cach-cam-nhan-moi-me-nhung-phat-hien-doc-dao-ve-khong-gian-dia-li-cua-dat-nuoc-trong-moi-quan-he-voi-nhan-dan-qua-doan-trich-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-diem

Những cách cảm nhận mới mẻ, những phát hiện độc đáo về không gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân Dân.

Những cách cảm nhận mới mẻ về đất nước, những phát hiện độc đáo về không gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân Dân.

  • Mở bài:

Trường ca Mặt đường khát vọng là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khoa Điềm và cũng là tác phẩm nổi bậc của nền thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Qua đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản trường ca, Nguyễn Khoa Điềm đã có những cách cảm nhận mới mẻ về đất nước, những phát hiện độc đáo về không gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân Dân.

1. Cái nhìn mới mẻ về Đất nước qua những chất liệu văn hóa dân gian.

Đoạn thơ quan sát không gian địa lí của Đất Nước qua các di tích văn hóa, lịch sử như Đền Hùng, núi Vọng Phu… các địa danh như làng Gióng, sông Cửu Long…, những thắng cảnh như hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên… hoặc đơn giản chỉ là những ruộng đồng gò bãi, núi sông…trên khắp mọi miền Tổ quốc…

Điều đáng nói là tất cả những không gian địa lí đều hiện ra qua một câu chuyện ngày xửa ngày xưa nào đó của văn hóa dân gian như sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết Thánh Gióng – những câu chuyện gắn liền với những huyền thoại, huyền tích hoặc sự thật về Nhân Dân trong lịch sử mấy ngàn năm qua. Chính Nhân Dân đã biến những cảnh quan bình dị của Đất Nước thành những danh thắng, những di tích văn hóa, lịch sử vừa thiêng liêng, vừa thân yêu, gần gũi trong tâm thức người Việt bởi sự gắn liền với cuộc sống của Nhân Dân, được cảm nhận qua tâm hồn Nhân Dân, được soi chiếu qua lịch sử dân tộc. Cuộc sống của Nhân Dân trong dòng chảy của lịch sử dân tộc hòa với hình hài sông núi đã trở thành chất liệu phong phú, xúc động cho những thần thoại, cổ tích, truyền thuyết trong văn hóa dân gian.

Chọn từ những chất liệu nghệ thuật tiêu biểu của văn hóa dân gian. Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc cảm nhận xúc động và thấm thía những nỗi đau trong cuộc đời, thân phận, những vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách người Việt: sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra nỗi xót xa cho cảnh li tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng; cách gọi tên hòn Trống Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ hiện đại đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời, cho sự son sắt vĩnh hằng của tình yêu đôi lứa; những quả đồi thấp bao quanh núi Hi Cương, nơi có đền thờ các vua Hùng qua cách nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi chín mươi chín con quây quần thần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về một quốc gia thống nhất; tên gọi núi Bút non Nghiên gợi hình ảnh của một đất nước với nghìn năm văn hiến, với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước “lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa…” ( Huy Cận).

Những câu chuyện về sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết về Thánh Gióng, về miền đất Tổ Hùng Vương; những cách nhìn hình sông dáng núi để đặt tên như hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên… đương nhiên chỉ là những hư cấu nghệ thuật, là những liên tưởng hoặc sâu xa, hoặc hồn nhiên, thú vị của cha ông để lý giải hình sông dáng núi, đồng thời phản ánh chân thực và cảm động những cảnh ngộ, những thân phận, những tâm nguyện, mơ ước, và nhất là những vẻ đẹp trong tâm hồn, cốt cách người Việt Nam suốt mấy ngàn năm qua. Trí tuệ dân gian đã dùng hình thức hư cấu huyền ảo của nghệ thuật để lý giải những hình hài sông núi hiện hữu trong không gian Đất Nước, đồng thời phản ánh những nỗi đau, những vẻ đẹp có thật trong cuộc sống Nhân Dân.

2. Cái nhìn mới mẻ về Đất nước qua những phát hiện độc đáo của phương thức tư duy hiện đại.

Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa nhân gian nhưng lại bay bổng trên thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ, độc đáo của phương thức tư duy hiện đại.

Đoạn thơ liên tiếp lập lại những cụm động từ góp cho Đất Nước… góp nên… góp mình dựng đất… góp dòng sông… góp cho Hạ Long… góp tên… Và chủ thể của những sự đóng góp ấy là những người vợ nhớ chồng, là cặp vợ chồng yêu nhau, là người học trò nghèo, là những người dân nào… tất cả đều vô danh, đó chính là Nhân Dân, qua năm tháng, lặng lẽ, bền bỉ, kiên cường, đã tạo dựng lên Đất Nước, đã đặt tên, in dấu sâu đậm trên dáng hình của quê hương xứ sở.

Vậy là nếu tác giả dân gian xưa dùng thần thoại truyền thuyết để lí giải hình hài sông núi, qua đó mà gửi gắm những ước mơ, xót thương những thân phận, ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của Nhân Dân thì Nguyễn Khoa Điềm tuy vẫn đặt hình hài Đất Nước trong thế giới huyền ảo của văn hóa dân gian nhưng nhà thơ hiện đại không dừng lại lí giải núi sông mà còn đem đến một cách nhìn mới cho núi sông. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái hay núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, cũng không chỉ được nhìn thông qua những cảnh ngộ, nỗi niềm hoặc phẩm chất của Nhân Dân  mà còn được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của Nhân Dân, là minh chứng thiêng liêng, xúc động cho sự đóng góp của Nhân Dân  để làm ra Đất Nước.

Với cách cảm nhận ấy, mỗi ngọn núi, dòng sông, ruộng đồng, gò bãi, mỗi danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền Đất Nước đều không còn vô tri đều như có linh hồn, như mang tâm trạng, đều gợi một dáng hình, một ao ước, một lối sống cha ông; đều trở thành kí ức đẹp đẽ, vĩnh hằng về tâm hồn, tính cách và số phận của Nhân Dân .

Cách nhìn vừa mới mẻ vừa mang đậm sắc thái dân gian đã giúp nhà thơ khẳng định và ca ngợi công lao của Nhân Dân đối với Đất Nước. Sự đóng góp vô tận, lớn lao của Nhân Dân  đã được thể hiện qua những dòng thơ sâu sắc và tràn đầy xúc cảm:

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian đằng đẵng của lịch sử dựng nước và giữ nước thì cụm từ đi đâu ta cũng thấy lại gợi hình ảnh về những không gian mênh mông của Đất Nước; lặng lẽ bền bỉ cùng dòng thời gian ấy, trung hậu, kiên cường trong không gian ấy là vời vợi những cuộc đời của  Nhân Dân. Động từ hóa không chỉ gợi ra những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi, xương máu của Nhân Dân trong quá trình dựng nước và giữ nước mà còn khẳng định, ngợi ca sức mạnh kì diệu, sự hóa thân kì diệu của những con người vô danh, thầm lặng một nắng hai sương trong thời bình, kiên cường trồng tre mà đánh giặc trong thời chiến, nhân hậu nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sống hằng ngày… để làm nên núi sông ta.

  • Kết bài:

Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã được thể hiện trước hết ở bình diện không gian, khi chính Nhân Dân, lớn lao và thầm lặng, bằng tình yêu và nỗi đau, bằng sự dũng cảm hay cần cù nhẫn nại, bằng cách sống và cách nghĩ nhân hậu, thủy chung, bằng những ước mơ đẹp đẽ, những khát khao bình dị đã in dấu cuộc đời lên hình sông dáng núi, đã làm nên Đất Nước muôn đời.

Xem thêm:

Trong đoạn trích “Đất Nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm viết:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi […]
Đất Nước có từ ngày đó…
(Trích Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2019, Tr. 118)
Anh/ chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó nhận xét về cái nhìn mới mẻ về đất nước được thể hiện trong đoạn trích.

BÀI LÀM.

  • Mở bài:

Raun Gamzatop từng quan niệm:

Có lúc thơ như trái núi cao không thể tới
Có lúc thành cánh chim sà đậu xuống bàn tay”

Thơ, có lúc thật thâm sâu vời vợi, có lúc lại giản dị đến bất ngờ. Với Nguyễn Khoa Điềm, thơ có lẽ bao gồm cả hai đặc tính đó, hay nói đúng hơn, sự thâm sâu của tư tưởng triết luận trong thơ ông lại được bộc lộ ra bằng một hình thức ngôn từ vô cùng mộc mạc. Điều này được thể hiện một cách thật rõ nét qua đoạn trích “Đất Nước”, rút từ trường ca “Mặt đường khát vọng” của ông. Hình tượng Đất Nước, vốn là một đề tài lớn lao và khó bao quát, thế nhưng, qua thơ ông, nó lại trở nên thân thương, gắn bó, như là những gì gần gũi nhất, hiển hiện trong cuộc sinh hoạt hằng ngày của mỗi con người:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi (…)
Đất Nước có từ ngày đó…”.

  • Thân bài:

1. Khái quát tác giả, tác phẩm.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trí tuệ, xúc cảm dồn nén và suy tư sâu lắng, thể hiện tâm tư của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm rất thành công với những sáng tác thơ về đề tài đất nước, tiêu biểu nhất là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích “Đất Nước”. Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Đoạn trích “Đất nước” là phần đầu chương năm của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều góc độ, với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân dân”.

2. Cảm nhận đoạn thơ.

Chín câu thơ này chính là suy nghĩ của tác giả về cội nguồn của Đất Nước. Ngay ở câu thơ mở đầu, bằng giọng điệu tâm tình thủ thỉ, như lời kể chuyện bên tai, tác giả đã nói với ta một chân lí vô cùng giản dị: Đất Nước đã ra đời từ rất xa xưa:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Khi ta lớn lên, từ khi ta có nhận thức về đất nước, thì ta thấy đất nước đã tồn tại. Cho dù “ta” ở đây là ai, cho dù sự “lớn lên” ấy xẩy ra vào lúc nào, cho dù ta có quay ngược thời gian trở về quá khứ bao nhiêu lâu chăng nữa, thì đất nước vẫn luôn là cái đã hiện diện từ trước. Nói như vậy cũng có nghĩa là, từ khi ta có mặt trên đời, thì trong dòng máu của ta, trong miếng cơm ta ăn, trong không khí ta thở, trong suy nghĩ, lời nói của ta, tất cả đều đã mặc nhiên thấm nhuộm tinh thần đất nước.
Nói “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” cũng để nhằm nhắc nhở mỗi người: Đất Nước là di sản của người đi trước để lại cho ta, là xương máu của bao lớp tiền nhân đã đổ. Chúng ta là người thừa hưởng, cho nên phải biết trân trọng và gìn giữ. Nói như Bác Hồ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Sau lời khẳng định nhẹ nhàng, giản dị mà thấm thía ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra những luận giải về cội nguồn xa xưa của Đất Nước.

Đất Nước có nguồn cội xa xưa, vì nó đã xuất hiện ở trong những câu truyện cổ:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”.

  Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” là lời mở đầu quen thuộc của những câu chuyện cổ tích, một thể loại truyện dân gian đã có từ rất lâu đời. Thế mà trong những câu chuyện xa xưa ấy đã có bóng hình đất nước. Quả vậy, ở chuyện cổ tích, ta đã thấy được cái nếp sinh hoạt tự ngàn xưa của làng xã Việt Nam; thấy được vẻ đẹp của con người Việt Nam: sự thông minh gan dạ, bản tính lương thiện, cần cù, chịu thương chịu khó; thấy được những triết lý tốt đẹp cùng những ước mơ cháy bỏng về một xã hội công bằng. Như vậy, trước khi chuyện cổ tích ra đời thì đất nước đã tồn tại, nguồn gốc của đất nước còn xưa hơn cổ tích.

Đất Nước có cội nguồn xa xưa vì nó gắn liền với những tập tục văn hóa cổ truyền:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

Nói “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu”, có nghĩa là từ khi có miếng trầu xuất hiện thì đồng thời đất nước cũng được khai sinh. Thế nhưng tục ăn trầu xuất hiện tự bao giờ? Thật là khó để xác định. Chỉ biết nó là một tập tục có từ rất lâu đời, lâu đời đến nỗi sự ra đời của nó chỉ được biết đến qua sự tích: Sự tích trầu cau. Và do thế, một lần nữa, ta lại thấy được cái tính chất xa xưa của cội nguồn đất nước.

Tuy nhiên, khi gắn đất nước với hình ảnh miếng trầu, Nguyễn Khoa Điềm còn có những dụng ý khác. Thứ nhất, tục ăn trầu tuy ra đời từ xa xưa, nhưng đến bây giờ nó vẫn còn tồn tại: “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Như vậy, nếu nói đất nước ra đời cùng với miếng trầu, có nghĩa là, trong mỗi giây mỗi phút, dù quá khứ hay hiện tại, đất nước vẫn không ngừng được sinh ra. Sự ra đời của đất nước không phải là một sự kiện tĩnh tại, mà là một sự vận động không ngừng trong suốt chiều dài lịch sử. Chừng nào mà người Việt còn giữ được những tập tục cổ truyền tốt đẹp của cha ông, thì chừng đó đất nước vẫn không ngừng được sinh ra, được bồi đắp để ngày càng hoàn thiện và lớn mạnh. Thứ hai, khi gắn đất nước với hình ảnh miếng trầu, Nguyễn Khoa Điềm muốn ca ngợi một tập tục độc đáo, tốt đẹp của người Việt. Quả nhiên, ăn trầu là một thói quen đặc biệt, và nó không còn đơn thuần là một thói quen sinh hoạt, mà đã trở thành văn hóa. Miếng trầu gợi nhắc tình nghĩa vợ chồng anh em keo sơn gắn bó trong “Sự tích trầu cau”. Miếng trầu là nét đẹp trong văn hóa giao tiếp: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Miếng trầu là lời bày tỏ tình yêu của đôi trai gái: “Anh về cuốc đất trồng cau / cho em trồng ké dây trầu một bên / Mai này trầu nọ lớn lên / Cau kia ra trái làm nên cửa nhà”. Miếng trầu cũng đánh dấu chuyện hôn nhân, nên chồng nên vợ: “Miếng trầu nên dâu nhà người”. Như vậy, gắn sự hình thành đất nước với hình ảnh miếng trầu, Nguyễn Khoa Điềm đã không chỉ nói được cái nguồn gốc xa xưa, mà còn gợi ra cả một nếp sống văn hóa độc đáo và cao đẹp của dân tộc Việt.

Đất Nước, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, cũng như một con người, có sinh thành và có lớn lên. Nếu đất nước bắt đầu với tập tục cổ truyền thì đất nước lớn mạnh cùng với quá trình đấu tranh giữ nước:

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Thứ nhất, câu thơ đã nói đến một trong những đặc điểm quan trọng của tiến trình lịch sử Việt Nam: luôn phải đấu tranh để chống giặc ngoại xâm. Với vị thế ngã ba của Đông Nam Á, là mắt xích quan trọng của nhiều con đường giao thương hàng hải, lại là mảnh đất có thiên nhiên trù phú, nên không có gì ngạc nhiên khi từ xưa đến nay, Việt Nam luôn bị các thế lực bên ngoài dòm ngó và xâm lấn. Chúng ta đã trải qua một ngàn năm đấu tranh chống giặc phương Bắc, gần một trăm năm bị chiếm đóng bởi thực dân phương Tây, rồi lại trải qua hai mươi năm kháng chiến để cuối cùng mới giành lại được hòa bình, độc lập. Đấu tranh giữ nước đã trở thành một truyền thống lâu đời của con người Việt Nam, và khi nói đất nước lớn lên cùng với quá trình ấy, cũng là đồng thời một lần nữa khẳng định nguồn gốc xa xưa của đất nước. Thứ hai, theo Nguyễn Khoa Điềm, đấu tranh giữ nước chính là một hành động thể hiện sự hình thành và phát triển của ý thức dân tộc. Do vậy, từ khi người dân Việt Nam có ý thức về việc phải cùng đứng lên để bảo vệ mảnh đất linh thiêng của cha ông, đã “biết trồng tre mà đánh giặc” thì cũng chính là lúc “Đất Nước lớn lên”. Thứ ba, câu thơ cũng hàm chứa trong nó một thái độ tự hào về phẩm chất anh hùng của nhân dân ta. Hình ảnh cây tre ở đây, vừa gợi nhắc đến Thánh Gióng, người anh hùng lớn lên giữa sự đùm bọc của nhân dân, là sự kết tinh sức mạnh của toàn dân tộc, đã nhổ tre đánh bại giặc Ân xâm lấn; vừa nói lên cái ý chí bền bỉ, dù phải trường kì kháng chiến cũng không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù, không bao giờ chịu cúi đầu trước nỗi nhục mất nước, như câu ca dao xưa mà ta vẫn thường nghe:

“Thù này nhớ để còn lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”.

Nguồn cội xa xưa của đất nước không chỉ thể hiện ở những tập tục lâu đời, ở truyền thống đấu tranh giữ nước suốt chiều dài lịch sử, mà còn thể hiện ở những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong cuộc sống thường ngày:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”

Bốn câu thơ nói lên hai phẩm chất đáng quý của người Việt: Thứ nhất, đó là đức tính chịu thương chịu khó. Đất nước Việt Nam tuy trù phú, nhưng lại phải chịu lắm thiên tai. Thêm nữa, nền nông nghiệp lúa nước khiến người dân phải phụ thuộc vào thời tiết, phải “trông trời trông đất trông mây / trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm”. Bởi vậy, để có được miếng ăn, họ đã phải lao động chăm chỉ và vất vả. “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”. Thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với phép liệt kê một loạt các động từ “xay, giã, dần, sàng” cho thấy, để làm ra được hạt gạo nuôi sống con người, nhân dân đã phải đổ biết bao mồ hôi, công sức. Quả là “một hạt thóc vàng chín giọt mồ hôi”, quả là để có được một bát cơm đầy thì “dẻo thơm một hạt” mà “đắng cay muôn phần”. Cũng chính vì sự vất vả ấy mà “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, một thói quen đem lại sự gọn gàng trong lao động, lâu dần đã trở thành một thói quen thẩm mĩ của người Việt: thói quen bới tóc (“Tóc ngang lưng vừa chừng em bối / Để chi dài bối rối lòng anh”). Thế nhưng, chính trong sự vất vả gian lao, người Việt lại hun đúc cho mình cái bản tính trọng nghĩa trọng tình: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” có nghĩa là vì gian khó nên thương nhau, trong gian khó lại càng thương nhau hơn. Thành ngữ “gừng cay muốn mặn” cũng thể hiện sự thủy chung son sắt của tình người, càng khốn khó lại càng bền chặt, không thay lòng đổi dạ. Nó gợi ta nhớ đến câu ca dao: “Tay bưng chén muối đĩa gừng / Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Nó cũng gợi ta nhớ đến cách sống đặt tình nghĩa cao hơn vật chất: “Chồng em áo rách em thương / Chồng người áo gấm xông hương mặc người”. Và gia đình được hình thành trên cơ sở của mối tình bền chặt ấy:
“Cái kèo cái cột thành tên”

Trong khó khăn hoạn nạn, vì luôn bền tình nặng nghĩa, nên mới chung lưng đấu cật, đồng vợ đồng chồng để xây dựng gia đình. Từ cái kèo, cái cột đơn sơ, một tổ ấm ra đời. Có thể nói, sự ra đời của gia đình là một sự kiện rất xa xưa, mà đối với người Việt, gia đình cũng chính là đất nước (nước nhà), cho nên, nguồn cội của đất nước cũng xa xưa như thế.

Câu thơ cuối cùng như một lời đúc kết, một lời khẳng định lại một lần nữa cội nguồn xa xưa của đất nước:

“Đất Nước có từ ngày đó”.

“Ngày đó” chính là cái “ngày xửa ngày xưa”, ngày đất nước khai sinh với “miếng trầu bà ăn”, ngày đất nước lớn lên “khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”, ngày cha mẹ trong gian khó vẫn thương nhau để cùng nhau xây dựng gia đình. Câu thơ dùng đại từ phiếm chỉ “ngày đó”, vừa mang ý nghĩa tổng kết, lại vừa gợi mở trong lòng người đọc biết bao suy ngẫm khôn nguôi. Và bằng những cảm nhận riêng, những thấm thía riêng, mỗi con người sẽ có cho mình một hình dung về Đất Nước.

3. Nghệ thuật.

Thành công về mặt nghệ thuật của đoạn thơ là ở việc sáng tạo những hình ảnh thơ hàm súc; sử dụng linh hoạt các chất liệu văn hóa dân gian; dung lượng câu thơ thay đổi linh hoạt, dài ngắn đan xen phù hợp với sự biến đổi của giọng điệu và cảm xúc; sự suy tư chiêm nghiệm được bộc lộ qua chất trữ tình sâu lắng thiết tha. Tất cả đã góp phần làm nên nét đặc sắc cho đoạn thơ.

4. Nhận xét cảm nhận mới mẻ về đất nước.

Cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện ở việc ông có những lý giải riêng về cội nguồn của đất nước. Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa: câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa”, tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc. Như vậy, theo cảm nhận của tác giả, chính văn hóa dân gian là nơi khai sinh ra đất nước. Cũng trong đoạn trích này, ta thấy Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận đất nước như một con người. Đất Nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Như vậy, cội nguồn của đất nước được lí giải từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

  • Kết bài:

Chín câu thơ đầu của đoạn trích là một trong những đoạn thơ hay nhất của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Nó vừa thể hiện tài năng nghệ thuật, vừa thể hiện lòng yêu đất nước nồng nàn, và đặc biệt là thể cái nhìn đầy mới mẻ, mang tính chất phát hiện của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Lời thơ mộc mạc giản dị, hình ảnh thơ vừa gần gũi dễ hiểu nhưng lại vẫn cao sâu, đầy suy tưởng, đúng như R. Gamzatop từn nói: “Có lúc thơ như trái núi cao không thể tới / Có khi thành cánh chim sà đậu xuống lòng tay”. Đoạn trích “Đất Nước” nói riêng và trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung đã góp thêm một tiếng nói độc đáo làm nên sự thành công của dòng thơ viết về đề tài đất nước, góp phần khắc sâu tư tưởng của thời đại mới: Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.

Xem thêm:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang