y-nghia-nhan-de-truyen-ngan-nhung-dua-con-trong-gia-dinh

Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Những đứa con trong gia đình

Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”

Những đứa con trong gia đình” là một nhan đề gợi nhiều ý nghĩa. “Những đứa con” ở đây vừa là Việt và Chiến – thế hệ trẻ sinh ra và trưởng thành trong những năm kháng chiến chống đế quốc mĩ ác liệt – vừa là những con người, những thế hệ (ba má việt, chú Năm, Chiến, Việt…) trong một “gia đình” nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc. Hai chữ “gia đình” trong nhan đề không chỉ là cái gia đình nhỏ của hai chị em Chiến, Việt mà còn là cả một dòng họ, là đại gia đình gồm nhiều thế hệ mà chú Năm là người đang lưu giữ cuốn sổ truyền thống. Chính trong cuốn sổ này, chú Năm đã viết: “Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển. Mà biển thì rộng lắm,…rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.

Cứ theo đoạn viết này thì “ những đứa con trong gia đình” còn có thể hiểu là các thế hệu người dân miền Nam trong đại “gia đình miền Nam” ruột thịt, là lớp lớp những con người Việt Nam yêu  nước thương nhà trong gia đình Tổ quốc thân yêu đang vùng lên mạnh mẽ trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Điều này càng được củng cố bằng chính phát biểu của tác giả trong một sáng tác trước đó: “ Chúng ta hãy nghe lại chính tiếng nói của mặt biển mà chúng ta chỉ là một giọt nước đang hòa chung trong đó. Chúng ta tự hào sung sướng được sống trong lòng biển vì giọt nước có vinh quang đến mấy cũng chỉ là giọt nước, nó sẽ khô ngay lập tức nếu không được nằm chung với biển, còn vinh quang của biển thì đời đời không lay chuyển được” (Đại hội anh hùng). Như vậy, với nhan đề này, nhà văn muốn chúng ta không chỉ nghĩ đến một gia đình miền Nam cụ thể mà là đại gia đình Tổ quốc hào hùng đang chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ nỗi thương đau.

Nhan đề “những đứa con gia đình” còn ẩn chứa cách lí giải của nhà văn về sức mạnh tinh thần kì diệu của con người việt Nam thời chống Mĩ và quan niệm của ông về người anh hùng: Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần kì diệu của con người Việt Nam  trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. Và người anh hùng không chỉ là sản phẩm của thời đại mà còn là sự tiếp nối “một nguồn cội, một nếp nhà”, phẩm chất của họ là sự kế thừa và phát huy “một di sản thiêng liêng mà các thế hệ cha anh đã truyền lại và bàn giao lớp cháu con” (Đỗ Kim Hồi).


Dàn bài phân tích truyện ngắn NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH của Nguyễn Thi

  • Mở bài:

+ Nguyễn Thi (1928-1968), là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học kháng chiến chống Mĩ ở Nam bộ. Nguyễn Thi là cây bút có biệt tài phân tích tâm lý con người, có khả năng nhập sâu vào nội tâm nhân vật của mình, tạo nên những trang viết vừa giàu chất trữ tình vừa đầy chất sống hiện thực, với những hình tượng, những tính cách gân guốc, có cá tính mãnh liệt.

+ Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình được hoàn thành vào tháng  2 năm 1966, trong những ngày chiến đấu ác liệt chống đế quốc Mĩ. Khi đó nhà văn đang công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng.

  • Thân bài:

– Tác phẩm (đoạn trích) miêu tả tâm trạng của Việt – một chiến sĩ giải phóng quân, xuất thân trong một gia đình có mối thù sâu nặng với Mỹ-ngụy- khi tỉnh dậy lần thứ tư giữa chiến trường vắng lặng. Sau trận chiến đấu ác liệt tại khu rừng cao su, Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần và trong lần thứ tư này cảm nhận đầu tiên “bật lên” trong Việt là cái cảm giác một mình giữa chiến trường, đêm tối vắng lặng. Kế đó là những nỗi sợ hãi rất con trẻ của Việt và niềm vui của người lính này khi hình dung tiếng súng của ta, hình dung ra hình ảnh quen thuộc của các anh trong đơn vị. Cũng trong lần tỉnh dậy này, Việt đã hồi tưởng về buổi hai chị em tranh nhau ghi tên lên đường tòng quân giết giặc, về những tính toán sắp xếp việc nhà của chị Chiến trước ngày lên đường. Đoạn trích khép lại bằng cảnh hai chị em khiêng bàn thờ má “sang ở tạm bên nhà chú Năm”.

1. Ý nghĩa nhan đề.

– “Những đứa con trong gia đình” là một nhan đề gợi nhiều ý nghĩa. “Những đứa con” ở đây vừa là Việt và Chiến – thế hệ trẻ sinh ra và trưởng thành trong những năm kháng chiến chống đế quốc mĩ ác liệt – vừa là những con người, những thế hệ (ba má việt, chú Năm, Chiến, Việt…) trong một “gia đình” nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc. Hai chữ “gia đình” trong nhan đề không chỉ là cái gia đình nhỏ của hai chị em Chiến, Việt mà còn là cả một dòng họ, là đại gia đình gồm nhiều thế hệ mà chú Năm là người đang lưu giữ cuốn sổ truyền thống. Chính trong cuốn sổ này, chú Năm đã viết: “Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển. Mà biển thì rộng lắm,…rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.

– Cứ theo đoạn viết này thì “ những đứa con trong gia đình” còn có thể hiểu là các thế hệ người dân miền Nam trong đại “gia đình miền Nam” ruột thịt, là lớp lớp những con người Việt Nam yêu nước thương nhà trong gia đình Tổ quốc thân yêu đang vùng lên mạnh mẽ trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Điều này càng được củng cố bằng chính phát biểu của tác giả trong một sáng tác trước đó: “Chúng ta hãy nghe lại chính tiếng nói của mặt biển mà chúng ta chỉ là một giọt nước đang hòa chung trong đó. Chúng ta tự hào sung sướng được sống trong lòng biển vì giọt nước có vinh quang đến mấy cũng chỉ là giọt nước, nó sẽ khô ngay lập tức nếu không được nằm chung với biển, còn vinh quang của biển thì đời đời không lay chuyển được” (Đại hội anh hùng). Như vậy, với nhan đề này, nhà văn muốn chúng ta không chỉ nghĩ đến một gia đình miền Nam cụ thể mà là đại gia đình Tổ quốc hào hùng đang chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ nỗi thương đau.

– Nhan đề “Những đứa con gia đình” còn ẩn chứa cách lí giải của nhà văn về sức mạnh tinh thần kì diệu của con người việt Nam thời chống Mĩ và quan niệm của ông về người anh hùng: Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần kì diệu của con người Việt Nam  trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. Và người anh hùng không chỉ là sản phẩm của thời đại mà còn là sự tiếp nối “một nguồn cội, một nếp nhà”, phẩm chất của họ là sự kế thừa và phát huy “một di sản thiêng liêng mà các thế hệ cha anh đã truyền lại và bàn giao lớp cháu con” (Đỗ Kim Hồi).

2. Tình huống truyện đặc sắc.

– Truyện ngắn là thể loại có dung lượng nhỏ gọn, chi tiết cô đọng, cốt truyện thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế. Vì vậy, trong nghệ thuật truyện ngắn để khắc họa một hiện tượng đời sống, phát hiện một nét bản chất của cuộc đời, các nhà văn thường rất chú ý tới việc sáng tạo tình huống (VD: Chữ người tử tù, Vi hành, Vợ nhặt, Chiếc thuyền ngoài xa…)

– Là một truyện ngắn, Những đứa con trong gia đình cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Ở tác phẩm này, Nguyễn Thi đã sáng tạo tình huống: Việt – nhân vật chính của truyện bị thương nặng sau một trận đọ lê với giặc. Anh bị lạc đồng đội, cứ liên tục ngất đi rồi tỉnh lại trong hoàn cảnh chỉ có một mình giữa một chiến trường mênh mông đầy bóng tối. Bóng tối của màn đêm và bóng tối do mắt Việt bị thương nên anh không nhìn thấy gì bên ngoài. Chính trong trạng thái ấy, Việt đã hồi tưởng về gia đình mình, về những người thân thích ruột thịt: má Việt, chú Năm, chị Chiến, và về chính Việt trong những năm tháng ở gia đình. Những hồi tưởng ấy hiện ra đan xen với những cảm giác hiện tại ở Việt khi một mình bị thương giữa chiến trường vắng lặng.

– Với cách tạo tình huống này, Nguyễn Thi đã dễ dàng cất bỏ những tấm vách ngăn giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái đang ở trước mặt và cái đã thành kỉ niệm xa xưa, giữa những chi tiết thoáng đến, thoáng đi, tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên với những tư tưởng, tình cảm lớn lao, trọng đại. Kết cấu của tác phẩm, theo đó, trở nên linh hoạt, nhiều ngã rẽ, những khúc quanh mà người đọc không dễ dự kiến, đem đến những bất ngờ, thú vị và sự hấp dẫn cho câu chuyện. Cũng với tình huống này, những con người, những sự kiện hiện lên trong dòng kí ức vừa liên tục vừa đứt nối của Việt trở nên tự nhiên, chân thật và sống động hơn.

– Đối với Nguyễn thi, tình huống ấy chính là một cách thức nghệ thuật hữu hiện để thể hiện tư tưởng: gia đình, đó là phần cội nguồn thẳm sâu nhất trong mỗi con người. Chính truyền thống gia đình là nguồn sức mạnh thiêng liêng và lớn lao đối với mỗi chúng ta trong cuộc chiến đấu sống còn với quân thù.

3. Hình tượng các nhân vật.

a. Nhân vật chú Năm.

– Chú Năm là người duy nhất còn sống của thế hệ trước trong gia đình. Hình ảnh chú gắn liền với những câu hò và cuốn sổ ghi chép chuyện gia đình.

– Giọng hò của chú không hay, giọng “đục” và “tức như tiếng gà gáy” nhưng mỗi lần hò chú đều hò thật hết mình, thật trang nghiêm và tha thiết làm sao: “ Gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to… đầu chú lắc lư nhắc nhủ”. Nội dung câu hò của chú khi là những tấm áo vá quàng, con sông dài cá lội, khi về người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công… Trong trích đoạn, trước ngày chị em Chiến, Việt lên đường, giọng hò của chú lại vang lên, đó “không phải là giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông” mà nó “nổi lên giữa ban ngày” và “cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”.

– Tiếng hò của chú Năm như chiếc cầu bắc giữa quá khứ cha ông và lớp con cháu hôm nay. Nó thôi thúc, giục giã như những kì vọng lớn lao của các thế hệ trước đã và đang đặt trọn niềm tin vào những thế hệ mai sau. Tiếng hò ấy không chỉ là hồi trống lên đường mà còn là một lời thề thiêng trước lúc xung trận.

– Cuốn sổ ghi chép của chú Năm lưu giữ lại chiến công của các thế hệ và tội ác của kẻ thù. Gọi là cuốn sổ nhưng thực ra nó là một biên niên sử của gia đình. Cuốn sổ biên niên ấy được viết ra từ một ngòi bút thực sự bình dân “chữ viết lòng còng”, lời văn mộc mạc. Những sự kiện được ghi trong đó hết sức thon mọn kiểu như: thím Năm bị bắn bể suồng khi đi dọc lá chuối, chết còn mặc cái quần mới, trong túi còn hai đồng bạc hay ông nội ra nắm giàm bò bị lính tổng phòng bắn vào giữa bụng, thậm chí cuốn sổ còn ghi rõ ngày bà nội bị bom giặc đánh, cụ thể là đánh ba roi hay ngày bọn lính chửi bác Hai một câu… Lời lẽ trong cuốn sổ của chú Năm có vẻ đúng là những sự kể lể nhưng thử nghĩ xem mất cái chất vụng về thô mộc đó chắc chắn những gì chú Năm viết ra sẽ không còn giá trị của những bằng chứng nóng hổi về nợ máu của kẻ thù và về sự dũng cảm và kiên cường của dòng họ trong  chiến đấu!

– Cuốn sổ không chỉ là lịch sử gia đình mà còn là một hình thức giáo dục con cháu lòng tự hào về truyền thống và trách nhiệm với dòng họ mà chú Năm rất có ý thức xây dựng. Chú “thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó”. Câu nói này của chú Năm cần được hiểu trên hai ý nghĩa. Thứ nhất, chỉ được coi là con của gia đình những ai đã ghi vào được, đã làm nên được cái “khúc” của mình trong dòng sông truyền thống. Thứ hai, không thể hiểu được hết những “khúc” sau của một dòng sông nếu không hiểu ngọn nguồn đã sinh ra nó. Chính vì thế, khi chú nói với hai chị em Chiến, Việt: “Chừng nào bây trọng  tao giao cuốn sổ cho hai chi em bây” thì câu nói ấy không chỉ là sự bàn giao của thế hệ đi trước đối với thế hệ đi sau mà còn là sự nhắc nhở  về trách nhiệm đối với thế hệ mới – những người sẽ phải viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống gia đình

– Trong truyện, nhân vật chú Năm còn có một câu nói rất hay: “Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển. Mà biển thì rộng lắm… rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”. Câu nói này tự nhiên mà giàu ý nghĩa. Nó đã vượt ra ngoài không gian của một dòng sông gia đình để hòa vào biển cả, đại dương của nhân dân và nhân loại. Câu nói ấy bắt ta phải nghĩ đến không chỉ một gia đình mà cả một đất nước, thâm chí cả nhân loại tiến bộ đang hào hùng chiến đấu cho lẽ phải, công bằng, hạnh phúc bằng chính sức mạnh sinh ra từ nỗi thương đau.

b. Hình tượng nhân vật Việt.

– Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân giàu truyền thống cách mạng. Trong anh hội tụ những phẩm chất, tính cách cũng như vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp đáng quý của nhân dân miền nam trong thời kì đánh mĩ. Mang mối thù sâu nặng với Mĩ-ngụy: ông nội và bố Việt điều bị giặc giết hại, mẹ Việt vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với bọn giặc và cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, Chị Chiến, Chú năm, thằng út em và người chị nuôi lấy chồng xa. Việt và chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc, vì nhỏ tuổi đồng đội hay gọi thân thiết là “cậu tư”. Anh rất gắn bó với đơn vị đặc biệt là tiểu đội trưởng Tánh, như tình ruột thịt. Ở Việt luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu, tiêu diệt địch quyết lập được nhiều chiến công như chị chiến để trả thù cho ba má.

– Được tác giả kể lại trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt khi Việt đang chiến đấu ác liệt trong khi rừng cao su, anh đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần, mỗi lần ngất đi tỉnh lại những dòng hồi ức về những kỉ niệm thân thiết đã que của anh về chị chiến, về má, chú năm….lại ùa về. Ngoài ra những ấn tượng khó quên của chúng ta về nhân vật việt đó là tính cách của anh.

– Là một cậu bé mới lớn tính tình còn “Trẻ con”, vô tư, ngây thơ có phần nghịch ngợm ta có thể dễ dàng nhận thấy được những điều này qua những dòng hồi tưởng đứt quãng của Việt. Như việc anh hay giành với chị chiến chuyện bắn tàu giặc Mĩ trên sông Định thủy hay kể cả việc tưởng như nhỏ nhặt là tranh công bắt ếch với chị. Ngoài ra lúc chị Chiến không cho Việt đi bộ đội anh đã bộc lộ hành động rất “trẻ con” của mình đó là “đá trái dừa rụng xuống mương cái đùng”. Ngay cả khi đang bị thương ở khu rừng cao su nghĩ đến việt đối mặt với những tên giặc dường như không làm Việt cảm thấy sợ hãi mà điều trái ngược khi anh nhớ lại những câu chuyện của các chị kể lúc ở nhà về “Con ma cụt đầu” ngồi trên cây xoài lại khiến anh lạnh gáy, sợ hãi đến nỗi thở dốc. Tính tình “trẻ con”, vô tư ấy còn được thể hiện trong đêm sắp xa nhà đi bộ đội, trong khi chị chiến phải lo toan, phải sắp xếp việc nhà ổn thỏa còn Việt thì cứ “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, rồi thì nghịch ngợm “Chụp con đom đóm úp trong lòng bàn tay” rồi “ngủ quên lúc nào không hay”. Cả cách thương chị của Việt cũng thật trẻ con làm sao khi anh “Giấu chị như giấu của riêng” khi bị anh tánh và đồng đội chọc ghẹo. Và nổi bật cho cái tính cách trẻ con ấy dường như là lúc nằm lại chiến trường anh tỏ ra rất kiên cường, không hề sợ hãi vậy mà đến khi gặp lại đồng đội thì lại òa khóc một cách ngon lành “Khóc đó rồi lại cười đó”.

→ Nguyễn thi đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Việt, một tính cách rất đỗi đời thường, đáng yêu, dễ mến lại vô cùng sinh động mà không hề bị gượng ép. Đó dường như đã trở thành dấu ấn khó quên trong lòng độc giả về nhân vật này.

– Không dừng lại ở đấy Việt thật sự là một người chiến sĩ, người anh hùng hội tụ đủ các phẩm chất của một người lính với tính cách gan dạ, kiên cường, bản lĩnh không sợ hãi, khuất phục trước khó khăn. Lúc nhỏ Việt đã dám xông thẳng vào thằng giặc “luyện đầu ba” mà đá. Lớn lên dù vẫn chưa đủ tuổi nhưng việt vẫn quyết chí đi bộ đội cầm súng giết giặc trả thù cho Ba Má. Đi bộ đội được 2 năm, chiến đấu dũng cảm anh đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch lập lên chiến công mặc dù sao đó anh bị thương nặng ở hai mắt và ngất đi, chính điều này càng làm cho người đọc chúng ta thêm khâm phục trước sự gan dạ, dũng cảm của việt.

– Chi tiết khi anh bị lạc đơn vị, bị thương nhưng anh vẫn bình tĩnh, kiên cường và luôn ở tư thế chiến đấu “đạn đã lên nòng, ngón tay còn lại sẵn sàng nổ súng” khi phát hiện tên giặc nào tiến đến. Đặc biệt chi tiết chị chiến và Việt khiêng bàn thờ ba má sang gửi bên nhà chú năm để ngày mai lên đường nhập ngũ. Khẳng định sự trưởng thành trong con người Việt qua cảm giác “Mối thù giặc Mĩ đang đè nặng trên vai” chứng tỏ Việt đã sẵn sàng và xứng đáng viết tiếp tên mình vào dòng sông truyền thống cách mạng của gia đình mình.

– Cuối cùng ngoài những tính cách nổi bật bên ngoài không thể không nhắc đến tâm hồn Việt, một con người giàu tình yêu thương và gắn bó với gia đình sâu sắc. Khi việt bị trọng thương và ngất đi tỉnh lại đến tận 4 lần. Mỗi lần như thế lần lượt những dòng hồi tưởng của anh về gia đình, đồng đội, những người thân yêu của mình trong anh lại ùa về. Những dòng hồi ức đẹp đẽ, hạnh phúc ấy có lẽ nào là sợi dây tình cảm chắc chắn đang cố gắng giành lấy Việt khỏi cái lằn ranh mong manh giữa sự sống và cái chết nơi chiến trường ấy. Trong những hồi ức ấy Việt nhớ lại hình ảnh của má hiện lên nơi chị chiến và hình như anh có cảm giác má về đâu đây, về để dõi theo 2 đứa con của mình giờ đã trưởng thành để mà ngày mai lên đường đánh giặc, chống mĩ cứu nước và mặc dù đang bị thương nằm ở nơi chiến trường nhưng Việt luôn mong muốn gặp được má, rồi hình ảnh má bơi xuồng, xoa đầu Việt… dường như đó chính là sức mạnh của tình mẫu tử, sức mạnh để anh vượt qua được khó khăn, thử thách lúc ấy, và có lẽ đó cũng là phần tươi đẹp sâu thẩm, thiêng liêng nơi tâm hồn Việt. Chúng ta còn bắt gặp cả những dòng hồi ức về chú năm với những câu hò, lời dặn dò trước khi Việt, Chiến ra đi, về cuốn sổ gia đình. Có lẽ chính tất cả những kỉ niệm ấy đã giúp cho việt chiến thắng được cái chết và tìm lại được những người đồng đội của mình.

c. Nhân vật chị Chiến.

– Chiến cũng như Việt đều là những người con sinh ra trong gia đình có truyền thống làm cách mạng từ lâu đời, trở thành thế hệ nối tiếp đầy hy vọng trong dòng sông truyền thống ngày một rộng lớn của dòng họ. Từ thuở nhỏ chị đã phải chứng kiến nhiều mất mát đau thương của gia đình do bởi chiến tranh tàn khốc, cha chị bị giặc Pháp giết hại dã man bằng cách chặt đầu, mà người mẹ kiên cường phải nén nhịn những đau đớn, những giọt nước mắt dẫn cả đàn con đi tìm giặc đòi lấy đầu chồng về để ma chay an táng. Rồi đến lượt mẹ chị cũng lại hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vì dính phải bom đạn của kẻ thù. Không chỉ vậy ngoài cha mẹ, chị Chiến cũng phải chứng kiến những cái chết khác của những người thân trong gia đình, đó là ông nội, thím tư, những con người lần lượt ngã xuống trong suốt cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc. Nhưng tất cả những hy sinh mất mát ấy đã góp nên một dòng sông truyền thống chống giặc anh hùng cùng những chiến công đầy vẻ vang cho gia đình chị. Những mất mát đau thương to lớn đã trở thành tiền đề, cơ sở cho lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm đánh giặc trả nợ nước thù nhà của chị em Chiến, nâng bước hai chị em trở thành những chiến sĩ dũng cảm, đem dòng sông truyền thống của gia đình nối dài hơn bao giờ hết.

– Vẻ đẹp của chị Chiến trước hết là bộc lộ ở tình cảm yêu thương gia đình sâu sắc, những điều ấy đã thể hiện một cách gián tiếp thông qua hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương nằm lại chiến trường. Tình cảm ấy của chị Chiến rất thầm lặng và chủ yếu được bộc lộ thông qua cung cách đối xử và hành động của chị. Chiến thương má và dành cho má những tình cảm không đơn thuần chỉ là tình yêu gắn bó giữa những người trong gia đình, mà hơn hết nó còn là một thứ tình cảm tôn thờ, thần tượng. Tính cách hay diện mạo nhân vật có thể xuất phát từ di truyền, nhưng những cách nghĩ, cách tính toán, chu đáo việc nhà của chị Chiến rõ ràng là có sự học hỏi từ người má đã mất của mình. Chiến luôn nhớ tới má cùng với những hành động, những cách chèo chống gia đình của bà ngày còn sống, để xem đó là tấm gương rồi nghiêm túc học tập, trong bất cứ việc làm nào của mình ta đều có thể thấy nỗi nhớ thương má của chị Chiến hiện diện.

– Tình yêu thương sâu sắc, cùng với tấm lòng ngưỡng mộ ấy đã khiến cho chị Chiến có một phong thái vô cùng giống má của mình, khiến cho cậu em trai mỗi lần quan sát chị lại không khỏi xúc động sao mà giống má quá, giống y hệt. Đối với đứa em trai ruột thịt, chỉ nhỏ hơn chị một tuổi, chị luôn tỏ ra phong thái của một người lớn, một người trụ cột trong gia đình chu đáo lo toan công việc nhà, Việt được quyền sống vô tư, trong khi đó bản thân Chiến lại trưởng thành một cách nhanh chóng sau ngày má mất, để thay thế vị trí của má và bảo bọc các em. Tuổi xấp xỉ nhau, thế nhưng phàm là chuyện gì Chiến cũng đều nhường nhịn em, coi em như một đứa trẻ còn chưa lớn để bảo bọc, che chở. Duy chỉ có lần xung phong nhập ngũ, ra chiến trường giết giặc là chị Chiến không muốn nhường Việt. Rõ ràng không phải chị muốn tranh cướp điều gì với cậu em trai khờ khạo của mình, mà là bản thân chị lo lắng, muốn bảo bọc em mình nhiều hơn.

– Trách nhiệm trả thù cha ba má là của hai chị em, nhưng chị muốn đi trước, nhận lấy phần gian khó sớm hơn một chút, để cho Việt được thêm những ngày tháng an bình, tránh khỏi bom đạn mịt mù ở nhà thèm một năm nữa. Chiến vẫn lo lắng rằng, đứa em trai với cái tính vô lo, sốc nổi ấy sẽ phải xoay sở như thế nào ở chiến trường. Bấy nhiêu ấy cũng đủ để thấy hết những tình yêu thương sâu sắc mà chị Chiến dành cho gia đình. 19 tuổi nhưng chị Chiến đã trở thành một cô gái trưởng thành, biết lo nghĩ lại có những tình cảm thật đáng quý với gia đình.

– Bên cạnh vẻ đẹp của những tình cảm với gia đình, thì ở nhân vật Chiến còn hiện lên vẻ đẹp của tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần dũng cảm sẵn sàng xông pha tham gia kháng chiến để trả nợ nước thù nhà. Chị Chiến tuy là con gái, thế nhưng lòng quyết tâm, ý chí kiên cường thì không hề thua kém bất kỳ một đấng nam nhi nào, từ ngày má mất chị đã nung nấu ý chí đi bộ đội để trực tiếp cầm súng giết giặc trên chiến trường. Một người con gái vốn trưởng thành, hiểu biết những sẵn sàng tranh giành suất đi bộ đội bằng những lý lẽ rất hùng hồn mạnh mẽ. Cuối cùng khi cả hai chị em đều được tòng quân, Chiến lại dặn lại Việt những lời khuyên dạy của chú Năm, thể hiện ý chí quyết tâm cao độ cho lần đi chiến đấu này rằng “Chú Năm bảo rằng, kỳ này đi là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”.

– Không chỉ vậy quyết tâm đánh giặc của Chiến còn thể hiện trong những suy nghĩ của chị khi mang bàn thờ má sang nhà chú Năm gửi “chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về”. Lời nói ấy chính là sự hứa hẹn chắc chắn, cũng như sự quyết tâm, ý chí đánh giặc không đổi dời, không chỉ vì sự trả thù cho cái chết thương tâm của cha má, mà quan trọng hơn cả chị đi đánh giặc còn là vì Tổ quốc đang cần. Chị ý thức được vai trò của mình với đất nước, chính là có trách nhiệm sống và chiến đấu để bảo vệ đất nước, giành lại hòa bình, độc lập tự do cho dân tộc. Đó là tôn chỉ, cũng như ý mục tiêu quan trọng nhất mà chị cũng như Việt hết lòng theo đuổi, cố gắng. Tuy trong đoạn trích, ta không thấy được những cảnh chị Chiến tham gia đánh giặc, nhưng từ lời thề sắt đá “Đã làm thân con gái ra đi tao chỉ có một câu nếu giặc còn thì tao mất vậy à”, đã cho thấy không chỉ sự căm thù giặc đến tận xương tủy, sẵn sàng một mất một còn mà người ta còn thấy cả vẻ đẹp kiêu hùng, bản lĩnh, sự gan dạ, sẵn sàng hy sinh trong chiến đấu. Cũng như bản tính bộc trực, ngay thẳng và chân chất của người nông dân Nam Bộ trong kháng chiến.

– Chị Chiến cũng lại hiện lên những vẻ đẹp rất đáng quý của một cô gái Nam Bộ, sự chu toàn, tháo vát, đảm đang trong việc lo toan sắp xếp việc nhà, trong tâm hồn chị có biết bao nhiêu việc phải nhớ, phải tính toán. Từ việc nhắc nhở Việt viết thư cho người chị Hai đã đi lấy chồng ở miền biển, đến việc sắp xếp cho thằng Út sang ở với chú Năm, để nhà cho các anh ở xã mượn mở trường học, hay việc sắp xếp đồ dùng đem gửi chú Năm giữ hộ, đến việc tính toán mấy công ruộng mà ba má được phân cho. Cuối cùng là việc đem gửi bàn thờ má. Việc gì chị Chiến cũng suy tính rõ ràng và chu đáo, thế nhưng chị không bao giờ tự quyết một mình, chị vẫn hỏi ý kiến Việt, cậu trai lớn trong nhà, mặc cho Việt có để tâm hay không, để được một cái thống nhất ý kiến. Bên cạnh đó thì chị Chiến cũng là một cô gái có ngoại hình khỏe mạnh, đầy sức sống, cũng có một tâm hồn thiếu nữ mơ mộng, biết làm đỏm, ngay cả khi ra chiến trường chị vẫn nhớ mang theo chiếc gương con để soi chỉnh dung nhan.

→ Chiến là một hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ Nam Bộ trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ở chị hội tụ nhiều vẻ đẹp mang tính sử thi, là lý tưởng chung mà cộng đồng vẫn luôn hướng tới, đại diện và là tấm gương sáng cho nhiều thế hệ trẻ trong thời kỳ kháng chiến đầy máu và lửa của dân tộc Việt Nam. Dẫu cuộc đời của nhân vật từng chứng kiến nhiều đau thương mất mát liên tục, nhưng chính những sự kiện đó lại giúp Chiến trưởng thành và vững vàng hơn trong chiến đấu bởi tấm lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm trả nợ nước thù nhà. Bàn tay cầm súng chiến đấu lại càng trở nên mạnh mẽ, kiêu hùng hơn bao giờ hết. 

4. Những thành công nghệ thuật của tác phẩm.

– Trong tác phẩm tự sự, điều tạo nên sức hấp dẫn không phải chỉ ở nội dung câu chuyện với các sự kiện, chi tiết, hình ảnh được kể lại, mà còn ở cách kể chuyện, ở điểm nhìn nghệ thuật của người kể chuyện, ở cách nhà văn xây dựng nhân vật, ở ngôn ngữ của tác phẩm… Xét ở khía cạnh này, truyện “Những đứa con trong gia đình” xứng đáng được coi là một trong những “ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ của dân tộc” (mượn ý của Phạm văn Đồng) giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

– Truyện được kể bằng điểm nhìn của nhân vật Việt một chiến sỹ quan giải phóng gan dạ, một dũng sĩ duyệt Mĩ, đồng thời cũng là một chàng thanh niên mới lớn, vô tư, hồn nhiên, cho nên các sự kiện, những mảnh kí ức được khúc  xạ qua thế giới tâm hồn ấy, trở nên chân thật, sống và trẻ trung hơn trước mắt người đọc. Mặt khác, do câu chuyện được kể bằng hồi tưởng của Việt trong tình huống ngất đi tỉnh lại nhiều lần trên chiến trường nên việc tổ chức, sắp xếp các sự việc, sự kiện cũng trở nên linh hoạt và tự nhiên hơn. Chuyện gọi chuyện, sự việc này gợi liên tưởng đến sự việc khác, đan xen giữa quá khứ và hiện tại mà không hề gây cảm giác phi lý, khiên cưỡng cho người đọc.

– Kể chuyện bằng điểm nhìn của Việt tức là nhà văn đã mượn hình thức nhân vật của chuyện để trao ngòi bút cho nhân vật tự viết về mình. Cách trần thuật  này tạo nên những trang văn đậm màu sắc chữ tình, chân thực về tâm trạng, tình cảm của nhân vật chính. Việt chỉ còn cảm nhận về thế giới xung quanh bằng cảm giác và hồi tưởng. Lần tỉnh dậy thế tư này, Việt biết đêm nữa đã lại đến qua tiếng nhạc dế “u u cao vút mãi lên”. Độ sâu của đêm cũng được “đo” bằng thanh âm quen thuộc, gần gũi này. Việt nhận thấy đó là đêm “sâu thăm thẳm” bởi nó quá yên tĩnh. Cái thăm thẳm của đêm làm cho Việt sống trong giấc mơ về má, “người việt như đang tan ra nhè nhẹ”. Má đang bơi xuồng, ghé lại qua nhà, xoa đầu Việt, đánh thức Việt rồi lấy xoang cơm đi làm đồng về cho Việt ăn,… Những mảnh dư âm của hồi tưởng đột ngột tan biến bởi tác động của hiện thực. Mấy giọt mưa đã làm cho Việt tỉnh hẳn để sống với cảm nhận về thực tại. Nhập thân vào dòng tâm trạng của nhân vật chính, nhà văn đã tái hiện những cảm giác rất chân thực và sinh động của một cậu thanh niên mới lớn, lần đầu tiên nếm trải cảm giác bị lạc đồng đội ở giữa chiến trường. Việt không sợ đối đầu với giặc, không sự hi sinh nhưng sợ cái vắng lặng và cô đơn nơi chiến trường, “sự vắng lặng như từ trên trời lao xuống chạy từ cổ Việt, lan dài cho tới ngón chân”. Cảm giác một mình không chỉ xuất hiện trong ý nghĩ mà còn trở thành vô vàn câu hỏi bật lên và dội tới từng đường gân thớ thịt trên người Việt. “Cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất” đã khiến Việt muốn “chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày”. Bởi lẽ bóng đêm chỉ mang theo sự cô đơn mà với chàng thanh niên lộc ngộc, mới lớn còn đáng sợ vì nó mang đến “con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà”. Chàng dũng sỹ diệt Mĩ ấy vẫn đang ở tuổi sợ ma khi vào trận !.

– Cũng chỉ trong cảm giác cô đơn, một mình đó, cảm nhận của Việt về tiếng súng mới thật đặc biệt. Bằng thính giác và sự nhạy bén của người chiến sỹ vào trận, Việt phân biệt tiếng nổ “lễnh lãng” của pháo giặc và “những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ”, “súng lớn và súng nhỏ quện vào nhau như tiếng mõ và tiếng chống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi”. Trong bối cảnh đó, tiếng súng trở nên thân thiết và vui lạ, nó gọi việt về phía của  “sự sống”. “tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng”. Nơi có tiếng súng là đồng đội anh, là anh Tánh, là những “anh em đơn vị mình” “đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội và những mũi lê nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong”. Tiếng súng đồng đội gọi chiến đấu đã tiếp thêm sức mạnh mới để gọi Việt đến. Sự thôi thúc chưa bao giờ mạnh mẽ và quyết liệt đến vậy. Nó đơn giản hơn nhiều so với việc phải “giành nhau” với chị để đi bộ đội đặng trả thù cho ba má, cho những người thân trong gia đình, và cũng là cho quê hương đất nước.

– Cứ như vậy dòng trần thuật qua tâm tưởng nhân vật Việt đã thể hiện rõ nét với người đọc những suy nghĩ, cảm nhận và đời sống nội tâm của nhân vật ấy trong tình huống đặc biệt nơi chiến trường mà anh đang gặp. Đó là ưu thế nghệ thuật mà một điểm nhần trần thuật khác khó có thể có được.

– Bàn về nghệ thuật của truyện “Những đứa con trong gia đình”, thiết nghĩ cũng không thể bỏ qua nghệ thuật xây dựng của nhà văn. Ở phương diện này ta có thấy Nguyễn Thi rất quan tâm đến cá tính hóa nhân vật. Nhân vật nào cũng có những nét riêng độc đáo mặc dù trên dòng sông truyền thống của gia đình họ có chung một “một giáng hình, một khuôn mặt”. Thể hiện rõ nhất trong trích đoạn là hai chị em Chiến, Việt. Tuy hai chị em đều giống nhau cái “bộ mặt bầu bầu có hai cái chót mũi hớt lên” và nhất là cùng có trong bầu huyết quản của mình lòng căm thù giặc sâu sắc, tình cảm đối với quê hương, gia đình, ý trí lên đường trả thù nhà nợ nước dứt khoát như “rựa chém đá” nhưng đọc truyện ai cũng thấy những nét cá tính riêng ở hai chị em. Trong khi chị Chiến tỏ ra là một người biết lo toan, tình toán, thu vén mọi việc trong nhà từ những việc “ thỏn mỏn” cho đến những công việc lớn thì anh chàng Việt lại hiện rõ ra là một chàng trai mới lớn, lộc ngộc, vô lo, vô nghĩ. Chiến nghiêm trang, già rặn so với tuổi bao nhiêu thì Việt lại hồn nhiên, trẻ con, hiếu động bấy nhiêu. So với Việt, chị Chiến còn rất khoát ở  những nét nữ tính giống mẹ, từ ngoại hình đến tính cách, lời nói, điệu bộ, cử chỉ. Nhưng như thế cũng không có nghĩa là giữa người mẹ đã mất và người con gái  trẻ ấy chỉ là một “bản” duy nhất. Chiến không chỉ khác mẹ ở chiếc gương trong túi mà Việt tưởng tượng có thể theo Chiến ra tận ngoài mặt trận, cũng không chỉ ở cái dáng trẻ trung “kẹp một nhúm tóc mai vào miệng” hay là tính hay cười mà còn rất khác với mẹ ở chiến tích mang dấu ấn thời đại. Mẹ của Chiến, trước nỗi đau mất chồng đã không có dịp nào cầm súng ra trận. Còn Chiến, đi bộ đội để trả thù cho mẹ là một sự thật, để rồi tự mình đã viết cho mình một “khúc” trên dòng sông truyền thống gia đình. Trong truyện, còn một nhân vật nữa, đáng phải kể đến là chú Năm. Chú là người duy nhất còn sống của thế hệ trước. Nói đến chú, cả Chiến, Việt và người đọc đều không thể quên cái giọng hò “đục” và “tức như tiếng gáy” của chú cùng cái cuốn sổ gia đình mà chú là một “thư kí” hết sức trung thành…

– Có thể nói, bằng cách cá tính hóa nhân vật, Nguyễn Thi đã làm cho câu chuyện trở nên hết sức sống động, thế giới nhân vật trở nên phong phú. Sự quy tụ của các chi tiết, các nhân vật cho việc làm nổi bất chủ đề tác phẩm nhờ đó mà không bị nhàm chán.

– Truyện “Những đứa con trong gia đình” lấy bối cảnh cuộc sống, chiến đấu của một gia đình Nam bộ trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. Sự gắn bó mật thiết cùng tình yêu và vốn sống phong phú về “mảnh đất phương Nam” đã giúp nhà văn tạo được “chất Nam bộ” hết sức đặc trưng cho truyện, làm thành một phương diện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm. Cái “chất Nam bộ” ấy thể hiện trước hết ở tính cách của những con người nơi đây. Từ má Việt, chú Năm, tới hai chị em Chiến, Việt tất cả họ đều mang cái nết tính cách ngay thẳng, bộc trực, “Tròn ra tròn” “vuông ra vuông”, dứt khoát như “rựa chém đá” của người dân Nam bộ. Nhưng rõ nét nhất trong tác phẩm và trong đoạn trích vẫn là yếu tố ngôn ngữ. Những từ ngữ, phương ngữ, lối nói, cách nói của người dân Nam bộ hiển hiện rất rõ trên các trang văn của tác phẩm: từ cách gọi mẹ là “má” em là “mầy”, đến các từ hỏi trong câu nghi vấn “bộ”, “chớ bộ”, “nghen”; từ những tính từ như “trọng trọng” đến lối diễn đạt đậm sắc thái Nam bộ : “nếu giặc còn thì ta mất, vậy à”, “ nói nghe in như má vậy”, “hèn chi chị nói nghe thiệt gọi”…

→ Có thể khẳng định, cách sử dụng ngôn ngữ đậm chất nam bộ đã góp phần không nhỏ vào việc tạo nên không khí phương Nam rất đặc trưng cho thiên truyện. Nó chẳng những hiện ra những nét tâm lý, tính cách của những con người sống ở vùng đất này mà còn góp phần gợi dậy cái không khí của một thời, một vùng.

  • Kết bài:

Câu chuyện chỉ viết về một hình tượng dòng sông gia đình nhưng dường như nhà văn Nguyễn Thi còn muốn chúng ta nghĩ đến biển lớn, đến đại dương của nhân dân và nhân loại. Muôn dòng sông đều chảy ra biển để hòa nhập với những gì lớn lao vô tận. Đó là con đường đi tất yếu, không chút quanh co của “Những đứa con trong gia đình” đến với cách mạng cũng là của thế hệ trẻ Miền Nam thời chống Mĩ. Từ câu chuyện về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam bộ giàu truyền thống yêu nước, căm thù giặc, nhà văn đã lí giải với người đọc: chính sự gắn bó sâu năng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần kì diệu của con người Việt Nam thời chống Mĩ. Và người anh hùng không chỉ là sản phẩm của thời đại, họ còn là “ sự tiếp nối một nguồn cội, một nếp nhà… một truyền thống, một di sản thiêng liêng mà thế hệ cha anh đã truyền lại và bàn giao cho lớp cháu con” (Đỗ Kim Hồi)


Tham khảo:

Phân tích chi tiết truyện ngắn NHỮNG ĐỨA CƠN TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi)

Nguyễn Thi là một nhà văn – chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời chống Mĩ. Ông đã hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Trong di sản văn học viết về chiến tranh của ông, có tác phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới ở dạng phác thảo nhưng tất thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm mĩ chứng tỏ tác giả của nó là một tài năng văn học lớn. Từng sống ở Nam Bộ trước Cách mạng và sau này lại tham gia chiến đấu trên chiến trường ấy, Nguyễn Thi rất hiểu con người và cảnh vật nơi này. Có thể nói ông là nhà văn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Ông đã trút tấm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa.

Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng một dạ đi theo cách mạng và có những mối thù riêng đối với quân giặc. Chiến và Việt – hai chị em đồng thời là hai nhân vật chính của tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị địch giết hồi chín năm (kháng chiến chống Pháp) còn mẹ thì chết vì trúng đạn đại bác Mĩ. Họ lớn lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người chú ruột) và sau này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết của họ). Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở đây cũng như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có ý nghĩa cá biệt. Có biết bao người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những mất mát và đã vượt lên như thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới mấy lần trong truyện có ý nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta thấy ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình mà đề cập những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói lên điều đó : “Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”. Thông thường, sự khái quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như vậy. Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào cuộc sống.

Trên một ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em Chiến – Việt, từ chuyện người nào bị giặc giết vào ngày nào đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông Định Thuỷ. Cuốn sổ – ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây dựng cho thế hệ con cháu. Chú nói : “Chừng nào bây trọng trọng (lớn lớn) tao giao cuốn sổ cho chị em bây”. Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ là người viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống. Không thể nói mọi chiến công mà Chiến và Việt lập được lại không liên quan tới cuốn sổ gia đình này. Kể lại sự việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu của nó chính là thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi.

Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của ông phong phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng như giẫy trên trang sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên, cả về hành động lẫn ngôn ngữ. Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ nhớ với “giọng hò đã đục và tức như gà gáy” (“Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mấy câu”). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay nhưng chứa đựng một cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em Chiến, Việt tuy thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như lời kể trong tác phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông được hai chị em nhân vật chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương tự như những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông nước, lăn lộn với ruộng vườn và thuỷ chung một dạ với cách mạng. Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của chị em Chiến, Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là người đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng. Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng chân dung con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà nông giặc bắn đuổi theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, “bà đén dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về” ; nào chuyện bà bế con, dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong tới ấp ngoài, vượt qua sông về tới quận ; nào chuyện bà tần tảo sớm hôm làm lụng nuôi con, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã “đẩy xuồng ra tuôt giữa sông”… Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai bàn tay to bản “phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân” hoặc “dùa đàn con lại đàng sau tránh đạn” đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh một người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ.

Hai nhân vật được khắc hoạ đậm nét trong tác phẩm là Chiến và Việt. Chiến là chị. Theo lời chú Năm, cô “không khác mẹ một chút nào”. Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em : “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !”. ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, “nói nghe thiệt gọn” khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu” rồi nói : “Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.

Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt còn giữ nguyên tính chất của một cậu bé. “Cậu Tư” này trong gia đình có điệu cười “lỏn lẻn” rất dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị “Tôi nói chị tính sao cứ tính mà”. Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa nghịch “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay” và thú vị quan sát điệu bộ, cử chỉ, cách nói năng “in hệt má” của chị. Vào bộ đội rồi, cậu ta “giấu chị như giấu của riêng vậy” vì sợ mất chị trước những lời gạ gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính của mình, ngoài cái võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná thun (súng cao su) – một vật bất li thân từng gắn bó từ ngày cậu “để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim”. Tuy còn rất trẻ con như thế, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng thủ pháp tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với tâm niệm : “Tao sẽ chờ mày ! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày ! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Có bao nhiêu là quyết tâm, bao nhiêu là niềm trìu mến với đồng đội, bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ thù thể hiện qua lời độc thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi còn mang đầy đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé vừa đến tuổi thành niên.

Nhìn chung, trong “Những đứa con trong gia đình”, khi xây dựng nhận vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc cá thể hoá. Nhân vật nao cũng có những nét riêng, độc đáo hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác má Việt và Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng có ý thức nhấn mạnh điểm giống nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần qua lời chú Năm, qua lời Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để người má ấy nói về Việt : “Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi !”. Nói lên điểm giống nhau ở đây tức là nói đến nét bền vững trong truyền thống một gia đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống rất mực tình nghĩa thuỷ chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí giải được sức mạnh tinh thần nào đã giúp các nhân vật vượt qua được những thử thách lớn lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy cũng là điểm nút khiến cho mọi chi tiết, sự việc được mô tả trong tác phẩm quy tụ lại, thống nhất ở tinh thần chung là khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm hay từ miệng má Việt, vì vậy, có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết lí của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một hình thức rất mực giản dị – giản dị đến bất ngờ (chẳng hạn câu của má Viêt : “người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì ?”).

Ở đây, có thể nhận ra một đặc điểm trong sáng tác của Nguyễn Thi : tính triết lí rất cao nhưng đấy là triết lí của chính cuộc đời – một cuộc đời được tái hiện sinh động qua những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh thêm cho điều vừa nói bằng vào chi tiết “cực đắt” sau đây mà nhà văn đã đưa vào cuối tác phẩm : chi tiết hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm : “Chị Chiến đứng ra giữa sân, k** cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác”. Khó mà không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này. Nó đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta : có yêu thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh… Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm mãi. Trong văn Nguyễn Thi, mùi hương “trữ tình” này thường chỉ được dùng rất dè sẻn, nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quý, để lại trong lòng người đọc những cảm nghĩ sâu xa.

Một thành công nữa rất cơ bản của Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã thấy phần nào điều đó qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc biệt lưu ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đậy lại là tâm lí của con người luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” đó của nhân vật. Bốn lần Việt “tỉnh dậy” trên trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầu phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ. Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một cách có lôgic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ “Khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình cùng ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ “chuyển vùng” sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên hệ tới ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà chú… Nhìn chung nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Ông đã kh** l** tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với “kết cấu” của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật.

Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách xưng hô rất đỗi thân thương, gắn bó : “Việt” (chứ không phải là “anh” hay “chú bé”), “chị Chiến” (chứ không phải là “cô”, “chị”), “chú Năm” (chứ không phải là “ông Năm”), “má” (chứ không phải là “má Việt”)… Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa phương của lời trần thuật (chưa kể đến lời nói thực thụ của nhân vật): “Chú ít nói, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới”, “Thím Năm vừa khóc vừa kể thôi là kể”, “Hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái “cóc”, rồi đi thẳng”… Thật khó kể hết được những ví dụ sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo ngôn ngữ Nam Bộ. Cần phải thấy rằng cách sử dụng ngôn ngữ của ông ở đây trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ở vùng đất ấy, sau nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, của một thời…

Là một truyện ngắn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam 1945 – 1975, Những đứa con trong gia đình hiển nhiên mang đậm tính sử thi và giàu cảm hứng lãng mạn (xem thêm phần viết về tính sử thi ở bài Rừng xà nu). Tuy vậy, nói đến tác phẩm này, người ta không thể không nói đến tính hiện thực sâu sắc của nó. Nguyễn Thi quả là một nhà văn hiện thực chủ nghĩa đích thực. Trong khi chịu sự chi phối của bối cảnh sáng tạo chung, ông vẫn kiên trì theo đuổi những nguyên tắc sáng tạo của mình, cố gắng tái hiện cho được diện mạo chân thực của hiện thực thông qua những tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình. Để xây dựng các tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình đó, ông rất chú ý tới mối quan hệ giữa tính cá thể, cá biệt và tính khái quát của hình tượng. Sự chính xác và sống động của các chi tiết luôn được đề cao. Chi tiết nào cũng gây ấn tượng, như được lấy “trực tiếp” từ đời sống, nóng hổi, giàu sức biểu hiện, giàu tính thẩm mỹ. Đọc từng trang viết của ông, ta cảm nhận được một trữ lượng dồi dào những kinh nghiệm sống thấp thoáng ở phía sau. Truyện ngắn mà nhiều khi có sức chứa của một tiểu thuyết lớn.

Tham vọng khái quát của nhà văn luôn được thể hiện thông qua cách ông sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, nhưng tham vọng đó không hề khiến ông quên đưa ra những đường nét chạm khắc rạch ròi về nhân vật, bối cảnh. Sự hứng thú quan sát, miêu tả ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, sự vận dụng đầy ý thức ngôn ngữ Nam Bộ trong trần thuật có mối liên hệ lô gích với động cơ sáng tạo này. Ngoài ra, việc học tập kinh nghiệm của các nhà tiểu thuyết hiện đại phương Tây trên vấn đề tái hiện dòng ý thức của nhân vật cũng được chú ý đúng mức, tạo nên những trang viết xuất thần, hiếm quý.


MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP

Đề 1. Giải thích ý nghĩa nhan đề những đứa con trong gia đình

Đề 2. Đoạn trích những đứa con trong gia đình trần thuật từ điểm nhìn của nhân vật nào? Cách trần thuật này có tác dung ra sao đối với cách kết cấu truyện và khắc họa tính cách nhân vật nhân vật?

Đề 3. “Chất Nam Bộ” thể hiện như thế nào ở tình cách và ngôn ngữ các nhân vật Chiến, Việt, chú Năm

Đề 4. Vì sao đoạn kể hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm có thể gây cho người đọc nhiều xúc động nhất? Ý nghĩa của đoạn kể này?

Đề 4. So sánh hai nhân vật Chiến và Việt. Qua đó, chỉ ra ý nghĩa tư tưởng của truyện, quan niệm của Nguyễn Thi về người anh hùng và đặc sắc nghệ thuật của truyện ở.

Đề 5. Trong truyện, nhân vật chú Năm “thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó”. Bằng hiểu biết của mình từ đoạn trích, hãy chứng minh: dòng sông truyền thốn gia đình mà chú Năm nhắc đến đã được kế thừa và phát huy mạnh mẽ ở “ những đứa con” Chiến, Việt.

Đề 6. Vẻ đẹp của thế hệ trẻ Miền Nam trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mĩ qua hai tác phẩm Những đứa con trong gia đình và Rừng xà nu.

Đề 7: Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của truyện Những đưa cn trong gia đình

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang