»» Nội dung bài viết:
Đọc hiểu văn bản “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam
I. Tác giả, tác phẩm.
1. Tác giả
– Thạch Lam (1910 – 1942), tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành Nguyễn Tường Lân)
– Ông sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công chức, gốc quan lại đã đến hồi sa sút.
– Cha Thạch Lam là Nguyễn Tường Nhu, thông thạo chữ Hán và chữ Pháp, làm Thông Phán Tòa sứ. Mẹ là bà Lê Thị Sâm, người gốc Huế đã ba đời ra Bắc.
– Là người thông minh, trầm tĩnh, điềm đạm, đôn hậu và rất tinh tế.
– Sau khi đỗ Tú tài, ông thôi học về làm báo với anh và gia nhập Tự lực văn đoàn.
– Đến tháng 2 năm 1935, thì ông được giao làm Chủ bút tờ Ngày nay.
– Khoảng năm 1935, Thạch Lam lấy vợ và được người chị (Nguyễn Thị Thế) nhường lại căn nhà nhỏ tại đầu làng Yên Phụ, ven Hồ Tây (Hà Nội) cho vợ chồng ông ở.
– Và Thạch Lam mất tại đây vào ngày 27 tháng 6 năm 1942 vì căn bệnh lao phổi, năm ông 32 tuổi.
– Ông ra đi để lại người vợ trẻ cùng với ba đứa con thơ (hai trai, một gái) trong cảnh nghèo. Gia đình đã an táng ông nơi nghĩa trang Hợp Thiện, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.
– Quan điểm sáng tác: Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn.
– Tác phẩm chính: Ông để lại các tác phẩm tiêu biểu như: Gió đầu mùa(1937), Nắng trong vườn (1938),Sợi tóc(1942),Ngày mới(1939), Theo dòng(1941), Hà Nội ba sáu phố phường(1943),…
– Phong cách nghệ thuật:
+ Sáng tác thường hướng vào cuộc sống cơ cực của những người dân thành thị nghèo và vẻ đẹp nên thơ của cuộc sống thường nhật. Thạch Lam đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời.
+ Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông.
+ Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam… Từ đó ta thương cảm, nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con người.
+ Cốt truyện đơn giản thuộc hoặc không có cốt truyện.
+ Có sự hòa quyện tuyệt vời giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, tự sự và trữ tình. Thạch Lam là người khai sinh ra kiểu truyện ngắn trữ tình.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có lẽ được gợi lên từ những câu chuyện cảnh đời nơi phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương quê ngoại nhà văn với những kỉ niệm tuổi thơ.
b. Xuất xứ tác phẩm: Tác phẩm in trong tập Nắng trong vườn (1938).
c. Thể loại: Truyện ngắn.
d. Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả, biểu cảm.
e. Ý nghĩa nhan đề:
– Hai là số lượng cụ thể, tác giả đã hướng người đọc đến nhân vật trung tâm của truyện ngắn, đó là hai chị em Liên và An.
– Danh từ đứa trẻ không chỉ gợi nhắc đến hình hài, lứa tuổi mà còn thể hiện được tâm hồn trong sáng, non nớt của trẻ con.
⇒ Nhan đề đã nhấn mạnh vào thế giới trong ngần của những đứa trẻ, thông qua những suy nghĩ và cách nhìn nhận thế giới của những đứa trẻ ấy.
f. Bố cục: 3 phần
– Phần 1(Từ đầu đến …cười khanh khách): Cảnh phố huyện lúc chiều xuống.
– Phần 2 (Tiếp theo đến …cảm giác mơ hồ không hiểu nổi): Cảnh phố huyện về đêm.
– Phần 3 (Còn lại): Cảnh chuyền tàu đêm đi qua phố huyện.
g. Giá trị nội dung: Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương với những sống cơ cực quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo những ngày trước Cách mạng. Đồng thời ông cũng biểu lộ sự trân trọng ước vọng đổi đời mơ hồ trong họ.
h. Giá trị nghệ thuật
– Cốt truyện đơn giản như không có truyện.
– Miêu tả nội tâm chân thực, tinh tế.
– Chất liệu hiện thực hòa quyện cùng lãng mạn, yếu tố tự sự đan cài với trữ tình tạo nên nét đặc sắc khó lẫn cho tác phẩm.
– Sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa tả cảnh và diễn tả tâm trạng.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Đánh giá nội dung chủ đề
a. Bức tranh phố huyện:
– Cảnh ngày tàn, chợ tàn:
+ Tiếng trống thu không: thứ âm thanh chất chứa nỗi niềm của con người. → Tiếng trống vang xa gọi chiều về và gợi cả nỗi niềm xao xác.
→ Điểm nhịp cho cuộc sống nặng nề trôi.
+ Làm nền cho tiếng trống là “bản nhạc dân dã” quen thuộc, buồn bã, rên rĩ của côn trùng, ếch nhái, muỗi, tiếng đàn bầu rời rạc.
⇒ Không đủ sức khuấy động không khí lặng lẽ, tù đọng của phố huyện.
– Thời gian: Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru…; bóng tối ngập dần…. giờ khắc ngày tàn; Trời nhá nhem tối, Trời bắt đầu đêm…, Đêm tối.
⇒ Tác giả miêu tả bước đi của thời gian rất cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết: Thời gian có sự vận động: chậm rãi, lặng lẽ. → Nhịp sống buồn bã, tẻ nhạt của phố huyện từ chiều tàn đi dần vào đêm khuya.
– Không gian thu hẹp dần: quang cảnh phố huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, góc chợ đơn sơ. → Yên tĩnh, tù túng, chật hẹp.
Bóng tối | Ánh sáng |
– Tối hết cả: đường phố, ngõ con… – Trống cầm canh: ngắn, khô khan, chìm ngay vào bóng tối. → Bóng tối đang luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi hoạt động âm thầm của sinh vật, con người. | – Khe ánh sáng, vệt sáng, quầng sáng, chấm lửa, hột sáng, ngọn đèn con của chị Tí (7 lần) → Lẻ loi, hiếm hoi, yếu ớt, không đủ xé rách màn đêm, làm cho đêm tối mênh mông hơn. |
⇒ Tương phản: động – tĩnh; ánh sáng – bóng tối, nhịp điệu câu văn chậm rãi… → Khung cảnh phố huyện ảm đạm, xao xác, ngập chìm trong bóng tối đậm đặc.
– Những kiếp người tàn:
+ Mấy đứa trẻ nhặt rác bãi chợ.
+ Mẹ con chị Tí: ban ngày mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước, thắp một ngọn đèn leo lét. Chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối đến đêm nhưng chả kiếm được bao nhiêu…
+ Bóng bác phở Siêu chập chờn trong đêm.
+ Vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng. Thằng con bò ra ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn.
+ Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu với tiếng cười khanh khách, ghê sợ.
+ Chị em Liên với hàng tạp hoá nhỏ xíu.
→ Nhịp sống cứ lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh, tẻ nhạt, mỏi mòn, buồn chán,… Tuy vậy, họ vẫn hi vọng – cho dù hi vọng đó rất mơ hồ: Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ. Chính sự mong đợi mơ hồ này càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện.
⇒ Tất cả đều hiện ra trong cái nhìn xót xa, thương cảm của Thạch Lam, qua lời văn đều đều, chậm buồn, giàu chất thơ và những chi tiết dường như khách quan.
b. Hình ảnh đoàn tàu và tâm trạng chờ đợi của hai đứa trẻ
– Con tàu mang đến một thế giới khác:
+ Nó như con thoi ánh sáng xuyên thủng màn đêm phố huyện, đem lại ánh sáng xa lạ, rực rỡ chốn thị thành, át đi ánh sáng mờ ảo, yếu ớt của phố huyện.
+ Âm thanh của còi tàu, bánh xe rít trên đường ray và tiếng ồn ào của hành khách át đi buồn tẻ, đơn điệu phố huyện.
+ Nó là thói quen, là niềm vui, là sự chờ đợi.
→ Trở thành nhu cầu thiết yếu như cơm ăn, nước uống hàng ngày cho đời sống tinh thần người dân phố huyện.
– Chị em Liên đợi tàu không phải vì mục đích là có khách mua hàng mà vì:
+ Nhìn thấy cái gì đó khác cuộc sống hàng ngày: mạnh mẽ, rực rỡ ánh sáng, giàu sang.
+ Niềm say mê.
+ Mang đến thế giới kỷ niệm về Hà Nội.
⇒ Đánh thức kỷ niệm về Hà Nội đẹp đẽ thiết tha.
– Nhìn tàu là hành động thỏa mãn thị giác, tư tưởng → nhìn thấy rõ hơn, sâu hơn sự tù túng, ngưng đọng của cuộc sống.
c. Nhân vật Liên
– Là cô bé giàu tình thương:
+ Đối với những đứa trẻ nghèo nhặt rác: Liên động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng.
+ Đối với mọi người: Luôn quan tâm, luôn đối xử ân cần, lễ phép và đầy tình người (cụ Thi, chị Tí, bác xẩm).
– Là cô bé chu đáo và đảm đang:
+ Là cô bé nghèo, cuộc sống cơm áo trói buộc cô vào chõng hàng.
+ Đối với em An: Thương yêu, lo lắng, chăm sóc, ân cần lời mẹ, chiếc xà tích,… chị là con gái lớn và đảm đang.
– Là cô bé có tâm hồn nhạy cảm: Chất thơ cho truyện.
+ Liên thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc ngày tàn.
+ Liên nhạy cảm trước nỗi đau con người.
+ Liên cảm nhận được cảnh tối tăm mà Liên và những người xung quanh đang sống và là người biết mơ ước, khát khao ánh sáng.
⇒ Hiện thực buồn tẻ, tù đọng của tác phẩm càng nặng nề vì Liên đã ý thức được đầy đủ và sâu sắc về cuộc sống đó.
2. Đánh giá về nghệ thuật.
– Truyện giàu chất trữ tình và không có cốt truyện rõ ràng. Đó là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc trong phong cách truyện ngắn Thạch Lam. Nhà văn không tạo dựng những tình huống truyện éo le, gay cấn, cũng không có những xung đột thiện ác, giàu nghèo gay gắt. Truyện của Thạch Lam chỉ như những đoạn thủ thỉ tâm tình, nhẹ nhàng mà thấm thía, nhưng vẫn có giá trị phản ánh hiện thực và thể hiện những tư tưởng nhân văn sâu sắc.
– Hai đứa trẻ là câu chuyện về một ngày thường như bao ngày tháng khác ở một phố huyện. Nhà văn chọn bối cảnh là một ngày chợ phiên. Và thời điểm bắt đầu truyện là cảnh chợ chiều vừa tàn. Liên và An dọn hàng và bắt đầu ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống của chị em Liên và những người dân nơi phố huyện như vợ chồng bác Xẩm, mẹ con chị Tí, bác phở Siêu đều chẳng có gì đặc biệt. Tất cả đều bàng bạc, lặng lẽ và lầm lụi. Chuyện chợ tàn, chuyện chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với một chút hi vọng được nhìn thấy trong một khoảnh khắc rất ngắn thứ ánh sáng sang trọng trên những toa tàu, hồi ức về những ngày sống sung sướng ở Hà Nội của hai đứa trẻ và những suy nghĩ của cô bé Liên là tất cả tình tiết cơ bản của câu chuyện. Một câu chuyện dung dị, đời thường, không tô vẽ và một lối kể chuyện như tâm tình thủ thỉ với chính mình là những nét riêng trong nghệ thuật kể chuyện của Thạch Lam ở Hai đứa trẻ.
– Trong Hai đứa trẻ, nhà văn đặc biệt chú ý đến miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật. Nhà văn chú ý miêu tả tâm trạng của nhân vật Liên. Cảnh vật cũng được nhìn bằng ánh mắt của Liên. Qua những cảm nhận của Liên về cảnh vật và cuộc sống xung quanh, nhà văn thể hiện một nỗi buồn thấm thía và sâu sắc về số phận con người. Những kiếp người nhỏ bé vô danh nơi phố huyện nhỏ ấy rất dễ bị xã hội lãng quên. Tâm trạng của Liên cũng là tâm trạng chung của bao người đang phải sống trong bế tắc của những thân phận nhỏ bé, nghèo hèn. Nhà văn đã thể hiện một niềm cảm thông sâu sắc và tình thương yêu đối với những người không may mắn ấy.
– Vẻ đẹp của tác phẩm còn được thể hiện ở nghệ thuật lựa chọn và sáng tạo chi tiết của tác giả. Chọn những chi tiết có sức gợi tả cùng với thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản, nhà văn đã khắc hoạ thành công cảnh nghèo và cảnh sống buồn tẻ, bế tắc của người dân nơi phố huyện nghèo thời kì trước Cách mạng. Cách mêu tả của Thạch Lam nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Ông để cho cuộc sống tự nó bộc lộ và bản chất xã hội tự nó thể hiện mình mà vẫn phản ánh được bộ mặt thật của hiện thực.
III. Kết luận.
Nhẹ nhàng và tinh tế, Thạch Lam đã vẽ lên một bức tranh đầy sức gợi về một phố huyện nghèo. Qua tâm trạng của Liên, cuộc sống của hai chị em và người dân nơi phố huyện ấy, nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực mà còn thể hiện một tư tưởng nhân văn có giá trị lâu dài. Trước hết, tác phẩm là bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo với những kiếp người nhỏ nhoi, tội tình (hai đứa trẻ, chị bán hàng nước ban ngày đi mò cua xúc tép, vợ chồng người hát xẩm…). Chẳng có gì đảm bảo cho tương lai của họ. Phía trước họ càng nhìn càng tối, ánh sáng của hi vọng dù có nhưng chỉ le lói ở chính nơi họ ngồi. Hiện thực thì nghèo khó, không gì hứa hẹn ở tương lai, những con người nhỏ bé ấy sống như thế nào. Họ gửi gắm ước mơ vào chuyến tàu đêm với một luồng ánh sáng phù hoa tan biến rất nhanh. Qua việc tả cảnh kiên trì hàng đêm chờ tàu qua rồi mới dọn hàng, mới đi ngủ của những con người ấy, nhà văn muốn thể hiện một tư tưởng nhân văn. Đó là khẳng định sự bất diệt của khát vọng, ước mơ. Cuộc sống dù nghèo khổ, tăm tối và bế tắc đến đâu cũng không thể dập tắt được hi vọng và khát vọng của con người.
Tác phẩm đã thể hiện tình thương yêu vô bờ và sự trân trọng của nhà văn đối với những thân phận nhỏ bé trong xã hội. Một cốt truyện nhẹ nhàng nhưng giá trị thật sâu sắc và thấm thía. Với một con đường rất riêng, ngòi bút của Thạch Lam đã đánh thức lòng trắc ẩn trong tâm hồn mỗi con người và làm nảy sinh ở họ những tình cảm nhân văn cao đẹp.