»» Nội dung bài viết:
Đặc trưng cơ bản của tác phẩm chính luận
1. Tuyên truyền sự thật và chân lí.
Tác phẩm chính luận là loại văn cổ động tuyên truyền, phục vụ trực tiếp cho công cuộc đấu tranh chính trị và vận động văn hóa, … Người ta dùng văn chính luận để tuyên truyền xuyên tạc sự thật và bản chất của loại văn này là trình bày sự thật và chân lí.
Chẳng hạn, trong Bài nói chuyện của Hồ Chủ Tịch tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III, Hồ Chí Minh đã nói lên sự thật: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta, những tác phẩm ca tụng chân thật những người người mới, việc mới chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau. Trong thời kì quá độ, bên những thành tích tốt đẹp là chính, vẫn còn sót lại những cái xấu xa của xã hội cũ như: tham ô, lãng phí, lười biếng, quan liêu, đánh con, đập vợ, … Đối với những thói xấu đó, văn nghệ cũng cần phải phê bình rất nghiêm khắc, nhằm làm cho xã hội ta ngày càng lành mạnh tốt đẹp hơn”. Đó là sự thật mà tác phẩm văn nghệ cần phải hướng tới, năm 1962 được Hồ Chí Minh vạch ra sự thật về cái xấu xa của xã hội cũ và tuyên truyền, ca tụng chân thật những người mới, việc mới để giáo dục con cháu sau này.
Bên cạnh đó, nó còn cổ vũ, khích lệ nhân dân làm điều tốt, điều thiện, động viên nhiều tình yêu nước, yêu chính nghĩa của mọi người. Trong bài Lời kêu gọi chống thất học, Hồ Chí Minh đã cổ vũ nhân dân ta tham gia bình dân học vụ bằng những lời thật thấm thía: “Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ”. Từ việc cổ vũ việc chung còn nói đến nhiệm vụ cụ thể của từng người sống trong xã hội thì ai cũng được quan tâm và không ai được đứng bên ngoài phong trào bình dân học vụ, đây là một phong trào yêu nước rộng khắp.
Ngoài ra, văn chính luận còn “đả phá các lời dối trá”. Sự dối trá thì rất phổ biến trong cuộc sống, diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta thấy rõ sự dối trá của bọn thực dân Pháp đối với nhân dân ta một cách rõ rệt, sự thật về “lính tình nguyện” của người bản xứ đã đươc phơi bày trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân pháp của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó chúng mới đòi đến con cái nhà giầu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ra ngay dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần thì giam cổ họ lại, cho đên khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: đi lính hoặc xì tiền ra, … Những người nào thấy mình không thể thoát khỏi số phận hẩm hiu, thì tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất, mà thông thường hơn cả là bệnh đau mắt, toét chảy mủ, gây ra bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống cho đên mủ bệnh lậu”1. Măc dù, không ít trường hợp có người thường dùng văn chính luận để tuyên truyền xuyên tạc sự thật, song bản chất của loại văn này là trình bày sự thật và chân lí.
2. Cảm hứng trữ tình và châm biếm.
Trong tác phẩm chính luận, người viết đã bộc lộ với tất cả tư tưởng, tình cảm để bảo vệ chân lí của mình. Tình cảm yêu ghét ở đây bộc lộ rõ ràng như nhà văn Lỗ Tấn đã nói: “Kịch liệt công kích cái sai như đã từng nhiệt liệt chủ trương cái đúng”. Cảm hứng trữ tình thấm đượm trong văn chính luận và có khi còn gợi lên hình ảnh của tác giả trong đó. Chúng ta thấy trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, không chỉ bằng những lời lẽ đanh thép mà còn bắt gặp lòng yêu nước thương nòi và lòng căm thù giặc sâu sắc: “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu, …”(Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh). “Ngụy sứ “đi lại nghênh ngang”, “uốn lưỡi cú diều” để “xỉ mắng triều đình” đem “thân dê chó” để “bắt nạt tể phụ”. Và chính tác giả thì ngày “quên ăn”, “vỗ gối”, “chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù” (Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn).
Cảm hứng trữ tình và châm biếm còn thể hiện thấm nhuần một nhiệt tình hết sức vĩ đại, đầy lòng phẫn nộ chống lại các giai cấp bóc lột đang cản trở sự phát triển của xã hội. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Mác và Ăngghen vừa là một tác phẩm lí luận, vừa là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của những người Cộng sản: “Mục đích Tuyên ngôn ra đời là giúp cho phong trào vô sản lúc đó đang có yêu cầu một lí luận khoa học soi sáng con đường đấu tranh của mình. C. Mác – Ph. Ăngghen đã từng tuyên bố rằng hai ông làm lí luận không phải vì lí luận mà chủ yếu là để phục vụ giai cấp vô sản. Tuyên ngôn ra đời còn nhằm đập tan những câu chuyện lưu truyền hoang tưởng của chủ nghĩa tư sản Châu Âu xuyên tạc chủ nghĩa công sản lúc bây giờ”.
Cảm hướng trữ tình là sự biểu hiện cao độ của lòng yêu thương và căm giận. Tác giả có thể dùng ngôn ngữ chính luận trực tiếp để bộ lộ triệt để tư tưởng, tình cảm của mình. Riêng lòng căm giận làm nên yếu tố phê phán có thể chuyển hóa sang cảm hứng châm biếm. Tác giả chính luận có quyền hạn rộng rãi trong việc bộc lộ trực tiếp tính khuynh hướng và cần biết kìm giữ lòng căm tức để đào sâu vào những mâu thuẫn nội tại của đối tượng phê phán, buộc nó tự tố cáo lên cái phi lí và phi nghĩa của mình: “Tất nhiên châm biếm có thể từ nhẹ nhàng đến sâu cay, nhưng vẫn nằm trong phạm vi cảm xúc mĩ học, chứ không phải là hành vi ứng xử cuồng tạp ở ngoài đời”. Văn chính luận dùng tình cảm để đi sâu vào trí tuệ người đọc, thuyết phục và hấp dẫn họ bằng tính logíc của nó. Như vây, cảm hứng trữ tình và chấm biếm là những phương diện rất quan trọng trong việc thể hiện nên phẩm chất thẩm mĩ của văn chính luận.
3. Vấn đề thiết yếu và rõ ràng.
Tác phẩm chính luận thường viết về những vấn đề thiết yếu, quan trọng được nhiều người quan tâm. Cho nên, người viết cần bộc lộ trực tiếp rõ ràng khuynh hướng tư tưởng của mình, nhằm mục đích tuyên truyền đấu tranh. Tuy nhiên, văn chính luận của mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cá nhân tác giả có những nhiệm vụ và tính chất cụ thể của nó: “Toàn bộ những bài chính luận nổi tiếng hùng biện của Đêmôxten thời cổ Hi Lạp là nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh gìn giữ chủ quyền độc lập và thống nhất của Tổ quốc. Thế kỉ IV TCN, các thành bang Hi Lạp có nguy cơ chia rẽ, bị vua Philíp II Maxêđoan lợi dụng và âm mưu thôn tính. Trong giới cầm quyền thì đang lộng hành bởi phái chủ hoa do Iđôcrát Cầm đầu. Một bộ phận nhân dân lại đang bị me hoặc dưới hình thức diễn văn chính trị của Đêmôxten đã luôn luôn vạch trần những âm mưu nham hiểm và tham độc của Philíp Maxêđoan, thức tỉnh lại truyền thống đoàn kết hữu nghị cùng tinh thần chiến đấu và khí phách anh hùng của nhân dân Hi Lạp”3. Tác giả đã phê phán giới cầm quyền chỉ lo hăng say việc bầu bán mà họ không co chút năng lực quản lí và tổ chức. Đồng thời, Đêmôxten đã đưa ra những dự án cải tổ quân đội, tài chính, … để nhằm củng cố lực lượng, chuẩn bị tốt cho cuộc chiến đấu sắp nổ ra.
Hay ở Việt Nam vào năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập, khẳng định trước thế giới chủ quyền độc lập và tự do của đất nước, đồng thời kêu gọi nhân dân cả nước ra sức bảo vệ chủ quyền vừa giành được. Bằng văn chính luận của mình, Người đã góp phần giải quyết trực tiếp một vấn đề quan trọng trong thực tiễn, bộc lộ rõ ràng tính khuynh hướng, tính mục đích và tính chiến đấu: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! … Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững tự do và độc lập ấy”. Như vậy, văn chính luận giữ vai trò thiết yếu đặc biệt trong các cuộc đấu tranh xã hội, trong lịch sử văn hóa của nhân loại nói chung của dân tộc ta nói riêng.
4. Sử dụng rộng rãi các từ ngữ và ngữ liệu chuyên môn.
Từ ngữ, ngữ điệu được sử dụng trong từng ngành khoa học khác nhau, chúng ta không nên thống nhất một kiểu loại nhất định. Trong văn chính luận thì được sử dụng một cách rộng rãi các từ ngữ, ngữ liệu chuyên môn như chính trị, văn nghệ, quân sự, khoa học, lịch sử: Chẳng hạn như chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, dân trí, bình dân học vụ … Về chính trị có các từ: đảng cầm quyền, dân chủ tập trung, chuyên chế vô sản, bầu cử, cơ quan dân cử, cử tri, đại biểu, … Về kinh tế thường thấy các thuật ngữ như sức sản xuất, kinh tế hàng hóa, cạnh tranh, tư liệu sản xuất, vốn cố định, vốn tự có, vốn vay nước ngoài, khu chế xuất, hội đồng quản trị,… Về quân sự có các từ: trang bị, diễn tập, chiến thuật, chiến lược, không quân, hải quân, lính thủy đánh bộ, ... Về văn nghệ thường thấy các từ: phản ánh hiện thực, nhân vật, tình tiết, cốt truyện, chi tiết, … Về văn hóa có: truyền thống, bản sắc dân tộc, tiếp biến, giao lưu, di tích đã xếp hạng, làng văn hóa, … Về khoa học, công nghệ có các từ: công nghệ cao, công nghệ sinh học, tự động hóa, …”. Các từ ngữ chuyên môn dĩ nhiên không được sử dụng nhiều trong khoa học nhưng văn chính luận thì được sử dụng rộng rãi nhằm làm cho các vấn đề xã hội được đi sâu vào các lĩnh vực đời sống.
Trong văn chính luận phải sử dụng từ ngữ chính xác với bản chất của đối tượng mà cũng chính xác trong thái độ đối với đối tượng đó. Chính xác không hề nghèo nàn mà trái lại cũng làm phong phú cho ngon ngữ chính luận từng cung bậc và sắc thái. Bởi vì, văn chính luận trực tiếp hoặc gián tiếp thì ít nhiều đều có yếu tố tranh luận. Để tăng cường sức tác động mạnh mẽ đến công chúng, văn chính luận thường có một ngữ điệu hùng hồn, hấp dẫn, cuốn hút. Ví dụ, trong bài Phát xít Đức đã tắt thở của Trường Chinh: “Đội quân tiên phong của phát xít quốc tế hoàn toàn thất bại. “Trận thập tử” đánh phá Liên Xô và chủ nghĩa bôn sê vích đã tan tành. Thế là cái ảo mộng làm bá chủ hoàn cầu của phe Truc đã tan như mây khói. Ô hô! Nền trật tự mới của bọn đế quốc phát xít, nham hiểm và vô thường! … Binh minh đang trở lại và loài người đau đớn nhưng anh dũng, sắp qua được một đêm kinh hoàng đầy máu lệ và sắt lửa”. Tác giả sử dụng bằng một ngữ điệu hùng hồn dùng để diễn thuyết và cuốn hút người đọc.