Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và con người trong “Việt Bắc” của Tố Hữu.
1. Vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc hiện lên qua hồi tưởng của người ra đi như những gam màu sống động:
– Đó là thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” → gợi nhớ những ngày gian khổ, thiếu thốn nhưng nghĩa tình.
– Đó là thiên nhiên thơ mộng, thanh bình trong cảnh: “bản khói cùng sương”, “trăng lên đầu núi”, “nắng lưng nương”, “rừng nứa”, “bờ tre”, “ngòi Thia”, “sông Đáy”, suối Lê,…
– Đó là thiên nhiên tứ bình tươi đẹp: mùa đông ấm áp với sắc hoa chuối đỏ tươi, mùa xuân hoa mơ “trắng rừng” biên giới, mùa hạ với hoa Phách vàng rực rỡ, mùa thu thanh bình dưới trăng đêm rọi sáng rừng già.
– Đó còn là thiên nhiên nghĩa tình: thiên nhiên cho trám cho măng; thiên nhiên chở che bộ đội; thiên nhiên dồn quân thù vào tử địa.
2. Vẻ đẹp qua nỗi nhớ con người Việt Bắc:
– Con người Việt Bắc nghĩa tình: nhường cơm sẻ áo cho cán bộ, cùng nhau sẻ chia bao cay đắng ngọt bùi; con người khuya sớm đi về; người mẹ “nắng cháy lưng”; cho đến con người lao động với bao phẩm chất cao đẹp.
– Người Việt Bắc còn là con người kháng chiến đã cùng với Trung Ương Chính Phủ “cả chiến khu một lòng” – đồng lòng, chung sức đánh Pháp, đuổi Nhật mang lại hoà bình cho đất nước.
– Thiên nhiên và con người Việt Bắc nghĩa tình đã góp phần làm nên cuộc cách mạng tháng Tám và “Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” (Tố Hữu). Bởi vậy, Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng “quê hương cách mạng dựng nên Cộng Hoà”. Người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương bịn rịn cũng là bởi vì xem Việt Bắc là quê hương thứ hai của mình.
Bài tham khảo:
- Mở bài:
Đây là đoạn thơ đặc sắc nhất thể hiện sinh động và thấm thía nỗi nhớ nhung tha thiết của người ra đi với cảnh và người Việt Bắc. Trong đoạn thơ, thiên nhiên và con người Việt Bắc đã hiện lên với những sắc màu, dáng vẻ thân thuộc, đẹp đẽ và bình dị, thấm đượm tình thương nỗi nhớ của người đi.
- Thân bài:
Mở đầu đoạn tứ bình là hai câu chủ đề:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.
Đây là câu hỏi đầu tiên từ phía người đi, một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu; có thể thấy người ra đi hỏi mà không chờ lời đáp, không có sự băn khoăn, trăn trở, hỏi chỉ để bộc lộ nỗi bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Và có lẽ cũng vì thế nên ngay sau câu hỏi đã là lời khẳng định: “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”. Hai câu thơ đầy ắp những ta và mình, những mình nhớ, ta nhớ…Yếu tố điệp của ngôn từ cho thấy hình ảnh họ đầy ắp trong lòng nhau và nỗi lưu luyến nhớ thương cứ giăng mắc như tơ vương quấn quýt.
Nỗi nhớ của người đi hướng tới hoa cùng người. Hoa có thể hiểu theo nghĩa cụ thể với hoa chuối đỏ tươi hay hoa mơ nở trắng rừng… nhưng cũng có thể hiểu hoa là hình ảnh hoán dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc. Khi về xuôi, người kháng chiến da diết nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc, hai đối tượng ấy thật ra không thể tách rời mà luôn hòa quyện, gắn bó, sự gắn bó được thể hiện ngay trong các từ những, cùng kết nối, quấn quýt giữa hoa và người.
Trong 8 câu thơ tiếp theo, cứ một câu nói về nỗi nhớ với thiên nhiên lại tiếp đến một câu bộc lộ nỗi nhớ với con người. Kết cấu này khiến đoạn thơ mang bóng dáng thể hứng trong ca dao (Trên trời có đám mây xanh…), nhưng nếu trong ca dao, cảnh chủ yếu để tạo cảm hứng cho tình – tức cảnh sinh tình, thì trong đoạn thơ của Việt Bắc, cảnh vừa là nền cho con người xuất hiện , vừa là một phần trong nỗi nhớ của người ra đi bên cạnh nỗi nhớ sâu đậm với con người.
Tám câu sau là bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi. Có thể coi 8 câu thơ này là một bức tranh tứ bình đặc sắc của núi rừng Việt Bắc. Tuy nhiên, khác những bộ tứ bình truyền thống tả cảnh theo trình tự: Xuân, hạ, thu, đông; bốn mùa của Việt Bắc hiện ra trong hai thời điểm của quá khứ và hiện tại. Mùa đông, mùa xuân, mùa hạ là những cảnh sắc hiện lên trong hoài niệm về quá khứ khi thời gian đã sàn lọc để kí ức người ra đi chỉ lưu giữ lại những ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Mùa thu là bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình, cảnh thu không chỉ là cảnh sắc thơ mộng của thiên nhiên mà còn là mùa thu hòa bình trong hiện tại, là mùa thu chia li với bao vấn vương, lưu luyến.
Tranh tứ bình truyền thống vốn hướng tới miêu tả ngoại cảnh, với điệp từ nhớ trong đoạn thơ, Tố Hữu đã cho thấy trong nỗi nhớ của người ra đi, đây là những bức tranh tâm cảnh. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên rất bình dị, gần gũi, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Màu sắc trong bộ tứ bình khi rực rỡ chói chang, khi thơ mộng, dịu mát; cảnh tượng trong bộ tứ bình lúc tươi tắn, rộn ràng, lúc lại trống vắng, hắt hiu; thiên nhiên trong bộ tứ bình có cảnh ngày với nắng vàng, với hoa mơ trắng…, lại có cả cảnh đêm với ánh trăng thu…Và đặc biệt nhất trong bộ tứ bình tuyệt đẹp của Việt Bắc, thiên nhiên luôn hòa quyện, quấn quýt, gắn bó với con người.
Mở đầu là bức tranh Việt Bắc sự mùa đông qua sự phác họa tinh tế cả về hình khối, màu sắc và ánh sáng:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Hai câu thơ vừa mở rộng không gian nghệ thuật với chiều rộng mênh mông của rừng xanh, vừa đưa không gian ấy lên chiều cao ngút ngàn của đèo núi, chiều cao vời vợi của bầu trời. Trên nền xanh thăm thẳm, hùng vĩ của rừng đại ngàn là sắc đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ tươi nổi bật trên nền xanh vừa tạo cảm giác chói chang, ấm áp, mỗi bông hoa như một ngọn lửa thắp sáng và xua đi cái lạnh lẽo của núi rừng mùa đông, vừa cồn cào như những ánh mắt dõi theo, như những bàn tay vẫy gọi đầy lưu luyến níu bước người ra đi. Ánh nắng trên đèo cao càng làm khu rừng sáng và ấm hơn, bức tranh thiên nhiên cũng vì thế mà được mở rộng phóng khoáng hơn.
Sự phối hợp khéo léo giữa ánh sáng và màu sắc khiến bức tranh mùa đông càng trở nên rực rỡ: Màu xanh thăm thẳm của rừng sâu, màu đỏ tươi tắn của hoa chuối, màu vàng ấm áp của nắng mùa đông, và đặc biệt là ánh phản quang của nắng trên nước thép sáng loáng của con dao người đi rừng. Trong nỗi nhớ nhung của người về xuôi, sự khắc nghiệt của mùa đông nơi núi rừng Việt Bắc đã hoàn toàn được thay thế bằng vẻ đẹp thơ mộng đầy sức níu kéo.
Trên nền thiên nhiên khoáng đạt ấy là hình ảnh con người với dao gài thắt lưng, sự xuất hiện của con người càng làm tăng thêm vẻ đẹp ấm áp, thơ mộng cho mùa đông Việt Bắc. Người dân Việt Bắc hiện ra qua một nét vẽ phác đơn sơ mà đầy ấn tượng của bút pháp chấm phá trong hội họa, đó là hình ảnh dao gài thắt lưng. Đặt sau cụm từ nắng ánh ở trạng thái động, câu thơ như một góc bất ngờ của nghệ thuật nhiếp ảnh kì thú, tạo hình con người trong tư thế làm chủ, tỏa sáng từ trên cao. Với con dao đi rừng lấp lóa gài ngang lưng, với vóc dáng lồng lộng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như lớn lao, mạnh mẽ, rắn rỏi hơn giữa núi rừng hùng vĩ, làm tăng thêm sự cảm phục, ngưỡng mộ và yêu mến vô cùng trong lòng người đi.
Việt Bắc khi mùa xuân tới tiếp tục hiện ra trong nỗi nhớ của người đi với sắc hoa mơ trắng rừng:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Nếu mùa đông Việt Bắc có những lúc chói chang, ấm áp trong ánh nắng vàng thì thiên nhiên mùa xuân lại được miêu tả trong những gam màu dịu mát, trẻ trung. Trong một bài thơ khác, Tố Hữu đã từng có những câu thơ xao xuyên ấn tượng về hoa mơ nơi rừng núi:
“Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”.
Và trong bộ tứ bình về Việt Bắc, sắc trắng ấy cũng đã làm xao xuyến lòng người về xuôi. Phép đảo ngữ trong cụm từ trắng rừng đem lại ấn tượng về những khu rừng Việt Bắc mênh mông, trắng xóa sắc hoa mơ; động từ nở cho thấy sức sống sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa xuân. Màu trắng của bạt ngàn hoa mơ không chỉ làm nổi bật linh hồn của mùa xuân mà còn gợi ra tâm trạng bâng khuâng xao xác trong lòng người. Nghệ thuật phối màu tinh tế của nhà thơ đã thể hiện rõ nét khi toàn bộ bức tranh mùa xuân Việt Bắc là những màu trắng: Trên nền trắng thanh khiết của hoa mơ là sắc trắng lấp lóa của nón, màu trắng ngà óng chuốt của những sợi giang.
Con người được miêu tả trong công việc đan nón. Động tác chuốt từng sợi giang cho thấy rõ vẻ đẹp của người lao động cần mẫn, tinh tế và khéo léo nơi núi rừng. Đó cũng chính là những nét đáng yêu, đáng nhớ của Việt Bắc mãi in đậm trong lòng người ra đi.
Mùa hè của Việt Bắc được tái hiện trong nỗi nhớ tràn đầy cả âm thanh của ve rừng và sắc màu của nắng:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Câu 6 miêu tả âm thanh của tiếng ve kêu và màu vàng của rừng phách. Tiếng ve vang lên báo hiệu mùa hè đã tới gợi ra cái náo nức của thời gian qua một tín hiệu rộn rã của không gian. Phách là một loại cây gỗ lim ở rừng Việt Bắc, loại nở hoa vào mùa hè, trước lúc nở hoa, cả rừng cây đồng loạt thay lá, chuyển từ màu xanh sang màu vàng chỉ trong vài ngày. Động từ đổ miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngập trong lòng người.
Thực tế, màu vàng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve chỉ là hai hiện tượng thiên nhiên xuất hiện trong cùng một thời điểm của mùa hè mà hoàn toàn không có quan hệ gì với nhau. Câu thơ của Tố Hữu đã đem đến cho chúng ta một tương quan kì diệu khiến cảnh vật như có linh hồn và sự giao cảm: Tưởng như sau sự giục giã của tiếng ve, có một sự náo nức kì lạ của thiên nhiên, cả một dòng thác vàng đổ òa từ trời cao xuống rừng phách khiến khu rừng phút chốc được khoác tấm áo vàng lộng lẫy; cũng có thể hiểu chính vì sắc vàng kiêu sa, rực rỡ của rừng phách mà bầy ve rừng không thể cầm lòng, phải náo nức cất lên tiếng gọi hè về. Và bức thứ ba trong bộ tứ bình của Việt Bắc vẫn tiếp tục được người nghệ sĩ tài hoa phối màu thật hài hòa, ấn tượng giữa sắc vàng của rừng phách mênh mông với sắc vàng của những đốt măng thầm lặng.
Cũng như người đi rừng, người đan nón trong hai bức tranh của mùa đông và mùa xuân, người dân Việt Bắc trong bức tranh mùa hạ cũng được miêu tả trong cảnh lao động, đó là cô em gái hái măng một mình. Em gái là cách gọi thân thương trìu mến trong gia đình; tác động hái măng gợi dáng vẻ cắm cúi, thầm lặng khiến cô gái như càng nhỏ bé hơn giữa mênh mông rừng núi; hai chữ một mình đem lại cảm giác cô đơn, sự cô đơn trống trải sau lưng người ra đi. Cùng với tiếng ve kêu trong rừng vắng, hình ảnh cô em gái hái măng một mình đã đem lại sự hiu hắt đượm buồn cho cảnh sắc núi rừng. Cảnh phảng phất buồn nhưng vẫn đẹp một vẻ đẹp tĩnh vắng và trong sáng – cả vẻ đẹp và nỗi buồn đều làm lưu luyến bước chân người ra đi.
Hai câu thơ cuối là hình ảnh Việt Bắc khi mùa thu tới:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm chia li giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Bức tranh mùa thu được phác họa trong gam màu dịu mát của ánh trăng thanh bình. Thông thường, vầng trăng từ trên trời cao sẽ tỏa ánh sáng chan hòa xuống không gian mênh mông của mặt đất. Trong bức tranh của Tố Hữu, đó lại là trăng rọi xuống rừng thu. Rọi là động từ miêu tả nguồn ánh sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian.
Cách dùng từ này không chỉ giúp nhà thơ miêu tả chính xác ánh trăng lọt qua vòm cây, kẽ lá của núi rừng mà còn thể hiện tinh tế những cảm xúc của con người: Đêm nay, trăng sao cũng như thấu hiểu lòng người, trong giờ phút chia li như muốn dành riêng cho Việt Bắc, muốn tập trung soi chiếu hình ảnh thiên nhiên của con người Việt Bắc trong nỗi nhớ thương tha thiết của người ra đi .
Mùa thu càng ngọt ngào hơn với tiếng hát ân tình thủy chung. Ánh trăng đã là hình ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữa rừng sâu, dưới ánh trăng thanh càng làm đậm hơn cảm giác tươi vui, thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh. Có thế nhận ra sự thay đổi trong cảm xúc của người ra đi và hình ảnh người ở lại. Nếu ở những bức tranh mùa đông, mùa xuân, mùa hạ, nhà thơ hướng nỗi nhớ tới những người lao động cụ thể với người đi rừng, người đan nón, người hái măng… thì ở bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình Việt Bắc, tính chất phiếm chỉ trong cụm từ nhớ ai khiến hình ảnh con người như nhòa đi, nỗi nhớ trở lên sâu đậm, ám ảnh hơn. Khi thời khắc chia li đến gần đối tượng của nỗi nhớ bây giờ không còn là một và hình ảnh riêng lẻ, cụ thể mà là tất cả những người dân Việt Bắc nghèo khổ, trung hậu, nghĩa tình. Âm thanh của tiếng hát rộn vang trong đêm trăng cũng cho thấy đó là tiếng hát của đám đông, tập thể, của những người ở lại đang trào dâng nỗi nhớ nhung, của những người ra đi đang da diết niềm lưu luyến.
- Kết bài:
Hòa bình là sự kiện lớn lao đem lại niềm vui cho cả dân tộc, nhưng hòa bình cũng là thời điểm chia tay đầy bâng khuâng lưu luyến giữa Việt Bắc với những người kháng chiến. Miêu tả tiếng hát gợi ân tình của người ở lại, nhắc sự thủy chung của người ra đi trên nền ánh trăng hòa bình có lẽ là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ khiến cặp lục bát kết đoạn tứ bình hàm chứa một tâm nguyện đinh ninh: Những đổi thay trong cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể làm người đi thay lòng đổi dạ; người về xuôi sẽ không bao giờ lãng quên ánh trăng ân tình giữa rừng sâu Việt Bắc, và xin Việt Bắc hãy mãi tin và tấm lòng thủy chung của người đi.