trang-giang-va-day-thon-vi-da

Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang (Huy Cận) và Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử).

Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ “Tràng giang” (Huy Cận) và “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)

  • Mở bài:

Thiên nhiên là đề tài muôn thuở trong thi ca. Các nhà thơ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm và tinh tế. Trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) cũng vậy, từng có một tình cảm mênh mang với “Tràng giang” của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.

  • Thân bài:

Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng thiên nhiên trong “Tràng giang” lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của “trời rộng”, “sông dài”. Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sông mênh mang, chảy dài giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buông trôi, thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt.

“Tràng giang” dài rộng đang trải ra từng đợt sóng “điệp điệp” không dứt. Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra từng đợt “điệp điệp” như  những lớp sóng cùng con thuyền quen thuộc thả mái chèo “song song” xuôi dòng. Hai câu thơ của Huy Cận làm ta nhớ tới hai câu thơ trong bài thơ nổi tiếng “Đăng cao” của Đỗ Phủ:

“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”

(Mênh mông cậy rụng hiu hiu trái
Cuồn cuộn trường giang chảy chảy mau)

Điều khác biệt mà người đọc nhận ra trước tiên là hai từ láy trong câu thơ của Huy Cận được tác giả đưa xuống cuối câu. Vì vậy, không gian trong “Tràng giang” vừa mở ra chiều rộng, vừa vươn tới chiều dài:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

Động từ “gợn” diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng nhưng lại lan mãi không thôi. Nó gợi được nỗi buồn da diết khôn tả của thi nhân. Để làm rõ hơn cảm giác ấy, phần sau câu thơ tác giả viết “buồn điệp điệp”. “Điệp điệp” là một từ láy thật gợi hình, gợi cảm, vừa là hình ảnh vừa là tâm tư. Nó vừa gợi từng đợt sóng chồng chất, tầng tầng lớp lớp, vừa diễn tả “điệp điệp” nỗi sầu. Đúng là dòng nước đã đồng nghĩa với dòng sầu:

“Sông bao nhiêu nước dạ sầu bấy nhiêu”

“Con thuyền xuôi mái nước song song”, “xuôi mái” là con thuyền nương theo dòng nước mà đi, nhưng cũng có thể hiểu là con thuyền bất lực với cả mái trèo của mình lênh đênh để dòng nước cuốn xuôi tận cuối chân trời mặc cho dòng đời xô đẩy, phiêu bạt, buông xuôi không bến đậu.

Hình ảnh sông nước mênh mang cùng con thuyền nhỏ nhoi giữa dòng tạo nên sự đối lập gợi cho ta cảm giác cô đơn da diết. Từ xưa tới nay, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn luôn gần gũi, gắn bó. Vậy mà ở đây, con thuyền lênh đênh mà dòng nước mênh mông như có một nỗi buồn chia li xa cách đương đón đợi:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Những con thuyền đã về hết, chỉ còn dòng sông mênh mang sóng nước. Vì thế, cảnh dễ gợi nỗi “sầu trăm ngả”. Suy ngẫm về ba câu thơ, ta thấy nỗi lòng tác giả đã có sự nâng cấp từ “buồn điệp điệp” đến “sầu trăm ngả”. Nỗi buồn không chỉ có bề sâu nữa mà còn được mở rộng ra “trăm ngả’.

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Giữa con sông mênh mông mang nặng dòng nước sầu buồn chia li, “trăm ngả”gợi lên sự chia lìa cách biệt ấy hiện lên một cành củi khô trôi dạt lạc lõng bơ vơ, không biết rồi sẽ đi đâu về đâu trong dòng sông mông lung, vô định. Ba câu thơ trên mang dáng dấp cổ điển thì đột nhiên câu cuối lại mang dáng dấp một câu thơ rất hiện đại. Tác giả đã đưa vào thơ ca “những thi liệu sống của đời thường” – chữ dùng – Xuân Diệu.

Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” là hình ảnh mới mẻ, gợi cảm, có nhiều sức biểu hiện, Đây không phải là thân gỗ xuôi dòng mà là một cảnh củi khô bập bềnh nổi trôi. Nó đã nói lên được cái trôi dạt, cô đơn, bơ vơ giữa mênh mông cuộc đời sóng gió. Từ một cành cây tươi xanh trên núi rừng đầu nguồn đến một cành củi khô dập dềnh nổi trôi, thân phận cỏ cây đã mấy lần tan thương khô héo, mấy lần trôi dạt đổi thay. Đó là thân phận cỏ cây hay số kiếp con người trong cuộc đời cũ? Cái tôi cô đơn, tội nghiệp của thơ ca lãng mạn đã tìm thấy sự tương đồng của nó trong cành củi khô lạc loài của thơ Huy Cận.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”

Tiếp tục hoàn chỉnh bức tranh trời rộng sông dài với những chi tiết mới. Nó được mở rộng thêm đất thêm người. Nhưng nỗi buồn thi nhân ở đây dường như càng lan toả thấm sâu hơn trong từng cơn “gió đìu hiu” đưa lại những tiếng “chợ chiều” đã vãn vẳng lên từ một làng xa xôi – nơi một “cồn nhỏ” heo hút nào đó. Câu thơ này theo Xuân Diệu còn có thể hiểu ngay cả những âm thanh náo nức của cuộc sống dù chen lấn, bươn trải, xô bồ, hỗn độn nhưng có sức lôi cuốn vỗ về lòng người “cũng có đâu, đâu có”, nghĩa là tạo vật thống trị tuyệt đối.

Bức tranh “Tràng giang” tuy có cồn đất, có nắng, có bến, có làng, có chợ nghĩa là có hơi tiếng con người đấy nhưng vẫn không át được cái cảm giác tàn tạ, hiu hắt, quạnh vắng, buồn bã mênh mang. Bởi không gì buồn bằng cái chợ chiều tan tác. Bởi trên nền thiên nhiên bát ngát chỉ điểm “lơ thơ” mấy “cồn” và thoáng chốc xao động lên một vài cơn gió buồn “đìu hiu”. Hai từ láy đồng thời là tính từ“lơ thơ” và “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm. Nó không chỉ gợi buồn mà nó còn gợi cảm giác quá nhỏ nhoi, thưa thớt, quạnh quẽ, lạnh lẽo.

“Lơ thơ” diễn tả những dáng cây nhỏ nhoi, mỏng, thưa thớt trên cồn bãi, đồng thời gợi lên sự xuất hiện đơn độc lẻ loi, đượm chút ngơ ngác của những bãi cồn giữa dòng “Tràng giang” bát ngát. “Đìu hiu” nói về hơi gió nhẹ đưa nỗi buồn lan toả khắp đất trời. Huy Cận rất lấy làm thích thú với những chữ này, cho rằng mình đã học được trong thơ nổi tiếng của Đoàn Thị Điểm:

“Non kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”

Hai câu thơ của Huy Cận mới đọc qua tưởng chúng không có quan hệ gì với nhau bởi không gian địa lý và hình thức câu thơ. Nhưng thực ra chúng đều cộng hưởng với nhau để làm nổi bật lên cái cô đơn, lạnh giá, lụi tàn của những kiếp người.

Không gian trời rộng, sông dài được đột ngột đẩy cao và mở ra bốn phía đến vô cùng làm cho cảnh bờ bãi của dòng sông vốn đã vắng vẻ lại càng trở nên “cô liêu” tĩnh mịch:

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Không gian ở đây được mở rộng ra nhiều chiều khó nắm bắt. “Nắng xuống, trời lên”, “sông dài trời rộng” nhịp nhàng tạo nên một vũ điệu kì vĩ của vũ trụ. Tác giả dùng từ “sâu chót vót” chứ không phải “cao chót vót”. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Nó không chỉ gợi cho ta mối liên tưởng đó là vòm trời phản chiếu vào lòng sông tạo nên một không gian hun hút, thăm thẳm đến chới với, rợn ngợp mà còn gợi lên nỗi buồn cô đơn không đáy của hồn người trước cái vũ trụ vô cùng. Con người càng nhỏ bé cô đơn, bơ vơ hơn giữa vũ trụ bao la.

Từ khổ thơ này, các tính từ được tác giả sử dụng như động từ (hay động từ hoá các tính từ) “dài”, “rộng”, “chót vót”… vẽ ra những chuyển động ngược hướng làm cho “sông dài” như dài mãi, “trời rộng” như rộng vô cùng và bến sông cũng tăng thêm phần “cô liêu”, tĩnh mịch như tiền sử (thuở hồng hoang). Tác giả lại sử dụng nhiều tiểu đối… kèm theo các dấu phẩy ngắt câu thơ ra thành các cụm từ biệt lập giúp cho người đọc hiểu sâu hơn về một thực tại thiếu vắng những liên hệ, gợi cảm giác cô đơn da diết.

Như vậy, những cảm giác quạnh hiu, trống vắng đến đây đã được tác giả diễn tả thấm thía.
Qua khổ thơ ta thấy, nỗi buồn của thi nhân dường như bao phủ tất cả cảnh vật, vừa lan toả theo chiều rộng, vừa dâng đầy theo chiều cao của không gian. Đằng sau đó là tấm lòng của thi nhân đối với cuộc đời, quê hương đất nước. Vì vậy, khổ thơ cũng gợi được nhiều hình ảnh chân thực, bình dị, quen thuộc. Bởi thế, nó vẫn có thể khơi dậy trong tâm hồn hàng triệu độc giả tình yêu nước Việt Nam muôn đời.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”

“Bèo dạt về đâu”, nhà thơ sống trong cảnh mất nước, nô lệ nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi nhưng không biết đi về đâu. Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “Tràng giang” càng được nhân lên bằng mấy lần phủ định:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện sự giao nối của con người với cuộc sống, thường gợi về sự tấp nập gần gũi và gợi nhớ quê hương. “Chiếc cầu là đêm trăng ta hò hẹn”; “Quê hương là cầu tre nhỏ”; “Quê hương là con đồ nhỏ”… là sự sống. Nhưng ở đây “không một chuyến đò” lạc qua, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì đó gợi về tình người, lòng nước muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chảy dài về phía chân trời xa như hai thế giới cô đơn, xa lạ không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảnh “Tràng giang” chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Câu thơ vẽ lên được một bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng, buồn đến nao lòng.

Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều buồn. Mỗi hình ảnh mang một nỗi buồn riêng. Chúng liên kết với nhau tạo thành một bức tranh gợi về số phận nổi trôi, bơ vơ, bất hạnh, vô định của kiếp người trong xã hội cũ. Về nghệ thuật, ở khổ thơ này tác giả sử dụng thủ pháp quen thuộc của nghệ thuật cổ điển: lấy không để nói có, nhắc nhiều đến cái không, làm cho ta càng thiết tha khát khao cuộc sống ấm cúng đông vui của con người:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”

Huy Cận là một nhà thơ lãng mạn luôn luôn có nỗi lòng khắc khoải nhớ quê hương và một cảm giác cô đơn khi một mình đứng trước cái vô cùng của vũ trụ. Nỗi niềm ấy của “một linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu” được diễn tả khá thấm thía và cảm động:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

Thiên nhiên, cảnh vật, tạo vật qua tâm hồn Huy Cận buồn nhưng cũng có khi bộc lộ một vẻ đẹp kì vĩ, nên thơ. Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng khổng lồ cứ liên tiếp nở ra, ánh trời chiều chiếu vào trông như quả núi dát bạc trong nền trời trong xanh khiến cho ánh chiều trước khi vụt tắt ánh lên vẻ đẹp.

Câu thơ dựng lên được một hình ảnh rất tạo hình như một bức tranh sơn mài. Đằng sau bức tranh là nỗi lòng thi nhân. Từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Từ “lớp lớp” diễn tả nhiều lớp kế tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia đều đặn không dứt. “Đùn” diễn tả những đám mây và cũng là nỗi sầu tự mở ra, liên tiếp như có một sức đẩy từ bên trong. Đúng là: “Sầu đong càng lắc càng đầy”. Câu thơ Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ dịch trong bai “Thu hứng” nổi tiếng của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng, bao la nhưng đẹp đẽ, hùng vĩ, nên thơ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy nắng hoàng hôn cùng “bóng chiều sa” xuống nhanh quá, nắng quá làm lệch cả cánh chim lấp lánh phía trời xa. Cánh chim nhỏ biểu hiện của sự sống, khát vọng, ước mơ bay liệng tuy có gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng vẫn không vơi được nỗi buồn của thi nhân. Bởi cánh chim chiều trong thơ Huy Cận có nét đặc sắc riêng của nó. Thơ ca cổ xưa nay khi miêu tả cảnh chiều tà thường vờn vẽ một vài hình ảnh cánh chim:

“Chim hôm thoi thóp về rừng”

(Nguyễn Du)

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”

(Bà huyện Thanh Quan)

Cánh chim trong thơ Huy Cận xuất hiện giữa “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Đúng là cánh chim trong thơ Mới. Nó nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn, buồn thương, tội nghiệp và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la.

Trong câu thơ trên, nghệ thuật đối lập giữa hình ảnh cánh chim nhỏ bé với vũ trụ bao la làm cho không gian như bát ngát hơn và qua đó cũng xa vắng buồn bã hơn. Đến đây, nỗi sầu dâng kín “Tràng giang” và từ trời cao đổ xuống cánh chim yếu ớt rồi thấm sâu vào cõi lòng nhân thế:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Câu thơ có từ láy “dợn dợn” rất gợi cảm. Nó là một sáng tạo của nhà thơ. Từ ấy đã diễn tả chuyển động uốn lên uốn xuống nhẹ nhàng không dứt của mặt nước khi bị dao động, còn “vời” là xa, “con nước” là nước thuỷ triều đương lên. “Dợn dợn vời con nước” vừa là hình ảnh vừa là tâm trạng. Nó vừa diễn tả sóng lan ra vừa gợi cảm giác nỗi buồn lạnh lẽo u uẩn trải ra vời vợi không nơi bám víu. Sông vốn dài rộng càng thêm rộng mênh mông lại gặp lúc hoàng hôn đang xuống gợi nỗi buồn cô đơn da diết. Thì ra, nỗi buồn của nhà thơ trong chiều sâu thẳm của nó cũng có nguyên nhân rất cụ thể. Đó là nỗi buồn của người xa quê chạnh lòng nhớ tới quê hương xứ sở. Câu thơ cuối của khổ thơ càng khẳng định điều đó:

“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

“Tràng giang” là một bài thơ mang đậm ý vị cổ điển. Cổ điển ở hình ảnh con người một mình đứng trước không gian trời rộng sông dài; trước thời gian buổi chiều tà lặng lẽ. Ý vị cổ điển càng được tô đậm thêm ở câu cuối này.

Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn Huy Cận, mang nỗi buồn của nhà thơ. Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi buồn mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên. Trong Tràng giang, “nỗi buồn thấm trong từng câu chữ”, đầy như dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy.

Còn trong Đây thôn Vĩ Dạ nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức bị lãng quên của nhà thơ. Nhưng khác với Tràng giang, Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ “có bước nhảy cảm xúc” (Vũ Quần Phương), có sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có ba khổ thì mỗi khổ là một câu hỏi gắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Tử, gắn với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”

Câu hỏi vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của người con gái thôn Vĩ (mà tác giả tưởng tượng ra) vừa là lời tự vấn sao không về Vĩ Dạ của nhà thơ. Câu thơ mang giọng điệu của một lời mời gọi tha thiết về thôn Vĩ, vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí ức nhà thơ – một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm. Hãy về thôn Vĩ, bởi thôn Vĩ là bức tranh thiên nhiên tràn ngập sức sống :

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Cảnh thôn Vĩ đẹp nhất là vào những buổi bình minh với những ánh nắng hồng đầu tiên trong ngày. “Nắng mới lên” là nắng đầu tiên của một ngày mới mẻ, ấm áp. Không phải là “nắng ban mai”, hay “nắng mai”,… như cách nói thông thường. Chữ “mới” tô đậm cái trong trẻo, tinh khiết của những tia nắng đầu tiên trong ngày. Thi nhân như đã theo “nắng mới lên” mà về với Vĩ Dạ.

Đặc trưng của thôn Vĩ Dạ là những hàng cau thẳng tắp. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Vì thế, “nắng hàng cau” là nắng thanh tân, tinh khôi, là nắng thiếu nữ.

Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” cất lên như một tiếng reo vui, một lời suýt xoa của thi nhân trước vẻ đẹp vô ngần của thôn Vĩ. Từ “mướt” như ánh lên vẻ mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc, một màu xanh mỡ màng, tràn trề nhựa sống của Vĩ Dạ. “Xanh như ngọc” là màu xanh lung linh, ngời sáng, long lanh.

Ở hai câu thơ này, cả vườn Vĩ được tắm gội bởi sương đêm, đang chìm trong giấc ngủ thì được đánh thức và bừng lên trong ánh nắng hồng ban mai. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên, đến khi ngập tràn thì nó biến cả khu vườn thành một đảo ngọc giữa chốn “nước non thanh tú” của quê hương xứ sở. Đến câu thơ cuối, cảnh thôn Vĩ càng đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người :

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Lâu nay, “mặt chữ điền” vẫn được hiểu là khuôn mặt đàn ông. Tuy nhiên, trong ca dao miền Trung, “mặt chữ điền” cũng để chỉ khuôn mặt đẹp phúc hậu, khả ái của người phụ nữ : “Mặt má bầu ngó lâu muốn chửi – Mặt chữ điền tiền rưỡi cũng mua”. Gương mặt chữ điền vuông vắn ấy xuất hiện đằng sau vẻ mảnh mai, thanh tú của “lá trúc”. Hình ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” vì thế càng làm tăng thêm vẻ sinh động của bức tranh thôn Vĩ, bởi ở đây thiên nhiên và con người hài hoà với nhau trong một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng và thơ mộng.

Trong thơ, ngoại cảnh cũng là nội tâm. Đặt bức tranh thôn Vĩ đẹp trong nỗi niềm của thi nhân hướng về người con gái Vĩ Dạ mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ, ta hình dung được tâm trạng của nhà thơ. Đó là niềm vui khi nhận được tín hiệu tình cảm của người trong mộng (tất nhiên đây chỉ là cảm nhận của Hàn Mặc Tử), là niềm hi vọng loé sáng về tình yêu, hạnh phúc.

Đọc khổ thơ đầu ta cảm nhận được bức tranh thôn Vĩ đẹp, tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm và đầy sức sống. Đồng thời, đó cũng là niềm hi vọng hạnh phúc của thi nhân. Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ đặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, đồng thời bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng. Ở hai câu thơ đầu, bức tranh hiện ra là khung cảnh thiên nhiên ban ngày xứ Huế:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Cảnh ở đây vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều được nhân hoá để trở nên có hồn, sinh động. “Gió theo lối gió, mây đường mây” ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối gợi tả một không gian gió, mây chia lìa, đôi đường, đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ thường thì “gió thổi mây bay”, phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia tách ?

Nhà thơ còn nhân hoá con sông thành một sinh thể có tâm trạng để giãi bày tâm tư của chính mình. Hương Giang không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã “bỏ buồn vào lòng sông”. Động thái “lay” tự nó không vui không buồn, nhưng trong hoàn cảnh này, nó lại gợi lên sự hiu hắt, thưa vắng. Nhịp điệu câu thơ chậm rãi như điệu “slow tình cảm dành riêng cho huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) càng làm cho nỗi niềm thêm da diết. Hoá ra không phải “dòng nước buồn thiu” mà chính “thi nhân buồn thiu”. Ở hai câu thơ sau, dòng Hương Giang về đêm hiện lên ngập tràn ánh trăng :

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Tử, kết tinh rực rỡ bút pháp tài hoa, lãng mạn. Cả dòng sông như được dát bạc, ánh lên, lộng lẫy và cũng huyền ảo lung linh. Nếu “Thuyền ai” gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng khuâng, vừa quen vừa lạ, man mác như điệu hò xứ Huế thì hình tượng “sông trăng” lại như một nét vẽ thơ mộng, chất chứa cái thần thái, “linh hồn” của cảnh sắc thiên nhiên xứ sở. Sự kết hợp giữa “thuyền ai” và “sông trăng” đã tạo nên một hình tượng đẹp thi vị, gợi tả vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng, thân thương của Huế.

“Thuyền”, “bến”, “trăng” là những biểu tượng về người con trai, con gái và hạnh phúc lứa đôi. Trăng là nhân chứng cho đôi lứa nguyện thề. Khi xưa, trong vườn Thuý ngập đầy ánh trăng, Kim – Kiều đã giao ước, thề nguyền. Trong ca dao, tình duyên của nam nữ cũng được giãi bày, ướm hỏi dưới trăng : “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng – Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?”… Thuyền chở trăng là chở tình yêu. Bến trăng là bến bờ hạnh phúc. Liệu con thuyền tình yêu có vượt thời gian để kịp cập bến bờ hạnh phúc hay không ? Câu hỏi chất chứa bao niềm khắc khoải, sự chờ đợi mỏi mòn tình yêu, hạnh phúc của thi nhân. Ẩn trong đó có sự mông lung, hồ nghi, thất vọng.

Khổ thơ thứ hai vẽ nên bức tranh xứ Huế ảm đạm, nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi, yếu ớt nhưng cũng huyền ảo, thơ mộng, đồng thời toát lên những dự cảm hạnh phúc chia xa của nhà thơ. Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí. Trước hết là ở câu thơ đầu :

“Mơ khách đường xa, khách đường xa”

“Khách đường xa” là ai ? Sao câu thơ lại lặp lại hình ảnh ấy hai lần ? Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn tượng nhưng vô cùng mơ hồ ấy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó – từ “Mơ” : “Mơ khách đường xa, khách đường xa”.

Có thể “khách đường xa” là người đang sống ở Vĩ Dạ cũng có thể là chính nhà thơ ? Không ai có thể giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng, “khách đường xa” được điệp lại gợi lên khoảng cách xa xôi, sự cách trở. Hình ảnh thơ rất ám ảnh người đọc, và nó cũng như ma lực khiến ta cảm thấy câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế. Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn :

“Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

“Áo em” có phải là áo của người con gái xứ Huế, có lẽ là của người ở thôn Vĩ ? “Trắng quá nhìn không ra” như đưa thi nhân vào sống trong ảo giác, không phải nhìn bằng mắt thường. Đến cụm từ “Sương khói mờ nhân ảnh”, câu thơ càng cho thấy rõ hơn rằng cảnh vật và con người chìm dần vào mờ ảo. Điều bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối :

“Ai biết tình ai có đậm đà ?”

Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dẫu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hỏi ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ : mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Có điều, ở câu hỏi cuối này nó biểu hiện chút hoài nghi với tình yêu của ai kia (người xứ Huế), hoài nghi nên mới hỏi. Câu thơ còn cho thấy nỗi niềm thiết tha với tình yêu, với cuộc đời của nhà thơ.

Khổ thơ cuối hiện thực được cảm nhận, miêu tả trong cái hư ảo, mờ nhoè, càng lúc càng chìm dần vào cõi mộng. Thi nhân cảm nhận càng rõ nét khoảng cách xa xôi, cái hư ảo của tình yêu, hạnh phúc. Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Nếu “Tràng giang” nói về nỗi buồn li biệt của cảnh: “Con thuyền xuôi mái nước song song” mang dấu ấn cổ điển thì “Đây thôn Vĩ Dạ” cùng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: “Gió theo lối gió mây đường mây, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” nhưng không đơn giản chỉ có thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ trôi là dòng “sông trăng” chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người. Từ cái đẹp trinh nguyên của xứ Huế mộng mơ thực tại, dòng liên tưởng của Hàn Mặc Tử hướng về một cái dẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Nỗi buồn của Hàn Mặc Tử thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triền miên, dữ dội như sóng của Huy Cận trong Tràng giang.

Với thể thơ thất ngôn truyền thống, nhìn chung, thơ Huy Cận là nỗi “buồn điệp điệp”, thơ Hàn Mặc Tử là nỗi “buồn thiu”. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi thiếu một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được tác giả nhắc đến là để xoa dịu nỗi buồn bị quên lãng Đây thôn Vĩ Dạ; xóa cô đơn, rợn ngợp trong lòng, tìm đến một tình quê ấm áp (Tràng giang). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như đã biểu hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên nhiên đó.

  • Kết bài:

Thiên nhiên trong thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng văn hóa của người Việt Nam. Điều đó đã chứng tỏ một tình yêu quê hương đất nước của các nhà thơ mới nói chung và của Huy Cận và Hàn Mặc Tử nói riêng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang