi tận mắt nhìn thấy gia cảnh nghèo khổ của Tràng, thị đã không nén nổi tiếng thở dài thất vọng, buồn bã và tủi hổ – sự hiện hữu trong ngôi nhà ấy không phải miếng ăn thị đang tìm kiếm mà là cái đói thị đang trốn chạy! Đó là lúc thị hoàn toàn có thể quay lại, có lẽ vì thị đột ngột tìm thấy những điều thị không dám nghĩ đến trong hoàn cảnh khốn khổ, những điều quý giá hơn cả miếng ăn, đó là một gia đình hạnh phúc với tấm lòng nhân hâu của những người không chỉ chia sẻ miếng ăn mà còn sẵn lòng cưu mang, đùm bọc thị khi chính họ cũng đang đói khát. Người đàn bà bất chấp tất cả những xấu hổ, những phép tắc xã giao hay lễ giáo, lăn xả vào miếng ăn, bám riết lấy sự sống nay đã ngạc nhiên, xúc động và hiểu rằng, khi bước qua chiếc cổng tre nhà Tràng, trở thành người vợ hiền dâu thảo, thu vén đảm đang, mang lại hạnh phúc cho những con người nhân hậu. thị cũng sẽ tìm thấy cho mình niềm vui được có một mái ấm gia đình hạnh phúc.

Tình huống truyện đã khẳng định một điều cảm động, đó là sự đói khát không làm con người mất đi những hi vọng vào một tương lại tươi sáng, tốt đẹp hơn. Việc Tràng mua hai hào dầu thắp đèn và nhất là thái độ đồng tình của bà cụ Tứ với việc làm có vẻ xa xỉ, bốc đồng của con trai: “ừ, thắp lên một tý cho sáng sủa…” cho thấy trong lòng những con người đang sống trên bờ vực của chết chóc ấy hình như vẫn ấp ủ một niềm tin mong manh mà mãnh liệt về sự thay đổi cuộc đời, biết đâu từ sau niềm vui tỏa ra bởi ngọn đèn dầu bé nhỏ, không gian sống của họ cũng sẽ bắt đầu sáng sủa hơn? Lần đầu tiên trong một truyện ngắn ngập chìm bóng tối, sáng hôm sau Tràng thức dậy trong ánh sáng kì diệu, chói lóa của buổi sáng mùa hè, đó cũng là ánh sáng của niềm vui, của nguồn sinh khí rạo rực tỏa ra trong cuộc sống gia đình, là niềm hi vọng vào sự sáng sủa hơn trong cuộc đời những con người nghèo khổ.

  • Kết bài:

Những lời bà cụ Tứ động viên các con bằng cái triết lí dân gian “Ai giầu ba họ, ai khó ba đời”; cách bà lo toan, cắt đặt công việc, cùng con dâu thu dọn cửa nhà cho quang quẻ; niềm tin ngây thơ, cảm tính mà thật vững chắc khi nghĩ rằng chỉ cần thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn!- đó là những chi tiết cho thấy người lao động không bao giờ bi quan, tuyệt vọng, niềm tin vào sự tốt đẹp của cuộc sống, niềm hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn luôn là nguồn sức mạnh để họ có thể vượt qua cái đói, cái thảm đạm để sống và yêu thương. Đặc biệt, hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới trong tâm trí Tràng ở cuối truyện đã khẳng định chắc chắn hơn niềm tin và sức mạnh ấy, đó là hình ảnh cho thấy những hi vọng của người dân xóm ngụ cư, của mấy mẹ con Tràng không hão huyền, viển vông, là tín hiệu chắc chắn của sự đổi đời đã và sẽ hiện hữu trong hiện thực cuộc sống.

Bài văn tham khảo 2

Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc qua tình huống “nhặt” vợ trong truyện ngắn Vợ nhặt.

  • Mở bài:

Vợ nhặt là tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam, được viết bởi nhà văn Kim Lân, một nhà văn chỉ học hết cấp tiểu học nhưng lại có tài năng và vốn từ phong phú không thua kém những tác giả khác. “Vợ nhặt” là một tác phẩm đặc sắc, được thai nghén trong 10 năm và là một trong tác phẩm viết về Việt Nam những năm 1945, khi nạn đói đang hoành hành. Tác phẩm không chỉ có nội dung nhân văn, mà nghệ thuật cũng có giá trị rất lớn, trong đó nổi bật nhất là tình huống truyện khác thường, vừa có giá trị nghệ thuật cao, vừa gợi mở những tư tưởng phong phú.

  • Thân bài:

Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời gian xảy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả chính sách cai trị dã man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương tàn bạo “nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận bất hạnh. Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp, phát xít Nhật; đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động. Tác phẩm “Vợ nhặt” đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo có những nét khác thường, bộc lộ được nhiều vấn đề khiến độc giả phải chú ý tìm hiểu và suy nghĩ. Tình huống truyện được thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm: vợ được nhặt như người ta nhặt một cái rơm cái rác bên đường. Kế đó là ngay trong tác phẩm: Tràng nghèo, xấu xí, thô kệch lại là dân xóm ngụ cư có vợ trong nạn đói khiến cho xóm ngụ cư và cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng ngạc nhiên và ngay cả Tràng cũng không tin đó là sự thật. Tình huống nhặt vợ, đặc sắc, éo le và khác lạ, đồng thời gợi mở những chi tiết đặc biệt trong tác phẩm.

Giá trị hiện thực.

Truyện ngắn là một lát cắt của hiện thực đời sống, bản thể thu nhỏ của cuộc đời. Lịch sử diễn ra trong hàng chục năm với hàng trăm sự kiện, có thể tóm gọn lại chỉ trong vài trang giấy, nhưng vẫn đủ để phản ánh hiện thực. Mọi hình thức nghệ thuật của văn học, mọi thủ pháp, bút pháp đều nhằm mục đích vẽ lại một cách chân thật nhất dưới lăng kính của người nghệ sĩ. Vì vậy, tình huống truyện của “Vợ nhặt” cũng không phải ngoại lệ, giá trị đầu tiên của tình huống này là giá trị hiện thực. Hai tiếng “vợ nhặt” gợi ta nghĩ đến một điều thật trớ trêu. Xưa nay, chuyện dựng vợ gả chồng là việc hệ trọng. Nó thể hiện ở tình cảm sâu nặng, nghi lễ thiêng liêng và quá trình xây đắp gắn bó. Thế mà tác phẩm lại kể về chuyện một người “nhặt” được vợ, chẳng khác nào tiện tay nhặt một vật gì đó. Chỉ vu vơ vài câu nói bông đùa, cùng bốn bát bánh đúc, cu Tràng đã nhặt được vợ. Tình huống này gợi mở về hiện thực đau lòng của xã hội nước ta thời bấy giờ, khi mà giá trị và tính mạng con người trở nên rẻ rúng trước cái ăn cái mặc. Con người ta chỉ đủ thời gian để suy nghĩ về cái đói, có thể thấy, cái đói ám ảnh thành hình thành khối, thành mùi và thành suy nghĩ của con người.

Năm 1945 chứng kiến nạn đói lớn nhất trong lịch sử Việt Nam với hơn hai triệu người chết đói, đất nước non trẻ gồng mình chiến đấu với cả 3 loại giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, trong đó, giặc đói là cấp thiết nhất. Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “ Điêu, người thế mà điêu”. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Bởi vậy mà mới có tình huống nhặt vợ, bởi bây giờ, như bản năng, con người ta sẵn sàng vứt bỏ cả lòng tự trọng để bám lấy sự sống. Tác phẩm tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và tay sai gây nên nạn đói khủng khiếp năm 1945 với trên hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của con người thật rẻ rúng, mà thị chỉ là một trong số rất nhiều người Việt Nam đang gồng mình vì nạn đói.

Giá trị nhân đạo sâu sắc.

Để làm nổi bật tính độc đáo của tình huống truyện, Kim Lân đã soi chiếu nó từ rất nhiều góc nhìn khác nhau. Việc Tràng dẫn về một người đàn bà xa lạ đã thành một biến cố gây xôn xao cái xóm ngụ cư vốn đang chìm trong lặng lẽ vì đói khát. Giống như một làn gió mới được thổi đến cuộc đời nhàm chán, lặp đi lặp lại của xóm ngụ cư. Thị, người đàn bà chấp nhận về làm dâu chỉ với bốn bát bát đúc, thực chất là một người khát sống, nghị lực, cái lớp vỏ xám xịt bên ngoài chỉ là bản năng mà thị tạo ra để chống lại những sóng gió của cuộc đời. Một con người bé nhỏ, nhưng lại thay đổi cả một gia đình. Thị đến mang đến hi vọng về cuộc sống mới cho mẹ con cu cậu Tràng, một cuộc sống ấm no hạnh phúc, đánh dấu sự thức tỉnh về nhận thức của Tràng, thôi thúc Tràng trở thành một người đàn ông thực sự.

Tình huống truyện thể hiện mong muốn được hạnh phúc không bao giờ tắt ở những con người nhỏ bé, hàng ngày tưởng chỉ quẩn quanh trong cơm áo gạo tiền. Nhưng họ cũng là những người giàu tình yêu nhất. Tình huống nhặt vợ thể hiện khát khao có được một gia định thật sự của Tràng, cũng như tình thương giữa những người cùng khổ, họ sẵn sàng hi sinh để che chở cho nhau vượt qua nạn đói. Tình huống truyện là hoàn cảnh để các nhân vật bộc lộ tính cách phẩm chất của mình. Tràng từ một anh chàng bình thường, lại là người xóm ngụ cư nay biết nghĩ đến gia đình, biết chăm lo cho tổ ấm. Thị từ một người đanh đá, chua ngoa, trở nên ý tứ ra dáng một nàng dâu. Tình huống truyện đã thể hiện tình người và lòng ham sống, bản chất lạc quan của người lao động trong hoàn cảnh khốn cùng.

  • Kết bài:

Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo có những nét khác thường, bộc lộ được nhiều vấn đề khiến độc giả phải chú ý tìm hiểu và suy nghĩ. Vừa mang tính hiện thực sâu sắc, vừa có giá trị nhân đạo, giúp người đọc hiểu hơn về các nhân vật.

Xem thêm:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang