Dàn bài phân tích đoạn trích ĐẤT NƯỚC (trích chương V, trường ca “MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG”) (Nguyễn Khoa Điềm).

Dàn bài phân tích đoạn trích ĐẤT NƯỚC (trích chương V, trường ca “MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG”) (Nguyễn Khoa Điềm)

  • Mở bài:

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ cứu nước (Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh,…). Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và cảm hứng lắng đọng, thực hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu.

– Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971 (in lần đầu năm 1974) trong không khí sôi sục của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của thế hệ trẻ các đô thị miền Nam nhận rõ bộ mặt xâm lược của kẻ thù, hướng về đất nước, nhân dân, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh thiêng liêng để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.

– Đoạn trích Đất nước nằm ở phần đầu của chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Đoạn trích hoàn toàn thống nhất trong chỉnh thể – đoạn trích trả lời cho bốn câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ?; Đất nước là gì?; Đất nước là của ai, do ai làm nê? Từ ba câu hỏi trên, tác giả đi đến giải đáp câu hỏi: Mỗi người phải làm gì cho đất nước?

  • Thân bài:

1. Những cảm nhận chung về đất nước.

a. Đất nước bắt nguồn từ những gì gần gũi, giản dị, thiêng liêng trong đời sống tâm hồn của mỗi con người:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…” 

– Đoạn thơ mở đầu với lời thơ rất giản dị tự nhiên, âm hưởng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, đưa người đọc vào cội nguồn của đất nước. Nhà thơ cảm nhận đất nước trên nhiều bình diện, trong sự gắn bó với mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Điều đó thể hiện ở phần đầu của đoạn trích, từ “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” đến “Làm nên Đất Nước muôn đời”.

– Đất nước không chung chung, trừu tượng mà hết sức gần gũi, thân thiết với ta trong cuộc sống hằng ngày, trong mỗi gia đình. Đất nước bắt nguồn từ những câu truyện, truyền thuyết, cổ tích rất gần gũi và thân quen: câu chuyện Trầu cau với tình người nồng hậu thủy chung, truyền thuyết Thánh Gióng như khúc anh hùng ca biểu tượng cho sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam thuở bình minh dựng nước và giữ nước,…

– Đất nước không phải là hình người khổng lồ xa lạ hay một khái niệm trừu tượng chung chung, mà đất nước là những gì giản dị, gần gũi, thân thương trong cuộc sống của mỗi con người. Nó nhắc chúng ta nhớ về truyền thống đạo lí nghĩa tình và lòng yêu nước của người Việt Nam.

– Đất nước gắn với những nếp sống văn hóa của người Việt Nam (tập tục) như bới tóc sau đầu, ăn trầu, đặt tên người, tên vật,… rồi đến cả tình yêu của cha mẹ: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Đây là những phong tục gắn bó rất gần gũi thân thương với tâm hồn của mỗi người Việt Nam. Và từ những phong tục tập quán xa xưa như không có tên tuổi ấy đã làm nên một khuôn mặt đất nước, đã tạo ra được sự bền vững sâu xa. Bởi nó được hình thành và tồn tại trong sự tiếp nối thiêng liêng của nhiều thế hệ.

– Sự cảm nhận của tác giả đem đến một ý niệm về đất nước hết sức gần gũi, bình dị mà cũng hết sức sâu xa, thiêng liêng (trong những cái bình dị có cả chiều sâu văn hoá, lịch sử).

b. Đất nước gắn với những kỉ niệm riêng tư của mỗi con người:

Tác giả đã lí giải, đưa ra một định nghĩa về đất nước:

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

– Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước. Tác giả đã sử dụng lối chiết tự thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước: Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng, dịu hiền.

– Cùng với thời gian lớn lên, đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn là người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu.

→ Tất cả đều bình dị, cụ thể, gần gũi đáng yêu với anh, với em, với mỗi chàng trai cô gái. Nó thấm vào hồn của mỗi con người Việt Nam.

c. Đất nước trên bình diện địa lí, lịch sử.

– Bình diện địa lí – đất nước gắn với núi sông rừng bể bao la:

“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”.

– Đất nước trường tồn trong “không gian mênh mông”. Không gian đất nước là không gian sinh tồn của cả cộng đồng, của bao thế hệ (nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”, nơi “dân mình đoàn tụ”, nơi “Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”). Không gian đất nước còn là không gian sinh tồn của mỗi cá nhân, rất gần gũi với mỗi con người: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm/ Đất Nước là nơi ta hò hẹn…”.

– Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc và hình ảnh con cá ngư ông móng nước biển khơi đều là những hình ảnh mượn từ dân ca Huế, quê hương của nhà thơ. Đất nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi lúc cũng rộng lớn, tráng lệ và kì vĩ, nhất là đối với những người đi xa.

→ Đất nước hiện lên qua một không gian rộng lớn mênh mông, thời gian vô tận, kết hợp với hình ảnh thơ đậm chất dân gian, làm cho hình ảnh thơ khi nói về bình diện địa lí không xa lạ, thô cứng mà gần gũi thiêng liêng, để từ đó tác giả tiếp tục triển khai mạch cảm xúc.

– Đất nước còn gắn với bình diện lịch sử của dân tộc. Đất nước trường tồn trong “thời gian đằng đẵng”. Chiều dài của lịch sử đất nước được kể từ huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” đến truyền thuyết các vua Hùng và ngày giỗ Tổ. Cách nói về lịch sử đất nước bằng những huyền thoại, huyền tích có tác dụng: lịch sử đất nước thêm dài về năm tháng, có từ xa xưa, nhưng lại hết sức gần gũi, quen thuộc với mỗi người.

– Tác giả nói đến nguồn gốc, cội nguồn của đất nước (từ truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên) nhằm nhắc nhở người Việt Nam về nguồn gốc cao quý của mình, đồng thời khơi gợi sự đoàn kết nhất biết sống đoàn kết với nhau để tạo nên một gương mặt đất  nước vẹn tròn to lớn, một đất nước tình nghĩa thủy chung. Đất nước ấy sẽ trưởng thành, lớn mạnh không ngừng.

– Đất nước trường tồn trong chiều sâu văn hoá. Chiều sâu văn hoá của đất nước được cảm nhận từ truyền thống tinh thần, những phong tục tập quán gắn với mỗi cá nhân và cả cộng đồng (phong tục ăn trầu của bà, phong tục bới tóc sau đầu của mẹ). Văn hoá của đất nước cũng hết sức gần gũi, quen thuộc, thân thiết, bình dị mà thiêng liêng.

→ Đây là một quan niệm về đất nước thật là gần gũi và thân thiết. Với cách nhìn mới mẻ ấy, nhà thơ đã giúp chúng ta thấy được sự gắn bó máu thịt với số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước.

– Tiếp theo, nhà thơ xác định ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

– Đất nước có trong mỗi người, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với đất nước. Đất nước không chỉ là cái khách thể ở bên ngoài con người mà đất nước còn kết tinh trong sự sống, trong máu thịt mỗi con người: “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước, Đất Nước là máu xương của mình”... Mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất Nước muôn đời…”.

– Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong mỗi con người. Lời thơ trở thành một lời tâm sự da diết tâm tình, một loạt câu thơ có tính chất như một mệnh đề với những cụm từ phải biết, nhưng lại giống như một lời tự dặn mình một cách chân thành về trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng chung của dân tộc, của đất nước.

→ Tóm lại, lời thơ đậm chất dân gian, giọng thơ khi thì tự nhiên sâu lắng, khi thì đậm chất triết luận, tác giả đã thể hiện những cảm nhận sâu sắc của mình về đất nước trên nhiều bình diện khác nhau. Từ đó, đoạn thơ giúp người đọc thêm yêu quý, tự hào về nguồn gốc của dân tộc, của đất nước.

2. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.

a. Đất nước do nhân dân sáng tạo nên.

– Đất nước là những địa danh, những danh lam thắng cảnh kì thú: núi Bút non Nghiên, hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm,... Đó là những danh lam thắng cảnh tươi đẹp, mỗi địa danh không phải là một cái tên vô nghĩa mà sau mỗi tên đất, tên núi, tên sông là mỗi cuộc đời, gắn với những kì tích, huyền thoại.

– Tất cả những dáng hình núi sông trên đất nước ta đều do nhân dân làm ra. Tác giả đã thể hiện tư tưởng này qua động từ góp. Mọi người đều góp phần xây dựng đất nước. Chủ thể của động từ là: những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa Thánh Gióng, người học trò nghèo và cả những người dân thường không tên tuổi,… Chính những con người này đã làm ra một đất nước nhân hậu, thủy chung, anh hùng bất khuất và giàu truyền thống hiếu học.

– Mỗi địa danh ấy là cuộc đời, là tâm hồn nhân dân hóa thân mà thành. Chính vì vậy, nhân dân chính là những người thổi hồn mình vào đất nước, vào những địa danh, những danh lam thắng cảnh kì thú. Thế nên đất nước chứa đựng linh hồn của nhân dân, trong đất nước đã in bóng hình của nhân dân và trong nhân dân có bóng hình đất nước.

– Địa danh cũng chính là dấu ấn sinh tồn của dân tộc. Lần theo những địa danh, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo dựng lại được cả diện mạo non sông đất nước:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

– Một đất nước chỉ có lãnh thổ không thôi thì chưa đủ, nó còn phải có lịch sử. Lịch sử của một dân tộc chính là sự sống của dân tộc ấy trong chiều dài thời gian. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về bốn nghìn năm lịch sử.

b. Đất nước do nhân dân chiến đấu và bảo vệ.

– Những con người làm nên đất nước chính là những con người góp phần bảo vệ đất nước. Họ là những con người bình dị vô danh; họ là những con người lao động cần cù chăm chỉ nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm thì chính họ đã trở thành những anh hùng cứu nước:

“Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

+ Khi có giặc người con trai ra trận – Người con gái trở về nuôi cái cùng con: cùng nhau chung sức, chung lòng để đánh giặc cứu nước.  Khi cần thì giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.

→ Nhà thơ đã khẳng định truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống được phát huy từ đời này sang đời khác.

– Khi nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước, khi suy ngẫm về sự hình thành đất nước trong chiều dài lịch sử, dường như nhà thơ cũng chẳng biết đất nước có tự bao giờ. Nhưng nhà thơ cảm nhận cụ thể đất nước không chỉ có những triều đại nổi tiếng, những anh hùng có tên được lưu truyền sử sách, mà làm nên đất nước muôn đời ấy chính là do những con người bình dị, những người dân vô danh. Họ có thể là những người vợ nhớ chồng, những cặp vợ chồng yêu nhau, những cậu học trò nghèo, ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm,… Họ là những người con gái, con trai, bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi, sống và chết giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm ra đất nước.

c. Đất nước do nhân dân giữ gìn và lưu truyền cho các thế hệ người Việt những giá trị văn hóa vật chất cũng như tinh thần to lớn.

– Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử, không ai nhớ mặt, nhớ tên những người anh hùng vô danh. Nhưng chính họ đã làm nên, lưu giữ và truyền lại cho chúng ta những gì họ có:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập, be bờ cho người sau trồng cây hái trái”

– Bốn nghìn lớp người ấy đã làm nên tất cả: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người, đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên làng, tên xã. Họ đã truyền lại tất cả, để đất nước này mãi là đất nước của nhân dân. Đất nước và nhân dân hòa vào nhau tạo nên một đất nước vừa thực lại vừa linh thiêng. Một đất nước địa linh nhân kiệt. Đây là một tư tưởng hết sức mới mẻ, khẳng định vai trò của nhân dân với đất nước. Biết bao thế hệ người dân ta từ già trẻ trai gái đã ngã xuống, máu của họ đã tạo thành sông suối, xương của họ tạo nên dáng núi và tâm hồn họ là hồn thiêng sống núi. Họ là người làm ra đất nước.

– Đây là một cuộc chạy đua tiếp sức không biết mệt mỏi của bao thế hệ người Việt Nam. Cái mà họ truyền cho nhau, tiếp sức cho nhau đó là ngọn đuốc sự sống của dân tộc Việt Nam (ngọn lửa: chỉ sức sống bền bỉ, dẻo dai của dân tộc ta). Mỗi thế hệ chạy một quãng đường và trao lại cho thế hệ kế tiếp. Cứ như thế, đất nước được hình thành và phát triển bởi vô số những con người vô danh.

d. Đất nước của nhân dân cũng chính là đất nước của “ca dao thần thoại”.

– Mạch cảm xúc, suy tưởng của đoạn thơ cứ tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

+ Tác giả nói Đất Nước của ca dao thần thoại cũng chính là nói đến Đất Nước của nhân dân, như để nhấn mạnh, khắc sâu nguồn gốc nhân dân, cội nguồn của đất nước. Nhân dân – những con người giản dị, vô danh cũng chính là những người sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước. Một trong những giá trị văn hóa
đặc sắc, kết tinh tư tưởng và tâm hồn của nhân dân, dân tộc chính là văn hóa, văn học dân gian.

+ Tác giả đã khái quát: Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Câu thơ với hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về đất nước thật giản dị mà độc đáo: đất nước được tạo nên bởi sức mạnh và tình nghĩa của nhân dân, đất nước là của nhân dân, muốn hiểu đất nước phải hiểu nhân dân và vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của nhân dân hơn đâu hết có thể tìm thấy trong văn hóa tinh thần của nhân dân: đó là văn hóa dân gian, là truyện thần thoại, truyện cổ tích, là dân ca, ca dao,…

→ Ở đây tác giả đã dùng đất nước dân gian từ xa xưa mà không dùng một đất nước hiện đại của ngày hôm nay. Bởi vì, dân gian chính là dân tộc, lại là cái phần tiêu biểu, đậm đà nhất, dễ cảm thấy và cũng rất dễ nhận ra nhất của dân tộc, cũng là của đất nước mình. Hình ảnh một đất nước dân gian thơ mộng, trữ tình từ xa xưa vọng về sẽ trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người nên dễ cảm, dễ hiểu, dễ nhận ra tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.

3. Nghệ thuật biểu hiện.

– Tác giả đã cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện. Đoạn trích như một tùy bút thơ: vừa theo mạch cảm xúc thơ, tác giả vừa huy động vào thơ cả một kho tri thức phong phú mang tính tổng hợp về văn hóa dân tộc (trong đó có văn học dân gian), về phong tục tập quán, địa lí, lịch sử,…

– Thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên. – Giọng điệu và ngôn ngữ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự đằm thắm, đôn hậu của con người xứ Huế với sự sắc sảo, trí tuệ của một người có trình độ văn hóa cao.

– Sử dụng nhuần nhị và sáng tạo nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian vào câu thơ hiện đại tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ cho đoạn thơ:

+ Nhiều câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm được tạo dựng từ chất liệu dân gian: văn hoá dân gian như phong tục, tập quán; văn học dân gian như truyền thuyết, truyện cổ tích, tục ngữ, ca dao (Dẫn chứng và phân tích những câu thơ lấy ý thơ, hình ảnh, lời thơ từ văn học dân gian).

+ Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, thơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn
trích này.

+ Sự vận dụng các chất liệu dân gian không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật mà còn thể hiện sâu sắc sự thấm nhuần tư tưởng đất nước của nhân dân: nói về đất nước của nhân dân thì sử dụng ngay những sáng tạo của nhân dân, sử dụng lời ăn, tiếng nói của nhân dân.

+ Ngoài chất dân gian thì đoạn trích còn có chất hiện đại. Điều đó được thể hiện ở các yếu tố suy tưởng, triết lí và ở thể thơ tự do với những câu thơ co duỗi linh hoạt, thay đổi nhịp điệu và rất ít dựa vào vần để liên kết.

– Tác giả tạo ra một không khí, giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng đưa ta vào thế giới gần gũi, mĩ lệ và bay bổng của ca dao, truyền thuyết, của văn hóa dân gian nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và tư duy hiện đại với hình thức của thơ tự do.

4. Chất chính luận và chất trữ tình trong đoạn trích.

– Giọng thơ trữ tình – chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người.

+ Chất chính luận nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ thành thị miền Nam, để dứt khoát trong sự lựa chọn đứng về phía nhân dân và cách mạng. Kết cấu đoạn trích được xây dựng theo cách lập luận, như để trả lời cho hai câu hỏi: “Đất nước là gì?” (phần đầu của đoạn trích), “Đất nước do ai sáng tạo ra?” (phần hai của đoạn trích).  Nhiều câu thơ mang tính chất khẳng định như những chân lí: “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân/ Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”…

+ Những suy tưởng, những phát hiện mới về những điều gần gũi, quen thuộc (những truyền thuyết, truyện cổ tích, câu ca dao, địa danh, thắng cảnh quen thuộc, gần gũi lại chứa đựng những suy tưởng, những phát hiện mới về đất nước trong sự gắn bó với nhân dân).

+ Chất trữ tình không chỉ được biểu hiện ở những câu thơ bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của chủ thể mà còn thấm vào trong cái nhìn, trong thái độ trân trọng, yêu quý với mỗi hình ảnh, chi tiết về đất nước gắn liền với nhân dân được miêu tả, gợi ra trong đoạn trích.

5. Mạch phát triển tư tưởng và cảm xúc về đất nước.

– Cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt đoạn trích là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, do nhân dân làm nên. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hóa và văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại làm tăng thêm sức hấp dẫn của đoạn thơ.

– Giữa hai phần của đoạn trích không có sự tách biệt rành mạch về nội dung. Ở phần nào cũng đều thể hiện sự cảm nhận về đất nước trong tính toàn vẹn, nhiều mặt:

– Ở phần đầu, đất nước được cảm nhận từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hàng ngày, rồi mở rộng ra với “thời gian đằng đẵng / Không gian mênh mông” trong truyền thuyết về thời dựng nước. Cuối cùng, cảm nhận về đất nước lại hướng vào sự phát hiện về đất nước ở trong mỗi con người.

– Ở phần cuối, cảm nhận về đất nước cũng được mở ra theo các bình diện không gian địa lí, thời gian lịch sử, chiều sâu văn hóa và tâm hồn dân tộc. Nhưng tất cả các bình diện ấy đều được nhìn nhận và phát hiện từ một tư tưởng nhất quán, bao trùm: Đất Nước của Nhân dân, chính nhân dân đã làm nên đất nước.

  • Kết bài:

– Đoạn trích Đất nước thể hiện cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện như lịch sử, địa lí, văn hóa,…  Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.

– Đóng góp mới mẻ của nhà thơ là cách nhìn đất nước trong sự kết tinh và hội tụ của nó trên nhiều bình diện: đó là Đất Nước của Nhân dân, do nhân dân làm ra; đất nước trường tồn, bất diệt cùng nhân dân.

Dàn bài tham khảo:

  • Mở bài:

– ​Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp sẽ vượt qua quy luật “băng hoại” của thời gian. Trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm như thế.

– Đến với đoạn trích “Đất Nước”, người đọc sẽ thấy những cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hoá, … Đất Nước là của nhân dân, do nhân dân tạo nên. Điều đó được thể sâu sắc qua những câu thơ sau:

“Em ơi em
…….
Họ đã làm ra Đất Nước”

  • Thân bài:

Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành 1971, tại chiến khu Trị – Thiên, in lần đầu năm 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.

– Tác phẩm gồm 9 chương. Đất nước là phần đầu chương 5 trong bản trường ca này. Trong đoạn trích, những khái niệm trừu tượng, những tiêu chí thiêng liêng về Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể, bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân.

– Đoạn trích có hai phần, đoạn thơ trên là những câu giữa của phần II. Toàn bộ đoạn thơ là những suy tư, chiêm nghiệm của tác giả về những đóng góp lớn lao của nhân dân trong 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

3 câu thơ đầu thể hiện niềm tự hào về lịch sử đất nước:

– ​Nếu các cây bút văn xuôi tự sự thường thể hiện tình cảm, cảm xúc gián tiếp qua nhân vật, cốt truyện thì thơ lại tác động đến người đọc trực tiếp thông qua hệ thống ngôn từ, hình ảnh, thấm đẫm tình cảm, cảm xúc. Cảm xúc của nhà thơ càng nồng nàn mãnh liệt, càng chân thành thì tiếng nói của nhà thơ tác động đến độc giả càng thấm thía, sâu sắc:

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước”

– Nhà thơ mở đầu đoạn thơ bằng tiếng gọi tha thiết: “Em ơi em”. Câu thơ toàn vần bằng, âm điệu thơ kéo dài, vang xa, tha thiết. Dây là lần thứ hai trong toan bộ trích đoạn nhà thơ sử dụng điệp khúc này. Cách gọi ấy đã tạo giọng điệu thủ thỉ, tâm tình. Khiến đoạn thơ trở thành lời tâm sự ngọt ngào của anh và em về lịch sử của Đất Nước.

“Anh”“em” bên nhau không phải để nói chuyện riêng, chuyện tình yêu, nỗi nhớ, … mà họ nhắn nhủ, nhắc nhở nhau cùng nhìn lại “bốn nghìn năm lịch sử” của dân tộc để nhận thức đúng hơn về vai trò của nhân dân.

– Hơn nữa, kết cấu câu thơ đặc biệt: dung lượng câu thơ sau dài hơn so với câu trước như đẩy người đọc dần trở về quá khứ xa xưa của dân tộc.

Từ đây, Đất Nước được cảm nhận ở bình diện thứ 2: trong chiều dài của thời gian lịch sử với những phát hiện, suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ.

8 câu thơ tiếp theo khẳng định nhân dân đã dựng xây và bảo vệ Đất Nước:

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”.

– Điệp: “người người lớp lớp”, “con gái”, “con trai” đã tạo nhịp điệu hào hùng cho câu thơ và khiến cho hình ảnh nhân dân hiện lên đông đảo.

+ Mỗi lớp người là một thế hệ, 4000 lớp người là 4000 thế hệ với vô vàn những người “con gái”, “con trai”.

+ Tất cả đều đã từng “bằng tuổi chúng ta”, bằng tuổi “anh”“em” đều trẻ trung, đều cần cù dũng cảm và mang trong mình nhiệt huyết của tuổi thanh xuân.

+ Thời bình họ chăm chỉ lao động, thời chiến người con trai ra trận để bảo vệ đất nước, người con gái ở nhà chăm sóc mẹ già, con thơ. Họ vừa đảm nhiệm gánh nặng ruộng vườn vừa đảm đang trong công việc gia đình, trở thành hậu phương vững chắc cho chồng yên tâm nơi chiến trận.

– Bên cạnh đó, tác giả còn vận dụng thành công câu nói dân gian: “giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”. Câu nói đã gợi ra được không khí sục sôi khi nhân dân ta chiến đấu oanh liệt để bảo vệ dân tộc. Thật hiếm có dân tộc nào mà tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc lại sục sôi không chỉ ở đấng nam nhi đại trượng phu mà ở cả những người phụ nữ chân yếu tay mềm. Như vậy, lịch sử hào hùng của dân tộc có sự góp công, góp sức của tất cả nhân dân trong đó không thể thiếu vai trò của người phụ nữ Việt Nam.

– Đặc biệt, tác giả không sử dụng một danh từ riêng nào khi nói về lịch sử. Cả đoạn thơ không có một cái tên riêng, chỉ có “con gái”, “con trai”, “họ”, không có một triều đại hoàng kim, cũng không nhắc đến những người anh hùng dù “cả anh và em đều nhớ”. Phải chăng vì các triều đại, anh hùng lẫy lừng tên tuổi đã được Tổ quốc lưu danh trong sử sách, được lòng dân muôn đời nhớ ơn, thờ phụng. Mà dù sao, con số các triều đại, các anh hùng cũng là hữu hạn còn đóng góp của nhân dân của biết bao thế hệ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì vô danh, vô hạn, thầm lặng, lớn lao.

→ Như vậy, khi nhìn về lịch sử “bốn nghìn năm” của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc tới các triều đại phọng kiến như Nguyễn Trãi:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

Nguyễn Khoa Điềm cũng không nhắc tới những vĩ nhân nổi tiếng như Chế Lan Viên:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…
Ông nhắc tới những người dân bình dị, vô danh”.

– Lập luận đòn bẩy: Trong số những người dân vô danh ấy, nhiều người đã trở thành anh hùng được lưu danh sử sách như: bà Trưng, bà Triệu, chị Út Tịch, Nguyễn Văn Trỗi, chị Võ Thị Sáu, … những người anh hùng này cả anh và em đều nhớ, nhưng dụng ý của nhà thơ là không nhắc tới những người anh hùng nổi tiếng trong lịch sử mà nhắc tơi những con người vô danh, bình dị đã âm thầm lăng lẽ hiến dâng từ mồ hôi, xương máu đến cả tuổi thanh xuân và hạnh phúc lứa đôi để “làm nên Đất Nước”.

7 câu cuối: khẳng định công lao của nhân dân. Nhà thơ đã ngợi ca, tập trung khắc hoạ chân dung một tập thể anh hùng vô danh:

“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.

– Chữ “nhưng” ở đầu đoạn thơ có vai trò liên kết ý thơ, nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân, những con người không dược lưu danh sử sách, bia đá, bảng vàng.

– “Họ” được điệp lại hai lần chỉ bao người “con gái”, “con trai” trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi. Bốn nghìn lớp người là bốn nghìn thế hệ. Mỗi thế hệ là vô vàn những người “con gái”, “con trai”, họ là những người dân vô danh không ai “nhớ mặt đặt tên” nhưng họ có công làm nên đất nước và họ chính là những con người Nguyễn Khoa Điềm quan tâm nhiều hơn hết.

– Biện pháp tu từ đối lập: “sống” – “chết”, “giản dị” – “bình tâm” đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của nhân dân. Họ suy nghĩ bình thường, giản đơn, chết âm thầm lặng lẽ. Những người dân bình thường mà Nguyễn Khoa Điềm không nhắc tên ấy có thể là người vợ nhớ chồng “góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”, hay “cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Chống Mái”, những người học trò nghèo mà hiếu học đã góp cho Đất Nước mình Núi Bút, non Nghiên cũng có thể họ là những người nông dân “cui cút làm ăn toan lo nghèo khó” (Văn tế …)… Họ đã cống hiến cho đất nước một cách thầm lặng và đơn giản vô ngần. Họ có thể là những con người “Sống trên cát chết vùi trong cát/ Những trái tim như ngọc sáng ngời” (Tố Hữu). Chính vì có những “trái tim như ngọc sáng ngời” ấy nên đất nước này là đất nước của nhân dân.

Nhận xét chung:

​Đoạn thơ được viết với giọng điệu riêng biệt, giọng điệu trữ tình chính luận mà ta không thể bắt gặp ở bất cứ nhà thơ nào khác. Chỉ với một đoạn thơ ngắn trích trong “Đất Nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng” với hệ thồng ngôn ngữ giản dị, chắt lọc, truyền cảm; hình ảnh cô đúc giàu sức gợi; kết cấu câu thơ dài ngắn xen kẽ, thay đổi linh hoạt cùng với một loạt các biện pháp tu từ như phép đối, điệp, so sánh, … được sử dụng khéo léo; khả năng vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian. ​Nguyễn Khoa Điềm đã góp một cái nhìn đầy mới mẻ về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

​Chủ đề quê hương đất nước không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về Đất Nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi, … Nhưng có thể nói nhưng có thể nói, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai trò to lớn của nhân dân đối với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu sắc. Đoạn thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ miền Nam thời chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai. Đoạn thơ đã làm sống lại truyền thống hào hùng của dân tộc ta.

  • Kết bài:

Pauxtôpxki từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp”. Với tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt, cháy bỏng Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đến với vẻ đẹp của nhân dân trong lịch sử để các thế hệ người Việt Nam mãi tự hào về nhân dân mình, đất nước mình.

Phân tích đoạn trích Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang