Đào Sư Tích (chữ Hán: 陶師錫, 1350 – 1396), người làng Cổ Lễ, huyện Nam Chân (sau đổi là huyện Trực Ninh), phủ Thiên Trường. Nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông đỗ trạng nguyên khoa Giáp Dần niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1374),[1] đời Trần Duệ Tông. Tháng 5 năm 1381, ông được lấy làm Tả tư lang trung, Nhập nội hành khiển.[2] Tháng 12 năm 1383, vua Phế Đế sai ông đề tựa ở đầu sách “Bảo Hòa [điện] dư bút”.[2] Tháng 12 năm 1392, thời Trần Thuận Tông, ông bị giáng xuống Trung tư thị lang, Tri thẩm hình viện sự, do Quốc tử trợ giáo Đào Xuân Lôi khai rằng ông có xem bức thư của chính Xuân Lôi dâng lên nhà vua để phê phán sách Minh đạo của Hồ Quý Ly. Sau khi qua đời dân làng Cổ Lễ thờ ông làm thành hoàng, được nhiều triều đại vua chúa ban sắc cho làm thượng đẳng thần.
Tiểu sử
Đào Sư Tích sinh năm Canh dần (1350) là con trai Tiến sĩ Đào Toàn Bân đỗ tiến sĩ chính bảng làm quan chức tri Thẩm hình viện sự. Nguyên quán ông là làng Song Khê, xã Song Khê, huyện Yên Dũng, Tỉnh Bắc Giang, nhưng sau này ông dời nhà lên ở xã Lý Hải, huyện An Lãng, phủ Tam Đái thuộc Sơn Tây (nay là thôn Lý Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Ông mất tại quê hương thứ hai là xã Lý Hải. Mộ ông hiện còn ở xứ Đồng Đống, xã Lý Hải. Từ nhỏ Đào Sư Tích đã tỏ ra thông minh khác người, lực học vượt đồng môn, lại có tài ứng đối và năng khiếu về thơ phú. Từ sự hiếu học cộng với lòng quyết tâm học tập nên các kỳ thi Hương, thi Hội, Đào Sư Tích đều đỗ đầu bảng.
Danh thần
Đào Sư Tích làm quan trải ba đời vua Trần Duệ Tông (1373-1377), Trần Phế Đế (1377 – 1388) và Trần Thuận Tông (1388-1398).
Ở khoa thi Hương, Đào Sư Tích đỗ danh sách thứ nhất (Hương nguyên). Vào thi Hội, thi Đình ông đều đỗ thứ nhất: Đình Nguyên, Trạng nguyên khoa Giáp Dần niên hiệu Long Khánh đời vua Trần Duệ Tông (1374). Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 2, mùa xuân, Thượng hoàng ở cung Trùng Hoa tại Thiên Trường, thi Đình chọn tiến sĩ, cho Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên, Lê Hiến Phù đỗ Bảng nhãn, Trần Đình Thâm đỗ Thám hoa”. Tất cả các vị đỗ khoa này gồm 50 người đều được ban yến, áo, xếp cho quan chức theo thứ bậc khác nhau. Riêng ba vị đỗ tam khôi, được ân vinh đi chơi phố ba ngày. Tháng 5 năm Tân Dậu (1381), ông được bổ nhiệm chức Nhập nội hành khiển hữu ti Lang trung. Tháng 12 năm Nhâm Tuất (1382), Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ngự ở điện Bảo Hòa cho triệu tập các quan viên trong triều là Thiêm tri nội mật viện sự Nguyễn Mậu Tiên. Lang Trung bộ Lễ Phan Nghĩa và gia thần Vũ Hiến Hầu (không rõ tên) để hỏi các việc cũ, sai biên chép, làm thành bộ Bảo Hòa điện dư bút gồm tám quyển, ghi chép theo ngày tháng để dạy vua Phế Đế, Đào Sư Tích được Thượng hoàng sai viết bài tựa. Tháng 12 năm Nhâm Thìn (1392), Hồ Quý Ly bắt đầu sự chuyên quyền. Quý Ly viết 14 thiên Minh Đạo dâng lên vua Trần Thuận Tông, tỏ ý muốn sắp xếp lại bài vị Khổng Tử thờ ở Văn Miếu vì theo Hồ Quý Ly, Khổng Tử chưa phải là Tiên thánh nên không được ngồi chính giữa là vị trí của Thiên tử. Các bài Minh Đạo còn tỏ ý nghi ngờ Khổng Tử, phê phán một số nhà hiền triết của Trung Quốc cổ đại. Nhiều cận thần trong triều dâng thư can Thượng Hoàng không nên nghe theo Quý Ly. Quý Ly bèn lập mưu hãm hại. Đào Sư Tích vì liên quan tới việc này mà bị giáng xuống làm Trung thư thị lang đồng tri thẩm hình viện sự. Chán cảnh nghịch thần chuyên quyền ông cáo quan về quê mở nghề làm thuốc và dạy học. Tương truyền thời gian này ông lên cư trú tại xã Lý Hải (thôn Lý Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc). Năm 1394 nhà Minh có nhiều yêu sách, gây khó khăn nhằm xâm chiếm nước ta, bắt cống nạp nhiều lễ vật. Vua Trần biết Đào Sư Tích là người có tài ứng xử, học nhiều hiểu rộng, biết cách bang giao liền xuống chiếu cho mời ông về triều và cử đi sứ sang nhà Minh. Với tài năng của mình, Đào Sư Tích đã thuyết phục được vua Minh xoá bỏ được các lệ cống nạp hàng năm giữa nước Việt với nhà Minh.
Ngày 4 tháng 9 năm Bính Tý (1396), Đào Sư Tích qua đời đột ngột trong thời gian đi sứ, thọ 49 tuổi. Thi hài ông được đưa về nước mai táng tại Phủ Thiên Trường. Tưởng nhớ công lao của ông, các quan thái thú, tổng lý, hương hào vùng Cổ Lễ đã lập đền thờ thờ ông cùng với cha là Đào Toàn Bân. Sau khi mất, ông được dân xã Cổ Lễ lập đền thờ tại nguyên quán, gọi là Đào Sư Tích Từ. Ngày nay, tại chùa Cổ Lễ có tấm bia nhị Đào công từ bi (bia về đền thờ hai cha con ông họ Đào) chép về công việc ấy. Tại làng Lý Hải, ông được cũng thờ ở Miếu quốc tế (Miếu được cả nước tế tự) và được xếp là bậc danh hiền, phong phúc thần.
Tác phẩm
Khu đền thờ Trạng Nguyên tại thôn Song Khê, xã Song Khê, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
Văn phẩm của Đào Sư Tích để lại hiện còn có:
Bài văn Đình đối của ông trong kì thi khoa Giáp Dần năm 1374. Đây cũng là bài văn thi Đình duy nhất của các khoa thi Đình đời Trần còn được ghi chép lại.
Bài Cảnh tinh phú (phú sao Cảnh) chép trong Quần hiền phú tập là tập phú của các danh sĩ các đời từ Trần, Hồ và Lê, do ông Nguyễn Thiên Túng viết bài tựa biên năm Diên Ninh Đinh Sửu (1459).
Đào Sư Tích [陶師績] [? – ?]. Người làng Cổ Lễ, huyện Nam Chân , sau đổi là huyện Nam Trực, phủ Thiên Trường (Nay gồm một phần đất các huyện Xuân Thủy, Nam Trực, Trực Ninh, Thành phố Nam Định thuộc tỉnh Nam Định) Long Khánh thứ 2 (1374), đời Trần Duệ Tông
Trình độ: Đỗ trạng nguyên khoa Giáp Dần
Chức vụ: Làm quan Tả tư lang trung
Tóm tắt: Giáp Dần, năm thứ 2 (1374). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 7).
Tháng 2, mùa xuân. Bắt đầu đặt khoa thi tiến sĩ.
Trước đây, khoa thái học sinh, cứ 7 năm một lần thi, số đậu chỉ lấy 30 người thôi. Đình thí, số lấy đỗ không có lệ đặt nhất định. Phàm tam quán thuộc quan học sinh, thị thần học sinh, tướng phủ học sinh và những người có tước phong đều được vào thi cả. Đến đây mới bắt đầu gọi là khoa tiến sĩ; ban cho Đào Sư Tích đậu trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đậu bảng nhỡn, Trần Đình Thâm đậu thám hoa, La Tu đậu hoàng giáp, cập đệ và các đồng cập đệ gồm 50 người, đều cho ăn yến và ban áo mũ, xuất thân có
đẳng hạng khác nhau.
Đỗ cao, ông được triều Trần đặt lên vai chức vụ quan trọng: Nhập nội hành khiển, Hữu ty lang trung. Ngồi trên ghế quan to, ông là người thanh liêm, cương trực. Ông rất quan tâm đến công việc biên phòng như: Góp phần bổ nhiệm các quan có đức, có tài, chỉ huy giỏi, quản lí quân sĩ có bài bản để cử đi trấn giữ nơi biên cương… Ông lo đến đời sống cho quân sĩ nơi đồn cao nắng mưa, nóng lạnh, sương giá, bão bùng.
Nhà Trần cử ông đi sứ sang nhà Minh. Lần đi sứ này, ông có trách vụ nặng nề là làm sao thuyết phục được vua Minh giảm mức cống tiến, đặc biệt là giảm được những vị tu hành sang phục vụ và việc giữ yên nơi biên cương giáp ranh hai nước.
Với lí lẽ ngay thẳng, vua Minh đã ra lệnh bãi bỏ việc cống nạp các nhà sư (thời Lý, thời Trần, đạo Phật là quốc đạo. Các nhà sư, các vị hòa thượng, đại đức là “vật báu” của quốc gia). Trước khi bãi bỏ việc cống hiến nhà sư, hằng năm, Đại Việt vẫn phải cung cấp đủ các vị tu hành do nhà Minh đòi hỏi. Cùng với việc bãi bỏ việc cống nạp các nhà sư, một số cống vật khác cũng được giảm bớt. Những nơi giáp ranh hai nước, chỗ thường xảy ra “sự cố” cũng được giải quyết ổn định.
Vua Minh mến tài của ông đã tặng ông bốn chữ “Lưỡng quốc trạng nguyên”. Về nước, ông đi các nơi, nắm vững binh tình, thăm hỏi chúng dân, gặp gỡ quân sĩ để ông có đủ “vốn” viết tác phẩm “Sách lược phục hưng Đại Việt”.
Lời chua – Đào Sư Tích: Người huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường.
Lê Hiến Phủ: Người huyện Đông Kết, phủ Khoái Châu.
Trần Đình Thâm: Người huyện Đông Triều, phủ Sách Giang.
La Tu: Người huyện Thuần Hựu, thuộc Thanh Hóa
Tân Dậu, năm thứ 5 (1381). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 14)
Tháng 5, lấy Đào Sư Tích làm Nhập nội hành khiển hữu ly lang trung, Toàn Bân, cha Sư Tích, làm tri Thẩm hình viện sự.
Nơi An nghỉ: Hiện đền thờ ông ở xã Ninh An, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Tham khảo: Được lấy từ ĐVSKTT & KĐVSTGCM