doc-hieu-van-ban-chiec-thuyen-ngoai-xa-nguyen-minh-chau

Đọc hiểu văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)

Đọc – hiểu văn bản:

Chiếc thuyền ngoài xa
(Nguyễn Minh Châu)

I. Tìm hiểu chung.

1. Tác giả: Nguyễn Minh Châu.

– Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), quê làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là nhà văn quân đội, ông từng viết và chiến đấu tại nhiều chiến trường, sau chiến tranh, ông về công tác tại tạp chí Văn nghệ Quân đội.

– 1960 ông bắt đầu viết văn và có những đóng góp đáng kể cho văn học kháng chiến chống Mĩ

– Sau 1975, đặc biệt từ 1980 của thế kỉ XX, Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong trong phong trào đổi mới văn học.

– Ông mất năm 1989, khi những trăn trở về đổi mới nghệ thuật còn dang dở.

* Sự nghiệp sáng tác:

* Trước 1975: các sáng tác của giai đoạn này mang những đặc điểm chung của văn học thời chống Mĩ.

– Cảm hứng sử thi với giọng điệu ngợi ca trang trọng.

– Nhân vật trung tâm là những người anh hùng, những người lính.

– Ngôn ngữ trữ tình, lãng mạn.

– Tác phẩm tiêu biểu: Cửa sông (tiểu thuyết), Những vùng trời khác nhau (tập truyện), Dấu chân người lính (Tiểu thuyết).

* Sau 1975: Từ cảm hứng sử thi, Nguyễn Minh Châu chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường.

– Nhân vật trung tâm là những con người trong cuộc mưu sinh trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.

– Ngôn ngữ đời thường, giàu tính chính luận, triết luận.

– Tác phẩm tiêu biểu: Bức tranh (Truyện ngắn); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Tập truyện ngắn); Bến quê (tập truyện ngắn.

Nguyễn Minh Châu là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới.

2. Tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa”.

– Xuất xứ: Sáng tác năm 1983, in lần đầu trong tập Bến quê, NXB Tác phẩm mới, 1985. Sau được in riêng thành tập “Chiếc thuyền ngoài xa”, NXB Tác phẩm mới, 1988.

– Thể loại: truyện ngắn.

– Nội dung: Suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh khi phát hiện ra mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình; từ đó thấu hiểu mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người.

– Bố cục: 2 phần

+ Phần 1: “Từ đầu → vài bữa”: Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh

+ Phần 2: Còn lại: Câu chuyện của người đàn bà làng chài tại toà án huyện.

* Tóm tắt:

Nhận nhiệm vụ từ trưởng phòng, Phùng phải đi về miền Trung thực hiện bộ ảnh để chào đón năm mới. Đây cũng là địa điểm mà anh từng tham chiến trong thời gian chống Mỹ. Sau một tuần “phục kích” và phát hiện ra “cảnh đắt trời cho” Phùng quyết định chọn chủ đề cho bộ lịch đó là chiếc thuyền đánh cá trong một buổi sáng bình minh. Khi đã hoàn thành bộ ảnh, anh quay về thì chứng kiến cảnh tượng người đàn ông hàng chài to lớn đang đánh đập người phụ nữ. Đứa con tên Phác chạy ra can ngăn. Cứ thế cảnh tượng đó diễn ra liên tiếp, không thể chịu được Phùng quyết định ngăn cản thì bị người đàn ông đánh bị thương. Ngay sau đó, Chánh án Đẩu – bạn của Phùng mời người đàn bà hàng chài lên tòa án huyện để giải quyết. Tại đây Đẩu khuyên người đàn bà hàng chài bỏ người chồng vũ phu kia. Người đàn bà giải thích lí do vì sao chồng đánh và kể về người chồng của mình. Phùng và Đẩu hiểu ra rằng mặc cho bị ngược đãi về thể xác nhưng cả người đàn bà và những đứa con cần người đàn ông gánh vác trách nhiệm gia đình và nuôi sống gia đình. Phùng nhận ra nhìn nhận mọi việc đơn giản bằng vẻ ngoài không thôi thì chưa đủ.

II. Đọc – hiểu văn bản.

1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

a. Phát hiện thứ nhất: “một cảnh đẹp trời cho”.

– Một cảnh tượng tuyệt đẹp, một “bức hoạ” diệu kì mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người. Sở dĩ có thể đánh giá như vậy là vì nó là một “sản phẩm” quý hiếm của hoá công mà trong đời người nghệ sĩ không phải khi nào cũng chộp được.

– Mặt khác như cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, cái cảnh tượng ấy giống như “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “Từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”

– Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hoá công, người nghệ sĩ trở nên “bối rối”“trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Tâm hồn người nghệ sĩ rung động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong lòng anh.

– Phát hiện nghệ sĩ nhiếp ảnh về vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa trên biển độc đáo, tinh tế. Bức tranh mực tàu, cảm tưởng như vừa khám phá ra chân lí của sự hoàn thiện, trong khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Đôi mắt tinh tường, nhà nghề phát hiện ra vẻ đẹp của mặt biển mờ sương. Người nghệ sĩ thấy hạnh phúc khi khám phá và sáng tạo, cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Sự hài hòa, toàn bích, lãng mạn của cuộc đời khi thấy tâm hồn được thanh lọc. Người nghệ sĩ còn “khám phá cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn mình”.

→ Nói cách khác trong một khoảnh khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện của cuộc đời, anh cảm thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Với tác dụng ấy, cái đẹp chẳng phải là “đạo đức” hay sao?

* Bàn luận:

Nhà văn Thạch Lam từng cho rằng: “Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao mà đắc lực mà chúng ta vừa có để tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn ác vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, chi tiết cuối truyện: “Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẻ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”” để hiểu rõ hơn về những tác động thảm mĩ diệu kì của văn học nói riêng và của nghệ thuật nói chung đối với tâm hồn con người.

Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những cảm xúc thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra điều mới mẻ tiếp theo ngay sau bức tranh.

b. Phát hiện thứ hai: hiện thực cuộc sống khắc nghiệt và tàn nhẫn.

– Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là:

+ Một người đàn bà vùng biển có ngoại hình xấu xí, thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, thân hình cao lớn, tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới. Chị là hiện thân của sự nghèo khổ, vất vả, cam chịu. Cuộc đời chị thiếu may mắn, lam lũ, cực khổ. Tính cách chị cam chịu, nhẫn nhục dù bị chồng bạo hành. Chị sống giàu lòng tự trọng. Chi biết hành động vũ phu bị người khách lạ và đứa con biết thì đau đớn, xấu hổ, nhục nhã. Chị sống sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con. Chị là một người phụ nữ vị tha, giàu đức hi sinh.

+ Một gã đàn ông to lớn: lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt độc dữ. Cuộc sống nghèo đói, lam lũ đã hằn lên dáng vẻ khắc khổ của người đàn ông.

+ Một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo, nhưng chị vẫn chịu đựng “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”… Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát,…

→ Chứng kiến cảnh tượng đó nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ : “tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sỹ như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt.

* Bàn luận:

– Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp kỳ diệu của tạo hoá kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lý của sự toàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì là “đạo đức” , là cái “toàn thiện” của cuộc đời.

– Phát hiện thứ hai chứa đầy nghịch lí. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ trong màn sương là người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu. Một gã đàn ông thô kệch, dữ dằn, ác độc, xem việc hành hạ, đánh đập vợ như cách để giải tỏa uất ức, đau khổ. Ẩn sau cái đẹp tưởng như “toàn bích, toàn thiện’ mà anh bắt gặp là sự việc thô bạo, vô lí như một trò đùa quái ác của cuộc sống”. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ nhân vật Phùng kinh ngạc… vứt chiếc máy xuống đất. Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí, luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: đẹp – xấu; thiện – ác,…

– Giả sử có ai đó muốn can thiệp vào tác phẩm của nhà văn bằng cách đảo vị trí hai phát hiện này, tức là để cho người nghệ sĩ chứng kiến bi kịch của gia đình làng chài hôm trước, rồi sáng hôm sau mới phát hiện vẻ đẹp của cảnh biển mờ sương. Điều đó sẽ làm mát đi ý tưởng nghệ thuật của nhà văn về cách nhìn nhận và đánh giá con người và mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống. Nhà văn đã có dụng ý để khi cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước như là vỏ bọc bên ngoài hòng che dấu cái bản chất thực của đời sống thực ở bên trong. Nhà văn khẳng định: đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong không phải bao giờ cũng thống nhất; đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.

2. Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện.

– Đến tòa án theo lời mời của chánh án Đẩu – người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà nghèo khổ ấy từ bỏ lão chồng vũ phu

– Chị đau đớn đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ lão chồng vũ phu: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Chị từ chối lời đề nghị và sự giúp đỡ của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng.

– Chị giải thích: “Các chú đâu có phải là người làm ăn…khó nhọc…[…] bởi vì các chú không phải là đàn bà…. Có đàn ông…”.  Chị đưa ra các lí do:

+ Thứ nhất: Gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của những người đàn bà hàng chài như chị nhất là những khi biển động, phong ba.

+ Thứ hai: Chị cần hắn vì còn phải nuôi những đứa con, chị đâu có thể chỉ sống cho riêng mình, còn phải sống vì chúng nữa.

+ Thứ ba: Trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng sống hoà thuận, vui vẻ.

– Chị kể tiếp: Người đàn ông ấy vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, “không bao giờ đánh đập” vợ. Chỉ vì “nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”, vì quá nhiều con mà anh ta trở nên độc dữ. Trong con mắt của người đàn bà, người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Nhà văn miêu tả với thái độ thẩu hiểu, cảm thông, chia sẻ.

– Cách nhìn nhận về người chồng vũ phu của người đàn bà hàng chài có gì khác so với cách nhìn nhận và thái độ của Đẩu, Phùng và thằng bé Phác. Đẩu, Phùng và Phác mới chỉ thấy được một khía cạnh ở người đàn ông hàng chài này, đó là sự độc ác, tàn nhẫn, ích kỉ. Thái độ của họ đối với anh ta là kịch liệt phản đối, phải lên án, đấu tranh. Trong khi đó người đàn bà nhìn nhận người chồng của mình toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Chị đau đớn nhưng không oán hận vì chị thấu hiểu nguyên nhân sâu xa của những hành động vũ phu ấy.

– Sự khác biệt trong những điểm nhìn nêu trên, đặc biệt cách nhìn nhận của người phụ nữ đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về điều gì về người đàn ông này nói riêng và cách nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống nói chung. Người đàn ông này vừa đáng bị lên án vì độc ác, thói vũ phu, tính ích kỉ, tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác đẻ thoả mãn những bực dọc trong lòng. Nhưng ở anh ta cũng có chỗ để cảm thông, chia sẻ, xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Rõ ràng không phải nhìn người, nhìn đời một phía. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Tóm lại phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều.

– Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện nói mang ý nghĩa. Câu chuyện về hiện thực đời sống, giúp những người như Phùng hay Đẩu, hiểu được lí do của những điều tưởng như vô lí. Người đàn bà chấp nhận chịu bị bạo hành chứ nhất quyết không chịu li hôn. Người đàn bà làng chài có tình yêu thương vô tận với những đứa con, người đàn bà ấy chắt lọc hạnh phúc nhỏ nhoi giữa đau khổ triền miên.

– Câu chuyện thể hiện cái nhìn của người nghệ sĩ với cuộc đời, con người: không thể nhìn nhận dễ dãi, giản đơn về nhưng sự việc trong cuộc sống. Không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều. Nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một cuộc chiến mới không kém phần khó khăn, gian khổ: đó là cuộc chiến bảo vệ nhân tính, thiên lương và vẻ đẹp tâm hồn của con người. Ở phương diện này, Tác giả Nguyễn Minh Châu đã kế thừa xuất sắc tư tưởng nhân văn, nhân đạo sâu sắc của nhà văn hiện thực Nam Cao.

– Câu chuyện đó đã giúp Phùng hiểu rõ hơn vè các nhân vật:

+ Người đàn bà: không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thẩu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu hạnh phúc đời thường. Sống cam chịu và kín đáo. Một người phụ nữ xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha

+ Người bạn – Đẩu: Anh có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng chung cho mọi đối tượng.

+ Chính mình: Mình đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người.

3. Ý nghĩa của tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy.

– Mỗi khi nhìn thấy bức ảnh, tác giả đều thấy: “hiện lên cái màu hồng của ánh sương mai”, nhìn lâu hơn bao giờ cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh…”. Cái màu hồng của ánh sương mai là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Còn hình ảnh “người đàn bà ấy bước ra khỏi bức tranh” là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời đằng sau bức tranh.

Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời. Nghệ thuật là chính cuộc đời và phải luôn luôn vì cuộc đời.

4. Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa.

– Chiếc thuyền ngoài xa là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên về biển và cũng là biểu tượng về cuộc sống sinh hoạt của người dân hàng chài.

– Là một hình ảnh gợi cảm, có sức ám ảnh về sự bấp bênh, dập dềnh của những thân phận, những cuộc đời trôi nổi trên sông nước.

– Là biểu tượng cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Cái hồn của bức tranh nghệ thuật ấy chính là vẻ đẹp rất đỗi bình dị của những con người lam lũ, vất vả trong cuộc sống thường nhật.

Qua tác phẩm này cho thấy những đổi mới cơ bản của văn học Việt Nam sau 1975:  văn học đã trở về với những vấn đề của đời sống nhân sinh, quan tâm nhiều hơn đến các đề tài đạo đức – thế sự (như câu chuyện của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này). Đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn của con người trong cuộc sống thường nhật (vd: đời sống tâm hồn của người đàn bà vùng biển). Khác với giai đoạn trước- chủ yếu khắc hoạ con người trong quan hệ cộng đồng, dân tộc. Văn học giai đoạn này khai thác sâu về số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Từ câu chuyện về một bức ảnh nghê thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều chứ không thể đánh giá con người, sự vật qua vẻ bề ngoài của nó.

– Câu chuyện trong bức ảnh nghệ thuật cũng đặt ra một vấn đề về nghệ thuật cho người nghệ sĩ. Đó là không nên nhìn cuộc sống qua lăng kính màu hồng mà cần phải lăn xả vào hiện thực để nhìn nhận nó một cách đúng đắn. Phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc sống và nghệ thuật, trả nghệ thuật về đúng với ý nghĩa thực của nó.

2. Nghệ thuật:

+ Độc đáo trong cách xây dựng cốt truyện: tức là tạo được tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá và phát hiện về đời sống.

+ Hình thức kể chuyện: Nhà văn đã nhập vai vào nhân vật Phùng để kể. Nhờ vậy mà câu chuyện trở nên gần gũi, khách quan, chân thực hơn và cũng có sức thuyết phục hơn, có thể nhìn cuộc đời và con người ở các góc độ khác nhau, cự li khác nhau.

+ Ngôn ngữ giản dị đằm thắm mà đầy dư vị.

+ Giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư phù hợp với nhận thức.

+ Nghệ thuật kết cấu độc đáo, cách triển khai cốt truyện rất sáng tạo, khắc hoạ nhân vật khá sắc sảo của một cây bút viết truyện ngắn có bản lĩnh và tài hoa.

5. Ý nghĩa văn bản.

– Chiếc thuyền ngoài xa thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời; người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách toàn diện, sâu sắc. Tác phẩm cũng rung lên hồi chuông báo động về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó.

IV. Luyện tập.

Câu 1. Cảm nhận của Phùng về vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương:

– Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên:

+ Vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất hội họa: bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ với màu sắc bầu sương mù trắng như sữa…ánh mắt trời chiếu vào, hình ảnh chấm phá với vài bóng người…một con dơi.

+ Vẻ đẹp hài hòa, toàn bích: từ đường nét đến ánh sáng…bóp thắt vào.

– Cảm nhận và đánh giá của Phùng: cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh…, trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.

Tâm trạng của người nghệ sĩ bối rối, tim như bóp thắt lại → xúc động mãnh liệt trước khoảnh khắc trong ngần của thiên nhiên. Đó là hạnh phúc lớn nhất của người nghệ sĩ. Cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo của sự cảm nhận cái đẹp diệu kì tột độ.

Câu 2. Thái độ của Phùng trước những điều diễn ra ở gia đình hàng chài:

– Phát hiện đầy nghịch lí: bức tranh cảnh bạo lực gia đình đối lập với bức tranh thiên nhiên.
+ Người đàn ông dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà.

+ Người đàn bà cam chịu không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn

+ Đứa con vì thương mẹ nhảy xổ vào đánh trả nhưng bị hai cái tát từ người cha ngã nhào.

+ Người mẹ ôm con vào lòng, buông ra, chắp tay lái lấy vái để rồi ôm con vào, rồi lại buông ra trở về chiếc thuyền.

– Cảm xúc nhân vật Phùng:

+ Kinh ngạc.

+ Đứng há hốc mồm ra nhìn trong mấy phút đầu.

+ Vứt chiếc máy ảnh xuống đất định chạy nhà tới can ngăn.

+ Ngớ ngác, bần thần khi chiếc thuyền đi mất.

Nghệ sĩ Phùng cay đắng, xót xa nhận ra một cảnh đời ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài.

Câu 3. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án nói lên nhiều điều phải suy ngẫm:

– Câu chuyện của người đàn bà:

+ Bất chấp việc bị chồng hành hạ đã lâu nhưng người đàn bà van xin tòa đừng bắt chị bỏ chồng.

+ Chị kể lại cuộc đời nhiều thiệt thòi, đau khổ của mình

+ Những niềm vui, hạnh phúc nhỏ bé khi nhìn đàn con

– Những điều rút ra từ câu chuyện trên:

+ Câu chuyện bi kịch gia đình tàn của người đàn bà là hiện thực khó khăn con người phải đối mặt hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống ngoài kia. Nó không hề thi vị, dễ chịu như phát hiện ngọt ngào về cái đẹp thuần túy mà Phùng trải nghiệm.

+ Người đàn bà tưởng chừng cam chịu, ngu dốt, yếu đuối hóa ra lại là người bản lĩnh, thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh và sống cho con chứ không sống cho mình.

+ Không thể nhìn đời, nhìn người một cách giản đơn, dễ dãi mà phải có cái nhìn đa chiều đa diện để hiểu đúng bản chất của đối tượng và phát hiện những vẻ đẹp tiềm ẩn sâu xa sau lớp vẻ ngoài xù xì, thô nhám của cuộc sống.

Câu 4.

Người đàn bà vùng biển:

– Ngoại hình: trạc 40 tuổi, mặt rỗ, thô kệch

– Cam chịu, chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh, người mẹ hi sinh vì những đứa con.

– Yêu thương con, chấp nhận hi sinh vì con,

Giàu lòng thương yêu gia đình, lòng vị tha, đức hi sinh. Lấy hạnh phúc của các con làm hạnh phúc cho mình.

* Người chồng độc ác:

– Ngoại hình: tấm lưng rộng và cong, tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, quần áo xộc xệch

– Ban đầu: hiền lành, cục mịch

– Khi cuộc sống quá khó khăn, nghèo đói, đông con, sinh ra độc ác, tàn nhẫn. Hắn đánh vợ để giải tỏa áp lực.

Vừa là nạn nhân của cuộc sống nghèo khổ vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình, đáng lên án.

* Chị em thằng Phát:

– Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không làm một việc trái với luân thường đạo lý.

– Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển. Hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.

Bất hạnh khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.

* Nhiếp ảnh Phùng:

– Phùng vốn là một người lính chiến từng vào sinh ra tử, anh căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra là đằng sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác.

– Trước cuộc trò chuyện với người đàn bà, Phùng nhìn đời nhìn nghệ thuật một cách giản đơn nhưng sau đó anh rút ra cho mình bài học phải có cái nhìn đa chiều đa diện để thấu hiểu đúng bản chất của cuộc sống, phải đặt nghệ thuật giữa cuộc đời.

Câu 5. Cốt truyện độc đáo được xây dựng trên những phát hiện liên tục nối tiếp nhau:

+ Phát hiện vẻ đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh khi chiếc thuyền ở xa.

+ Phát hiện cảnh tàn khốc của gia đình hàng chài khi chiếc thuyền lại gần.

+ Phát hiện vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà qua cuộc trò chuyện ở tòa án.

Nguyễn Minh Châu đã xây đựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thứ thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.

Câu 6.

– Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.

– Ngôn ngữ các nhân vật ở đây vừa sinh động vừa phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người.

+ Ngôn ngữ người đàn ông: cục cằn, thô lỗ

+ Người đàn bà: dịu dàng, cam chịu, xót xa, trải đời.

Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề- tư tưởng của truyện ngắn.


Bài tham khảo:

Ý nghĩa tình huống đối lập độc đáo trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

– Cách xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm có nét độc đáo:

+ Tạo ra tình huống truyện bất ngờ: phía sau cảnh tượng như mơ là hình ảnh thô bạo của gã đàn ông vũ phu. Điều đó khiến Phùng, người nghệ sĩ nhạy cảm ngạc nhiên. Sau đó, Phùng được chứng kiến hình ảnh những đứa con của người đàn bà hàng chài cư xử trước hành động hung bạo của cha đối với mẹ, tâm hồn nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn nhận. Qua cuộc trò chuyện với người đàn bà hàng chài. anh hiểu sâu sắc hơn về nguyên nhân của sự cam chịu của người đàn bà ấy.

+ Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu xây dựng được tình huống ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm.

Tình huống truyện mang ý nghĩa của việc khám phá, phát hiện đời sống.

+ Thông qua nhân vật Phùng, tạo điểm nhìn trần thuật sắc sảo, độc đáo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách từng người. Cách kể chuyện linh hoạt, sáng tạo.

+ Hình ảnh nhân vật gợi lên ấn tượng sâu sắc nhất là nhân vật Phùng, người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp. Ở nhân vật Phùng, xuất phát từ trái tim chân thành, tinh tế của người nghệ sĩ chân chính khi đi tìm cái đẹp. ANh có sự thấu hiểu, đồng cảm với con người, và đi tìm nguyên nhân sâu xa của vấn đề. Anh nhìn ra được vẻ đẹp ẩn giấu sâu bên trong tâm hồn của con người.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang