Tình cảm yêu thương của người cháu dành cho người bà hiền hậu và bếp lửa quê hương trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
- Mở bài:
Đã có biết bao ngọn lửa thắp sáng cảm xúc trong văn thơ làm rung động trái tim con người. Bằng Việt cũng góp một phần ngọn lửa yêu thương từ trái tim và nguồn thơ của mình để sưởi ấm tình cảm nồng nàn trong mỗi người đọc từ hơi ấm thấm đượm tình bà cháu trong bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt.
- Thân bài:
Không phải ai cũng có thể quên một tuổi thơ, đặc biệt là những kỷ niệm quá khứ về một thời kỳ nghèo khó nhưng lại chan chứa bao tình cảm ấm nồng từ những người thân yêu. “Bếp lửa” của Bằng Việt cháy bằng tình cảm và đẹp hơn trong những vần thơ theo dòng hồi tưởng về tuổi thơ của đứa cháu xa nhà.
Nhà thơ Bằng Việt đã từng trải qua một thời gian khổ đói nghèo, chiến tranh loạn lạc, nhưng ông dâu chỉ có mất mát, khổ cực mà ngược lại còn nhận được cả một điều rất đỗi thiêng liêng quý báu. Đó chính là tình cảm của người bà yêu quý đã tần tảo chăm lo cho ông suốt những năm tháng tuổi thơ.
Bằng những vần thơ của tấm lòng cùng với bao cảm xúc dạt dào và những hình tượng thơ đẹp đẽ sáng tạo thắm đượm trong hình ảnh “bếp lửa” của tình thương. Bằng Việt đã đưa người đọc hòa nhập tâm hồn vào dòng hồi ức tuổi thơ của người cháu đi học xa quê trong nỗi nhớ bồi hồi và vẽ nên tình bà cháu xúc động chân thành, tha thiết.
Không phải ngẫu nhiên mà Bằng Việt mà đặt tên cho bài thơ của mình cái tên thật bình dị “Bếp lửa”. Bởi vậy là tất cả những gì chân thành, thiết tha nhất của cái tình người gửi gắm vào thơ, đọng lại trong hình ảnh bếp lửa thân thuộc. Và không một chút hoa mỹ nào, nhan đề bài thơ mang một sắc thái, một cái hồn rất riêng của nó. Đó là sự giản dị trong tình cảm ấm nồng của ngọn lửa yêu thương. Rất nhẹ nhàng, tác giả đưa hồn thơ bước nhẹ vào lòng người đọc với hình ảnh bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh“bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Bếp lửa được nhóm lên trong “sương sớm” một ngọn lửa “chờn vờn” như đang hiện ngay trước mắt.
Bằng Việt đã thắp sáng từ đầu bài thơ một ngọn lửa sao mà có thực giản dị đến thế, để rồi ngọn lửa ấy sáng lên một tia “ấp iu nồng đượm”. Phải chăng đó chính là tia lửa tình cảm dạt dào đầu tiên xuất hiện trong bài thơ mà tác giả gửi gắm vào đấy? ta thấy được cả một ý nghĩa thiêng liêng từ bếp lửa “ấp iu nồng đượm” ấy. Chính là sự chở che ôm ấp của lòng bà. Bà đã xuất hiện thật nhẹ nhàng và đẹp đẽ đến thế. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.
Ba câu thơ đầu là sự gợi mở chuẩn cho một câu chuyện dài, cảm xúc cuộn về gợi nhớ kí ức xa xăm. Nhà thơ lần lượt hồi tưởng lại từng thời đoạn của cuộc đời có ánh sáng bếp lửa soi bừng gương mặt, ấm áp ở trong lòng:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc người gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tuổi thơ của cháu là thế. Những ngày gian khổ thiếu thốn, đói kém hành hạ con người in sâu trong ký ức của cháu “Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi” rồi những ngày “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”. Và trong suốt thời gian ấy cháu có bà… Có lẽ tình cảm bà cháu đã in sâu trong tiềm thức trẻ thơ của người cháu khi “cháu đã quen mùi khói” mùi nồng ấm có bà bên cạnh.
Tác giả nhắc đi nhắc lại “mùi khói” “khói hun” đã làm “nhèm mắt cháu”. Dường như đã quen quá bếp lửa tuổi thơ, để rồi cháu” “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” mới thấy được những kỉ niệm tuổi thơ không dễ gì quên được. Cháu vẫn nhớ mãi cảm giác thuở nào như đang sống lại những năm tháng tuổi nhỏ. Cảm giác cay cay ở sống mũi hay là niềm xúc động khi nhớ lại. Nhưng chắc chắn tất cả những điều ấy đều thật ấm nồng trong tim cháu. Lời thơ cháu đã kết nối tâm hồn người đọc với hồi tưởng của tác giả. Hình ảnh thơ chân thực gợi lên ở trong ta sự ấm áp, quen thuộc của cuộc sống. Mùi khói bếp không những cay sè mà đã trở thành một phần của quê hương, một phần của cuộc sống không thể nào phai mờ.
Thời gian kế tiếp kéo dài kí ức. Nhận thức của người cháu về cuộc sống, về tình bà cũng trưởng thành và sâu đậm hơn theo thời gian:
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Từ bếp lửa nhỏ bé thân thương, tuổi thơ cháu trải rộng ra theo những “cánh đồng xa” trong miền ký ức lưu vào trong thơ. Khoảng không gian “tám năm ròng” ấy là khoảng thời gian ở bên bà thật đẹp, thật sâu sắc, để cháu nhóm lên ngọn lửa tình cảm thắm nồng trong tim cùng những lần “cháu cùng bà nhóm lửa”
Thật hồn nhiên và trong sáng khi nhà thơ tâm tình với chim tu hú. Có lẽ đây là nét thơ sáng tạo của Bằng Việt khi nói về bà, qua lời nói chân thành cháu gửi đến tiếng chim tu hú trên những cánh đồng xa. Cái âm thanh đồng quê bình dị ấy mới gần gũi làm sao! Với cháu tiếng tu hú tựa như tiếng lòng tha thiết của cháu, tiếng quen thuộc đọng lại qua những lần “bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”. Và cứ mỗi mùa tu hú kêu trôi qua, bà vẫn luôn tảo tần gằn bó với cháu.
Sự quan tâm chăm sóc của bà, người cháu nhớ lại bằng lời thơ bình dị bởi “Mẹ cùng công cha công tác bận không về” nên “cháu ở cùng bà”. Tình thương của bà dành cho cháu đơn giản chỉ là “bà bảo cháu nghe”, “bà dạy cháu làm”, “bà chăm cháu học”. Nhưng với cháu đó là cả một biển trời yêu thương, thế nên cháu thương bà vất vả lo toan, thương lắm! “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Suy nghĩ trẻ thơ được đỡ đần bà, Bằng Việt viết nên từ chính tấm lòng và sự thấu hiểu của mình nên câu thơ mới thắm đẹp mà lại rất bình dị, hàm súc và mang màu sắc trẻ thơ như thế. Dường như lúc này chỉ còn lại cháu với tâm hồn tràn ngập ký ức niềm yêu thương gửi vào lời thơ đầy trữ tình:
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.
Trách cứ thì nhẹ mà thương thì nhiều, cháu gọi tu hú bằng lời thơ tha thiết “chẳng đến ở cùng bà?”. Đó là mong muốn hồn nhiên của trẻ thơ, cảm thông trước tiếng kêu lạc loài của tu hú. Đó là ước muốn gắn kết trong cuộc sống giwuax thời đói khát cùng cực. Tiếng chim tu hú có sức ám ảnh không thể nào quên về sự thê lương, nỗi cô đơn, sợ hãi của người cháu. Sau tất cả sự lãng quên, còn lại tiếng chim tu hú hòa quện trong ánh sáng của bếp lửa và hình ảnh người bà hiền hậu. Bởi thế, sau tiếng kêu là những sự kiện đau thương hiện về:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Chiến tranh đi qua với “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, gian khổ là thế đấy nhưng được sự đỡ đần của hàng xóm, hay bà cháu có thể dựng lại “túp lều tranh”. Càng đáng quý hơn nữa khi bà vẫn “vững lòng”. Cái vững lòng đã in sâu trong tâm trí cháu như một phẩm chât cao đẹp mà cháu luôn tự hào khi nhờ về bà. Lời dặn của bà trong thơ, thật tự nhiên mà sao chứa chan bao ý nghĩa từ tấm lòng không muốn để các con ở nơi chiến khu phải lo lắng để kiên cường chiến đấu bảo vệ quê hương.
Trong nghịch cảnh đau thương, bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
Từ bếp lửa thân thương, cháu nghĩ đến ngọn lửa thắp sáng của người bà kính yêu:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhem
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chan chứa niềm tin dai dẳng…
“Rồi sớm rồi chiều” nghĩa là bất kể sớm tối, nghĩa là tất cả thời gian. Lúc nào cũng thấy bếp lửa hừng sáng lên từ đôi tay cằn cỗi của bà. Ngọn lửa ấy lòng bà luôn ủ sẵn. Nó cháy lên trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh. Ngọn lửa ấy giờ đã sáng bừng lên thành một ngọn lửa bất diệt, làm một điểm tựa sâu sắc của dòng thơ xoáy sâu vào tâm hồn để bao cảm xúc dâng trào.
“Một ngọn lửa” tác giả đã thốt lên trong những vần thơ thật xúc động bởi nó mang một ý nghĩa quá đỗi lớn lao và đẹp đẽ muôn phần. Vì đó là ngọn lửa “sống” trong tim bà và mãi tồn tại qua bao năm tháng với những gì quý giá nhất của người bà. Một nét thơ khóe lóe khi nhà thơ đưa vào phép điệp ngữ để tôn lên ánh sáng của “niềm tin dai dẳng” xuất phát từ tấm lòng và phẩm chất yêu thương, khẳng định bản lĩnh sống và ý chí cao đẹp của bà. Đồng thời cũng là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam giữa thời loạn lạc.
Cũng như ngọn lửa, tình cảm mến yêu và che chở của bà dành cho cháu, dành cho quê hương đất nước chưa bao giờ gnuooij tắt. Đôi khi nó lặng đi rồi lại bùng lên mạnh mẽ. Lúc nào bà cũng vững tin, lúc nào bà cũng động viên cỗ vũ sống mạnh mẽ và hoài vọng, tin tưởng ở tương lai. Đó chính là ngọn lửa đích thực trong lòng bà. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Kết thức bài thơ, ngọn lửa ấm vẫn cháy trong suy ngẫm về người bà hiền hậu và bếp lửa yêu thương:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Cuộc đời của bà có biết bao nhiên “lận đận”, nhiều “nắng mưa” nhưng vẫn cần mẫn và chu đáo, bà luôn chịu thương chịu khó chăm lo cho con cháu thân yêu. Lời thơ “biết mấy nắng mưa” của người cháu sao mà thương quá, cảm động quá. Mấy chục năm của bà và “cho đến tận bây giờ” cháu vẫn thương mãi cái “thói quen dậy sớm” của bà, thương bà đã nhóm bếp lửa yêu thương suốt cả cuộc đời, vì cháu vì những điều tốt đẹp. Bà đã nhóm lửa bằng cả lòng đôn hậu để hôm nay những vần thơ của cháu chứa chan bao nghĩa nặng tình sâu và lòng biết ơn sâu sắc.
Điệp từ “nhóm” cứ vang lên theo từng cung bậc tình cảm lớn dần lên của cháu và cả niềm xúc động thiết than, kết lại trong miền ký ức của người cháu những nét họa tình thương từ các hình ảnh rất thật, rất gần gũi thân quen. Những chi tiết không chỉ nổi bật tình cảm trong thơ mà còn khơi gợi bao tình cảm thầm lặng trong tim người đọc. Bếp lửa gắn bó với tuổi thơ ấm áp, vị ngọt bùi của khoai ắn bình dị thân quen, hương vị ngào ngạt của nồi xôi gạo san sẻ yêu thương.
Bếp lửa của riêng bà, của riêng nhà thơ. Bằng Việt đã định nghĩa tình yêu thương từ những điều bình dị thân quen nhất, từ cuộc sống sẻ chia cùng nhau. Bếp lửa ấy sẽ mang theo tâm tưởng con người đến suốt cuộc đời. Cháu xúc động với hình ảnh bếp lửa của bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Phải chăng nó đã được bà nhen dậy trong tim cháu bao “niềm yêu thương”, bao ước mơ cao đẹp. Ngọn lửa soi sáng tâm hồn cháu và sười ấm suốt quãng đời tuổi thơ hạnh phúc bên bà.
Nghĩ về bếp lửa quê hương và người bà hiền hâu, nhà thơ đã thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng: Bếp lửa”. Bếp lửa ấy kì lạ bởi vì nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, trong cả dòng thời gian xa xôi vời vợi. Nó cháy lên từ đôi tay tảo tần của bà. Đó là ngọn lửa của niềm tin yêu cuộc sống, không bao giờ chịu khuất phục của con người. Nó thiêng liêng là bởi ngọn lửa vốn là linh vật được con người tồn sùng từ xưa. Ngọn lửa ấy là ngọn lửa của tình bà bất diệt, là ngọn lửa của tình yêu đất nước. Chính ngọn lửa ấy thắp lên trong lòng mọi thế hệ lòng thủy chung đối với dân tộc, đối với đất nước.
Đúc kết lại bài thơ là lời tâm sự thật đằm thắm lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn bà sâu sắc. Người cháu nay đã trưởng thành viết nên những vần thơ của hiện tại. Một khung cảnh mới, một cuộc đời mới đầy đủ và ấm no hơn nhưng có bao giờ cháu nguôi nhớ thương bà. Nhớ về bà, về bếp lửa tuổi thơ, tình cảm đẹp đẽ cho dòng cảm xúc ngọt ngào lại nhẹ nhàng theo những vần thơ:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…
Câu hỏi đượm chất trữ tình thay lời của tấm lòng thể hiện sự nhớ mong và một niềm hy vọng không nguôi hướng về quê hương có bà, có bếp lửa đang chờ đời. “Bếp lửa” của Bằng Việt – nét đẹp giản dị mà thiêng liêng của tình cảm bà cháu trong những năm tháng chiến tranh. Đẹp hơn với hình tượng “bếp lửa” chan chứa ý nghĩa kỳ diệu cùng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình thực sự đã nối tâm hồn người đọc vào không gian dịu lắng của niềm yêu thương con người.
Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc. Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
- Kết bài:
Một Bếp lửa lắng đọng yêu thương đã làm đẹp thêm cho tâm hồn mỗi con người chính bằng cảm xúc chân thành và đẹp đẽ của Bằng Việt qua tình bà cháu cao đẹp và ý nghĩa thiêng liêng. Bài thơ gợi nhắc trong ta những tình cảm bình dị thân thương, thêm yêu quý nhưng người thân thiết gắn bó với mình. Bài thơ Bếp lửa biểu hiện một triết lý thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.