phan-tich-gia-tri-ngon-ngu-doc-dao-va-giong-dieu-da-thanh-trong-tac-pham-cua-nam-cao

Phân tích giá trị ngôn ngữ độc đáo và giọng điệu đa thanh trong tác phẩm của Nam Cao

Ngôn ngữ độc đáo và giọng điệu đa thanh trong tác phẩm của Nam Cao

  • Mở bài:

Nam Cao là một nhà văn giàu sức sáng tạo trong ngôn ngữ. Giọng văn lạnh lùng nhưng ấm áp, ngôn ngữ bình dị nhưng đa thanh, đa tầng, giàu sức gợi. Đọc tác phẩm của Nam Cao, người ta không thể dừng lại bởi trước hết là do sự lỗi cuốn của cốt truyện, sau đó là ngôn ngữ dẫn dắt người đọc về phía trước cho đến những dòng cuối cùng.

  • Thân bài:

Trong tác phẩm của Nam Cao ngôn ngữ không chỉ là công cụ, là phương tiện miêu tả mà còn là đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao là ngôn ngữ đa âm, phức điệu, hiện đại. Ông không chỉ sử dụng đắc địa đại từ nhân xưng: nó, hắn, y, thị, gã mà còn có khả năng hóa thân, nhập vai vào tất cả các nhân vật, suy nghĩ và nói năng bằng tiếng nói của nhân vật.

Trong sáng tác của Nam Cao có sự hòa quện giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật, có sự chuyển hóa, trao đổi từ ngôn ngữ người kể chuyện sang ngôn ngữ nhân vật. Trong “Chí Phèo” diễn ra mạch ngầm đối thoại giữa người kể chuyện với Chí Phèo, giữa nhân vật Chí Phèo với làng Vũ Đại. Nam Cao để một đoạn cụ Bá kể chuyện bà Tư nhưng thực chất là bày tỏ tâm trạng của mình. Đó là ngôn ngữ đối thoại nội tại, một đặc trưng của ngôn ngữ trong sáng tác Nam Cao.

Sự thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao còn thể hiện ở ngôn ngữ đối thoại mang đầy chất văn xuôi đời thường, ngoài việc thực hiện chức năng tự sự còn là để khắc họa tính cách nội tâm nhân vật (Chí Phèo, Sống mòn, Lão Hạc…).

Bên cạnh đó Nam Cao có nhiều đóng góp trong việc miêu tả lời thoại nội tâm, tạo điều kiện đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật, khiến nhân vật đối diện với chính mình tự phơi bày, tạo ra những cuộc tranh luận ngầm, bộc lộ ý kiến cá nhân của nhân vật về vấn đề nhân cách con người, sáng tạo nghệ thuật (Lão Hạc, Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn).

Giọng điệu là một yếu tố quan trọng đối với một tác giả. Mỗi một nhà văn thường cố gắng tạo cho mình một giọng điệu riêng, phù hợp với thái độ nghệ thuật của mình. Nguyễn Công Hoan nổi bật giọng điệu suồng sã, giễu cợt, châm biếm sâu cay. Vũ Trọng Phụng là giọng mỉa mai, cay độc, đầy phẫn uất, Nguyên Hồng đầy yêu thương thống thiết thì giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm Nam Cao là giọng buồn thương, da diết. Đó là âm điệu chủ đạo làm nên tiếng nói nghệ thuật riêng, độc đáo của ông thể hiện sự cảm thông, thương xót của nhà văn trước những số phận nhỏ bé, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, quẩn quanh không lối thoát (Dì Hảo, lão Hạc, Một đám cưới, Nước mắt, Sống mòn…).

Cùng là giọng buồn thương, da diết nhưng ở mỗi tác phẩm Nam Cao lại thể hiện một sắc thái giọng điệu riêng. “Một đám cưới” là giọng buồn thương, chua xót ngậm ngùi, gợi lên nỗi niềm day dứt khôn nguôi về những kiếp sống mòn mỏi, dật dờ trong bóng tối, trong “Điếu văn” là giọng điệu buồn thương ai oán khi kể về cuộc đời nhục nhằn và cái chết tội nghiệp của một người bạn. Ở “Lão Hạc” là giọng buồn thương chua chát xen lẫn nỗi xót xa, tội nghiệp trước cuộc đời bất hạnh, đáng thương như lão Hạc.

Cùng là nhà văn có trái tim nhân đạo, hướng ngòi bút mình vào những con người nhỏ bé, những số phận đáng thương trong xã hội cũ nhưng giọng điệu chủ đạo của Nam Cao vẫn có âm sắc riêng khác với Thạch Lam. Trong truyện Thạch Lam ta bắt gặp giọng điệu nhỏ nhẹ, điềm đạm, dịu dàng thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng với tất cả những gì bình dị của cuộc sống. Còn ở Nam Cao trong cái giọng điệu buồn thương da diết ấy luôn chứa đựng những suy ngẫm triết lý sâu xa về cuộc đời, về con người. Ông không chỉ xót thương những kiếp người nhỏ bé, những con người dưới đáy của xã hội mà luôn day dứt, trăn trở, ráo riết truy tìm nguyên nhân của những tấn bi kịch không lối thoát của con người.

Trong truyện của Nam Cao ta thường bắt gặp một giọng điệu có sắc thái tưởng chừng đối lập nhau. Ấy là giọng khách quan lạnh lùng, tàn nhẫn bên ngoài mà cảm thông, thương xót bên trong. Bề ngoài Nam Cao tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn với cái nhìn tỉnh táo, sắc sảo, nhà văn luôn giữ khoảng cách, tách sự đồng cảm của mình ra khỏi đối tượng được miêu tả. Sử dụng giọng điệu này Nam Cao không tạo ra một giọng điệu chủ đạo, thống lĩnh. Ông đã có đóng góp lớn trong việc đa thanh hóa giọng điệu tự sự.

Trong một tác phẩm cụ thể, mỗi đoạn, mỗi tứ vẫn có sự chuyển hóa giọng điệu tạo nên sức hấp dẫn trong tác phẩm của Nam Cao. Trong mỗi tác phẩm của ông có sự pha trộn tài tình các kiểu giọng điệu. Người đọc có thể nhận ra trên những trang viết của nam Cao giọng khách quan lạnh lùng, giọng cảm thông thương xót, giọng buồn thương da diết, giọng triết lý…

  • Kết bài:

Có thể nói Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam có tư tưởng, phong cách và thi pháp sáng tạo riêng độc đáo, có những cách tân lớn lao, góp phần quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang