Đọc Chí Phèo của Nam Cao, có ý kiến cho rằng: Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, lại có ý kiến khẳng định: Bi kịch của Chí Phèo, hơn thế, còn là bi kịch con người tự từ chối quyền làm người.
Bày tỏ quan điểm cá nhân về bi kịch của nhân vật Chí Phèo.
1. Giải thích:
– Bi kịch: nghĩa gốc, bi kịch là thể của loại hình kịch thường được coi như là đối lập với hài kịch. Từ nghĩa gốc trên, bi kịch còn dùng để chỉ một tình cảnh, một số phận éo le, trắc trở, đau thương. Khái niệm bi kịch được nói đến ở đây là hiểu theo nghĩa thứ hai này.
– Bi kịch bị cử tuyệt quyền làm người: con người khao khát sống, khao khát “làm hòa” với mọi người, khao khát hạnh phúc nhưng bị xã hội và giai cấp thống trị cản trở, xô đẩy vào con đường cùng không lối thoát.
– Bi kịch con người tự từ chối quyền làm người: con người khao khát sống, khao khát “làm hòa” với mọi người, khao khát hạnh phúc nhưng không đủ bản lĩnh, không đủ dũng khí khẳng định mình, vượt lên những định kiến của cộng đồng, cuối cùng rơi vào tuyệt vọng thậm chí rơi vào cái chết.
2. Bàn luận:
a. Bi kịch Chí Phèo là bi kịch bị cử tuyệt quyền làm người.
– Đây là quan niệm có tính truyền thống được nhiều người chấp nhận.
– Xã hội thực dân phong kiến tiếp tay cho bọn cường hào ác bá (Bá Kiến) đã đẩy Chí Phèo vào con đường tha hóa, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại
– Xã hội ấy đã từ chối, cử tuyệt quyền làm người của Chí Phèo ngay cả khi Chí Phèo mong mỏi, khao khát được làm người lương thiện nhất
⇒ Xã hội thực dân phong kiến à bọn cường hào ác bá ở làng Vũ Đại không thể “vô can” trong việc đẩy Chí Phèo đến chỗ bi kịch, đến với cái chết.
b. “Bi kịch Chí Phèo, hơn thế, còn là bi kịch con người tự từ chối quyền làm người.
– Đây là ý kiến mới mẻ, có phần táo bạo khi nhìn nhận đánh giá về bi kịch số phận nhân vật Chí Phèo
– Ý kiến trên xuất phát từ dặc điểm phong cách thời đại . Thời đại Nam Cao, ý thức về con người cá nhân có điều kiện phát triển. Nam Cao thể hiện tinh thần thời đại đó bằng cách chỉ ra rằng; nếu qus lệ thuộc vào cộng đồng, con người sẽ tự thủ tiêu mình; và nếu cộng đồng can thiệp quá sâu vào đời sống cá nhân, nó sẽ hủy diệt cá nhân đó.
– Ý kiến trên xuất phát từ số phận nhân vật Chí Phèo:
+ Số phận cô độc và nỗi sợ cô đơn
+ Cái chết của Chí Phèo và sự đuối về ý thức cá nhân
⇒ Ý kiến trên quả có cái nhìn sâu sắc về tấn bi kịch của người nông dân Chí Phèo. Rõ ràng Chí phải chịu trách nhiệm về bản thân.
– Hoàn toàn đổ lỗi cho Chí Phèo là chỉ coi trọng nguyên nhân chủ quan, còn đổ tội cho xã hội lại là coi trọng nguyên nhân khách quan. Trong khi đó, nguyên nhân dẫn đến bi kịch và cái chết của Chí, bao gồm cả chủ quan và khách quan, chỉ coi trọng một mặt nào đó cũng là phiến diện.
3. Mở rộng:
– Viết về bi kịch người nông dân Chí Phèo, Nam Cao muốn đưa đến người đọc thông điệp; mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình, mỗi người phải tự ý thức về cá nhân của mình. Điều đó thể hiện một quan niệm đấy đủ hơn, toàn diện hơn về con người, về giá trị của sự sống. Đó là những nhân tố mới mẻ, độc đáo trong chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao.
Tham khảo:
- Mở bài:
Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: “Khi chị Dậu, anh Pha xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, người ta cứ nghĩ nỗi khổ của người nông dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đến như thế là cùng. Nhưng khi Chí Phèo khật khưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, người ta liền mới nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục nhất”. Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán cả dòng sữa ngọt ngào của đời mình nhưng dầu sao chị vẫn được gọi là người. Còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Và khi ý thức nhân phẩm được trở về thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương. Tấn bi kịch thê thảm và độc đáo của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên được Nam Cao diễn tả thấm thía và cảm động là ở chỗ đó.
- Thân bài:
Bi kịch bị cử tuyệt quyền làm người.
Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn, lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau đớn. cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ. mà hiện lên một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách. Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và một kết thúc bi thảm đắng cay.
“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.
Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ. của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy thống trị bạo tàn. Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung và mãnh liệt hơn cả.
Lai lịch của Chí Phèo là một số không tròn trĩnh. Hắn là một thằng không cha, không mẹ, không bà con thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi mới sinh ra, hắn đã bị vứt bên cái lò gạch cũ bỏ không. Hắn được một người thả ống lươn mang về nuôi, sau đó cho người đàn bà goá mù. Và người đàn bà goá mù bán cho bác Phó Cối. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ vơ đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ. Đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ kiêm cường hào khét tiếng độc ác, gian hùng. Tuy phải làm thân trâu ngựa, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhưng đã có một thời Chí Phèo là người nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn.
Nhưng quãng đời lương thiện của Chí Phèo đã bị chấm dứt nhanh chóng bởi bàn tay độc ác của giai cấp thống trị. Chỉ vì một cớ ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào phong kiến để giết chết phần người trong Chí Phèo. Từ làng Vũ Đại vào tù, Chí Phèo là một con người; ở tù ra, về làng Vũ Đại, Chí Phèo là một con quỷ. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về, Chí Phèo xuất hiện trước mắt dân làng với một bộ dạng rất kì quái: “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, hai con mắt gườm gườm trông gớm chết. Nhìn mặt hắn người ta nghĩ là mặt của một con vật lạ”.
Nam Cao vốn là một nhà văn chú trọng đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật hơn là chú trọng vẻ bề ngoại, rất ít khi ông tả ngoại hình nhân vật kĩ lưỡng như tả Chí Phèo lúc này. Bởi một khi đã trở thành quỷ dữ, Chí Phèo không thể mang khuôn mặt khoẻ mạnh và lành như đất của anh Chí ngày nào. Quá trình tha hoá, lưu manh hoá của hắn là quá trình diễn ra trên cả hai phương diện: ngoại hình và tính cách, nhân hình và nhân tính. Trên đường đến nhà Bá Kiến, tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi bới, nguyền rủa nhưng dường như đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo là ý thức mơ hồ về bi kịch về cuộc đời mình, là nỗi căm phẫn vật vã, tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Mà tội nghiệp thay, khát khao được giao tiếp của Chí đơn giản chỉ là có được một tiếng người chửi lại hắn. Làng Vũ Đại để mặc hắn trong sự im lặng đáng sợ. Trong nỗi cô đơn, đáp lại hắn hoạ may chỉ có mấy con chó. Thành ra Chí Phèo cũng chỉ là một con vật sống giữa sự lạnh nhạt của xã hội loài người.
Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (ăn thịt người không biết tanh), Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Bởi càng hiền lành, nhẫn nhục thì càng bị nhấn xuống bùn. Muốn sống phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế phải liều lĩnh, mạnh mẽ, những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Cho nên, cuộc đời Chí Phèo giờ đây được tính bằng những cơn say, những tội ác. Đó là một cuộc đời sống vô thức, một công cụ tội ác trong tay bọn thống trị… “Hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì người ta sai hắn làm… Hắn tác oai tác quái cho bao nhiêu dân lành, phá bỏ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người dân lương thiện”. Mọi hành động, tội ác của Chí Phèo là sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của người nông dân lương thiện bị dồn tới bước đường cùng. Nhưng tính chất tha hoá, lưu manh của Chí Phèo đã làm cho những phản ứng đó trở nên mất phương hướng, tiêu cực, rất nguy hiểm, dễ bị kẻ thù mua chuộc, lợi dụng. Càng ngày, Chí Phèo càng rơi sâu vào vực thẳm của đau thương và tội lỗi, trượt dài trên con đường tha hoá, lưu manh không lối thoát. Hắn lâm vào một tấn bi kịch đầy nghịch lí: vừa là nạn nhân đau thương của giai cấp thống trị, vừa là con quỷ dữ đối với dân làng Vũ Đại. Mọi người đều sợ và tránh mặt Chí Phèo mỗi lần hắn đi qua.
Như vậy, đẻ ra người nông dân lương thiện là một bà mẹ hiền lành, tội nghiệp nào đó lén lút vứt đứa con vào một cái lò gạch bỏ không. Nhưng đẻ ra một thằng Chí Phèo lưu manh, tha hoá bị đầy đoạ, lăng nhục, bị cướp cả nhân tính và nhân hình, bị đối xử như một con vật là toàn bộ xã hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, vô nhân đạo thời bấy giờ.
Bi kịch con người tự từ chối quyền làm người.
Nhưng bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó. Chí Phèo còn lâm vào một tấn bi kịch đau đớn hơn: bi kịch con người tự từ chối quyền làm người. Giữa bóng tối mênh mông của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Được sự săn sóc giản dị bằng tình yêu thương mộc mạc, chân thành không tính toán của người đàn bà khốn khổ là Thị Nở, bản chất người nông dân lao động lương thiện trong Chí Phèo đã thức dậy. Nam Cao đã giành cho Chí Phèo những trang văn xuôi cảm động đầy chất thơ để miêu tả tình yêu và qúa trình thức tỉnh chất người trong hắn. Lần đầu tiên tỉnh dậy sau những cơn say vô tận, Chí Phèo lắng nghe từng âm thanh náo nức của cuộc sống vang động vào tâm hồn mình: những âm thanh quen thuộc như tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo anh thuyền chài đuổi cá trên sông, tiếng chuyện trò của mấy người đàn bà đi chợ về…
Đó là âm thanh cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày nào cũng diễn ra nhưng chỉ hôm nay Chí Phèo mới nghe thấy. Bởi sau một thời gian dài, Chí Phèo bị xã hội thực dân phong kiến với bọn cường hào độc ác, nhà tù tàn bạo làm cho mù điếc tâm hồn. Giờ đây tâm hồn hắn đã được Thị Nở với bát cháo hành chứa đựng bên trong hương vị của tình yêu chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía làm cho sáng tỏ. Lần đầu tiên hắn biết buồn vì sự cô độc; cũng là lần đầu tiên hắn biết nhớ, biết hồi tưởng về quá khứ với ước mơ một gia đình hạnh phúc, yên vui, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa như một tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối triền miên của Chí Phèo. Nó giúp Chí Phèo nhận ra tình trạng bi đát và tuyệt vọng của số phận mình:
“Nhìn phía trước người thân chẳng có
Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”
Tình yêu thương đã thức tỉnh con người, khơi dậy trong hắn nỗi khát khao lương thiện. Chí Phèo rưng rưng cảm động. Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người biết bao, nghĩa là hắn vô cùng tha thiết muốn kết nạp trở lại cái xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Thị Nở là cái cầu đưa Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện và câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: được kết nạp trở lại xã hội loài người hay vĩnh viễn bị đầy đoạ trong kiếp sống thù hận. Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì lại bị đóng sầm ngay lại vì bà cô của Thị không cho Thị đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng trách gì bà cô – bà cô là hiện thân của thành kiến, định kiến bất công, vô nhân đạo của làng Vũ Đại, của xã hội cũ. Lâu nay, mọi người trong làng quen coi hắn là quỷ dữ mất rồi! Chí Phèo đã sống những giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời trong tình yêu, lại rơi vào những giây phút đau đớn nhất của tấn bi kịch tinh thần. Rượu không thể làm hắn say… “hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành” – cái hương vị của tình người, tình thương yêu mà Chí không thể quên được dù chỉ nếm trải trong một lần ngắn ngủi; hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo là sự thể hiện cao nhất đỉnh điểm của nỗi đau đớn khi nhận ra mình đã bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo lại uống rượu và xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo trở thành người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất làng Vũ Đại, hắn hiểu ra, thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả hình người và hồn người của mình là Bá Kiến. Chí Phèo lần này quyết đến để trả thù. Đứng trước Bá Kiến, Chí Phèo đã chỉ tay vào mặt lão và dõng dạc đòi quyền làm người, đòi được làm lương thiện. Chí Phèo đã vung dao lên giết chết Bá Kiến. Giết xong Bá Kiến, Chí Phèo quay lại tự giết mình. Chí Phèo chết vì không tìm được lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống. Ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa nên đã tìm đến cái chết. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống và cái chết của Chí cũng là một cái chết thê thảm của một con vật. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc và mãnh liệt.
Trước đây để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây ý thức nhân phẩm đã trở về thì Chí Phèo lại phải thù tiêu cuộc sống của mình. Gấp trang sách lại ta còn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là một câu hỏi chứa chất phẫn uất đau đớn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc: làm thế nào để cho con người được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi của Chí Phèo là “Một câu hỏi lớn. Không lời đáp” thật ai oán, tuyệt vọng! Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.
- Kết bài:
Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở nông thôn nước ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá. Sáng tạo ra nhân vật Chí phèo với gương mặt không tuổi, chằng chịt đầy vết sẹo và với tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt quyền làm người,Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, ở một góc độ mới về nông dân: cái nhìn vào cõi tinh thần, vào chiều sâu bi kịch. Viết những trang văn đau đớn thấm đẫm nước mắt về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã cắm cho mình một cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn của văn học hiện thực và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX.
Phân tích con đường hóa và quá trình hồi sinh của nhân vật Chí Phèo.