dot-pha-ky-thi-hoc-sinh-gioi-va-olympic-ngu-van-9-tai-lieu-4

Đột phá kỳ thi học sinh giỏi và Olympic Ngữ văn 9 (Tài liệu 4)

Đột phá kỳ thi học sinh giỏi và Olympic Ngữ văn 9 (Tài liệu 4)

ĐỀ SỐ 1.

Có nhận định rằng: “Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất”. Qua bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. Em hãy làm sáng rõ nhận định trên.

  • Mở bài:

– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác.

– Nêu ngắn gọn hình ảnh trong bài thơ và nhận định nêu ở đề bài.

  • Thân bài:

1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà:

– Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. (Trích thơ dẫn chứng)

– Bếp lửa ”chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”.

– Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức.

– Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.

– Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: Tình thương tràn đầy của cháu được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của bà.

2. Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ:

– Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao…

– “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những con người vật lộn mưu sinh. Trải qua cái đói quay, đói quắt Bằng Việt mới viết được những câu thơ chân thực đến thế!

– Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”.

3. Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám năm bên bà:

– “Tám năm ròng cháu sống cùng bà” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương (dẫn chứng)

– Kháng chiến bùng nổ, “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, bà vừa là cha, lại vừa là mẹ. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.

– Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về (dẫn chứng)

– Tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên bà. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong.

– Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm màu bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.

4. Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là:

– Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh (dẫn chứng).

– Bà là chỗ dựa cho cháu, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. (dẫn chứng)

– Hình ảnh bà và những kỷ niệm tuổi thơ luôn gắn với hình ảnh bếp lửa. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Ngọn lửa là kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu (dẫn chứng)

– Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ – ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào (dẫn chứng)

→ Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

5. Suy ngẫm của người cháu về bà và hình ảnh bếp lửa:

– Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một, nhòe lẫn, tỏa sáng bên nhau.

– Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “Mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” -> diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương,chịu khó của bà.

– Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.

– Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lần với những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên -> Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng

– Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà tuy bình dị nhưng ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ

6. Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết:

– Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, cháu giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng có “khói trăm tàu”, ”lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Tuy thế, cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau.

  • Kết bài:

– Khái quát nội dung ý nghĩa bài thơ.

– Khẳng định lại nhận định và nêu được cảm nghĩ của mình về tình cảm gia đình đặc biệt là tình bà cháu.


ĐỀ SỐ 2.

“Dù viết về cái gì, văn chương chân chính cũng hướng về con người. Viết về cái xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động giúp con người sống với bản lĩnh tốt đẹp của mình. Viết về cái tốt để con người tự tin ở mình và đó chính là hành trang cần có ở con người trong cuộc hành trình tới tương lai.”

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

  • Mở bài:

– Dẫn dắt và nêu vấn đề:  Văn học là bức tranh về đời sống xã hội và con người. Văn học viết ra để phục vụ con người.

– Dẫn dắt vấn đề nghị luận

  • Thân bài:

1. Giải thích

– Thế nào là văn chương chân chính?  Văn chương chân chính là văn chương gần gũi, chuyên chú ở con người, phục vụ đời sống, có ích cho con người.

– Vì sao viết cái xấu, cái tốt đều nhằm hướng về con người…?

+ Văn chương là tấm gương phản chiếu hiện thực của cuộc sống nên nó phản ánh cả những điều xấu và điều tốt của hiện thực.

+ Viết về cái xấu với mục đích cảnh tỉnh, giúp con người nhận ra cái đúng – sai, tốt – xấu… để cải tạo con người.

+ Viết về cái tốt nhằm để ngợi ca, động viên khích lệ,…con người.

→  Đó là chức năng cao đẹp của văn chương.

2. Chứng minh qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Viết về cái gì thì thứ văn chương chân chính cũng hướng về con người.

– “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mượn cảm hứng đề tài truyền thống của thơ ca từ cổ chí kim là vầng trăng. Bài thơ không chỉ thể hiện cảm xúc về vầng trăng đẹp mà qua đó còn hướng người đọc đến bài học nhân sinh.

– Viết về cái xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động giúp con người sống với bản chất tốt đẹp của mình.

– “Ánh trăng” viết về sự đổi thay bội bạc của con người với quá khứ. Quá khứ đó là sự gắn bó nghĩa tình với thiên nhiên, nhân dân, đất nước trong những năm tháng gian lao của chiến tranh.

– Từ nhỏ đến lúc trưởng thành, trong khó khăn gian khổ con người gắn bó với ánh trăng như tri kỉ, tri âm. Vậy mà khi hoà bình với đầy đủ tiện nghi ở thành phố, con người đã vô tình quên lãng vầng trăng, thay đổi tới mức coi người tri kỉ như người dưng xa lạ, lãng quên quá khứ, quay lưng lại với nhân dân với những người đã đùm bọc sẻ chia trong những năm chiến tranh gian khổ. Đó là cái xấu đáng lên án của con người.

– Viết về cái tốt để con người tự tin ở mình, đó chính là hành trang để con người hướng tới tương lai.

– Bản tính tốt đẹp của nhân vật trong tác phẩm là dám nhìn thẳng vào sự thật, thấy cái xấu của mình để sửa chữa và sống tốt hơn.

– Người chiến sĩ trong “Ánh trăng” đã ân hận “rưng rưng”, “giật mình” bởi thái độ sống bạc nghĩa vừa qua của mình. Đó là giọt nước mắt hướng thiện.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 3.

“Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Hãy khám phá “xứ sở của cái đẹp” qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.

  • Mở bài:

– Giới thiệu được vấn đề nghị luận.

  • Thân bài:

1. Giải thích ý kiến:

– “nhà văn chân chính”: là nhà văn luôn đặt cái đích vào con người, cuộc sống, đem ngòi bút của mình phục vụ đời sống, có ích cho con người.

– “xứ sở của cái đẹp”: đó là cái đẹp muôn hình muôn vẻ của cuộc đời mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm, gợi những rung cảm thẩm mĩ, làm cho con người thêm mến yêu cuộc sống, thêm khao khát hướng tới những gì đẹp đẽ, tốt lành của cuộc đời.

→ Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường cho bạn đọc khám phá những vẻ đẹp của cuộc sống thông qua các sáng tác văn học. Nhận định trên đã khẳng định về vai trò của nhà văn và tác phẩm với đời sống.

2. “Xứ sở của cái đẹp” trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”:

a. Cảnh sắc thiên nhiên Sa Pa:

Nắng đốt cháy rừng cây, mạ bạc con đèo…..

– Cây hoa tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng.

– Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe.

→ Vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, nhà văn đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường nét,hình khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu mang âm hưởng một bài thơ về thiên nhiên đất nước.

b. Vẻ đẹp con người:

* Nhân vật anh thanh niên:

– Hoàn cảnh sống và làm việc:

+ Lật từng trang văn của Nguyễn Thành Long, ta thấy anh thanh niên 27 tuổi sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m, quanh năm làm bạn với mây mù và cây cỏ.

+ Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu . Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng,tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hằng ngày để phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu”. Một công việc gian khó nhưng đòi hỏi sự chính xác, tỉ mỉ và tinh thần trách nhiệm cao. “Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh, đúng giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm việc”.

+ Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn… là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ nhất đối với chàng trai trẻ ấy là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi cao không một bóng người. Cô đơn đến mức “thèm người”, phải lăn cây chặn đường dừng xe khách qua núi để được gặp gỡ, trò chuyện.

+ Và anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp,giản dị mà sâu sắc

– Vẻ đẹp trong tính cách người thanh niên.

+ Anh hiểu rằng, công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc chung của đất nước, của mọi người.

+ Làm việc một mình trên đỉnh núi cao,không có ai giám sát,thúc giục anh vẫn luôn tự giác, tận tụy. Suốt mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp”đúng giờ.

+ Phải ghi và báo về nhà trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc 1h sáng, anh vẫn không ngần ngại.

+ Và anh đã sống thật hạnh phúc khi được biết do kịp thời phát hiện đám mây khô mà anh đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên bầu trời Hàm Rồng.

+ Anh yêu công việc của mình, anh kể về nó một cách say sưa và tự hào.Với anh, công việc là niềm vui, là lẽ sống. Hãy nghe anh tâm sự với ông họa sĩ: “[…] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Qua lời anh kể và lời bộc bạch này, ta hiểu rằng anh đã thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc thầm lặng giữa Sa Pa và sương mù bao phủ.

– Anh biết tạo ra một cuộc sống nền nếp văn minh và thơ mộng:

+ Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn nắp: “một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con,một chiếc bàn học, một giá sách”.

+ Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần.

+ Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài. Khi bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh “mừng quýnh” như bắt được vàng.

– Sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách:

+ Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn.Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.

* Biểu hiện:

+ Tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy.

+ Vui sướng cuống cuồng khi có khách đến thăm nhà.

+ Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo: hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết: “Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái,và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”, pha nước chè cho ông họa sĩ.

– Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ.

– Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.

– Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”.

→ Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.

– Sự khiêm tốn, thành thật:

+  Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những lời giới thiệu nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đáng, đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ bé, anh vẫn còn thua ông bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra chiến trường đánh giặc.

+ Khi ông hoạ sĩ kí hoạ chân dung,anh từ chối, e ngại và nhiệt tình giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn anh nhiều (ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét…)

* Nhân vật ông họa sĩ:

– Tuy không dùng cách kể ở ngôi thứ nhất nhưng hầu như người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của chuyện. Từ đó, gửi gắm suy nghĩ về con người, về nghệ thuật.

– Ngay từ những phút ban đầu gặp gỡ anh thanh niên, bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông đã xúc động và bối rối.

– Ông muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí họa và “người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá”. Những xúc cảm và suy tư của nhân vật ông họa sĩ về người thanh niên và về những điều khác nữa được gợi lên từ câu chuyện của anh làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo nên chiều sâu tư tưởng.

* Nhân vật cô kĩ sư.

– Đây là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tình đầu nhạt nhẽo” để lên công tác ở miền cao Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, câu chuyện anh kể về những người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, “cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, và về con đường cô đang đi tới”. Nhờ cái “bàng hoàng” ấy, cô mới nhận ra mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết bao, cuộc sống của mình lâu nay tầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ bé biết bao ! Khoảnh khắc bàng hoàng ấy chính là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi người ta bắt gặp được những ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồn người khác.

– Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”. Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Qua tâm tư của cô gái, ta nhận ra vẻ đẹp và sức ảnh hưởng của nhân vật anh thanh niên.

* Bác lái xe:

– Bác lái xe là nhân vật xuất từ đầu truyện, nhưng cũng kịp thể hiện những nét đẹp trong tính cách. Là người rất yêu công việc, suốt 30 năm trong nghề lái xe mà vẫn luôn giữ được tính cởi mở, niềm nở có trách nhiệm với công việc, nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Bác lái xe là cầu nối giữa anh thanh niên và cuộc đời ( mua sách cho anh, dừng xe dưới chân đồi để anh trò chuyện, giới thiệu những người bạn mới cho anh). Bác lái xe cũng là người dẫn dắt truyện, kích thích sự tò mò của ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên – người cô độc nhất thế gian, người rất “thèm người”

→ Qua cảm xúc,suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồn gánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc.

* Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.

– Anh bạn đồng nghiệp lặng lẽ cống hiến trên đỉnh Phan-xi-păng cao 3142 mét.

– Ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hết lòng với công việc. Kiên trì, bền bỉ, làm việc trong âm thầm lặng lẽ “ngày này sang ngày khác”. Ông ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phận cho hoa su hào. Và tự ông đi thụ phấn cho từng cây su hào để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn. Ông kĩ sư làm cho anh thanh niên cảm thấy cuộc đời đẹp quá! Công việc thầm lặng ấy chỉ những con người nơi mảnh đất Sa Pa mói hiểu hết được ý nghĩa của nó.

– Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Anh luôn ở trong tư thế sẵn sằng suốt ngày chờ sét “nửa đêm mưa gió,rét buốt,mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra”. Anh đã hi sinh hạnh phúc cá nhân vì niềm đam mê công việc để khai thác “của chìm nông, của chìm sâu” dưới lòng đất làm giàu cho Tổ quốc.

– Ông bố anh thanh niên xung phong đi bộ đội.

→ Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên,song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàn ghi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 4.

“Một trong những phương diện thể hiện tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ là am hiểu và miêu tả thành công thế giới nội tâm của nhân vật trong tác phẩm văn học”.

Bằng những kiến thức đã học về đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) em hãy làm sáng tỏ điều đó?

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề nghị luận.

  • Thân bài:

1. Giải thích ý kiến:

– Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, chủ yếu là hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Một trong những phương diện thể hiện tài năng của nhà văn – người nghệ sĩ ngôn từ là am hiểu và miêu tả thành công thế giới nội tâm nhân vật.

– Miêu tả nội tâm trong tác phẩm văn học là tái hiện những suy nghĩ, cảm xúc, những băn khoăn trăn trở, những day dứt, suy tư, những nỗi niềm thầm kín và cả diễn biến tâm trạng của nhân vật.

– Đó là biện pháp quan trọng để xây dựng nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên sinh động, có hồn hơn. Nhà văn có thể miêu tả trực tiếp nội tâm gián tiếp bằng cách miêu tả qua cảnh vật, nét mặt, cử chỉ, trang phục của nhân vật.

2. Chứng minh qua đoạn trích:

a. Miêu tả nội tâm trực tiếp qua những lời độc thoại nội tâm:

– Tài năng của Nguyễn Du trước hết là để Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau rất hợp tâm lý của con người, hợp lô gic tình cảm.

– Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Nỗi nhớ Kim Trọng chủ yếu là liên tưởng ,hình dung và tưởng tượng. Nhớ cha mẹ chủ yếu là xót xa lo lắng thể hiện trách nhiệm và bổn phận của đạo làm con.

b. Miêu tả nội tâm gián tiếp qua cảnh vật thiên nhiên (bút pháp tả cảnh ngụ tình):

– Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng và rợn ngợp qua 6 câu đầu thể hiện nỗi buồn và cô đơn của Kiều;

– Cảnh thiên nhiên trong 8 câu cuối thực sự là khung cảnh của bi kịch nội tâm. Mỗi cảnh vật thiên nhiên gợi những tâm trạng khác nhau trong lòng Kiều. Bức tranh thiên nhiên cũng là bức tranh tâm trạng.

→ Vai trò của nghệ thuật miêu tả nội tâm trong việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật Kiều: Vẻ đẹp lòng hiếu thảo, thủy chung, ý thức về danh dự phẩm hạnh và thân phận cô đơn hoảng sợ của Kiều trước một tương lai đầy cạm bẫy

  • Kết bài:

– Thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật là một phương diện để thể hiện tài năng của nhà văn, làm nên sức sống cho hình tượng nhân vật, cho tác phẩm văn học. Có lẽ Truyện Kiều sống mãi một phần bởi nghệ thuật miêu tả nội tâm sâu sắc của Nguyễn Du.


ĐỀ SỐ 5.

Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, nhà văn Nguyễn Thành Long đã để cho ông hoạ sĩ nghĩ về anh thanh niên như sau: “Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vòi vọi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người. Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay chưa được đúng”. (Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long)

Nêu rõ những điều anh suy nghĩ và những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh trong truyện ngắn.

  • Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích: Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí. Truyện của ông thường có khuynh hướng ca ngợi tình yêu Tổ quốc, nhân dân. Lặng lẽ Sa Pa được viết vào mùa hè 1970 trong chuyến đi Lào Cai, in trong tập Giữa trong xanh (1971). Với chất thơ nhẹ nhàng, trầm lắng, thiết tha, Lặng lẽ Sa Pa ca ngợi những con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng vô cùng sôi nổi, hết lòng vì Tổ quốc thân yêu .

  • Thân bài:

1. Những điều anh suy nghĩ:

– Anh suy nghĩ về hoàn cảnh làm việc, công việc mình làm: (Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được; công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất). Anh đã vượt lên hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp, giản dị mà sâu sắc về công việc, về cuộc sống. Anh thấy được ý nghĩa cao quý trong công việc thầm lặng của mình.

– Anh thực sự cảm thấy hạnh phúc khi biết những việc mình làm đã góp một phần nhỏ giúp cho không quân bắn rơi máy bay Mĩ (từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc). Điều này giúp anh hiểu được ý nghĩa lớn lao của cuộc cuộc sống.

– Anh suy nghĩ về những con người đang sống xung quanh anh: ông kĩ sư nông nghiệp cần mẫn ngày này qua ngày khác thụ phấn cho hàng vạn cây su hào với mong ước để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn, ngọt hơn trước; anh cán bộ nghiên cứu sét mười một năm không một ngày xa cơ quan để quyết tâm hoàn thành cho được bản đồ sét. Đó là những con người làm cho anh thanh niên thấy cuộc đời đẹp quá. Và anh mơ ước được làm việc trên trạm đỉnh Phan xi phăng, nơi lí tưởng để làm công việc khí tượng.

→ Qua những suy nghĩ của anh thanh niên, nhà văn đã ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp của con người lao động, của lí tưởng sống dựng xây Tổ quốc.

2. Những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh:

– Với ông hoạ sĩ già: anh đã làm cho ông xúc động mạnh, khiến ông đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và làm cho trái tim mệt mỏi của ông trở nên khao khát, yêu thêm cuộc sống. Ông quyết định quay trở lại nơi này để hoàn thành bức vẽ chân dung anh.

– Với cô kĩ sư trẻ: Anh đã làm cho cô cảm động và bị cuốn hút ngay từ giây phút đầu tiên gặp, làm cho cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của anh, hiểu thêm cái thế giới những con người như anh. Anh đã giúp cô nhìn nhận lại bản thân mình, giúp cô yên tâm hơn về quyết định của mình, và trên tất cả là những háo hức và mơ mộng mà anh đã trao cho cô. Cô gái chia tay anh bằng một ấn tượng hàm ơn khó tả.

→ Qua những suy nghĩ của các nhân vật ông hoạ sĩ, cô kĩ sư, nhà văn nhấn mạnh ý nghĩa lớn lao của những công việc thầm lặng. Đó là những suy nghĩ đẹp, cách sống đẹp.

3. Mở rộng, nâng cao.

– Những điều anh suy nghĩ những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh chính là những suy tư trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Ý nghĩa ấy đượcgửi gắm qua hình thức một câu chuyện nhẹ nhàng, giầu chất thơ.

– Từ những suy nghĩ ấy, rút ra cho bản thân những bài học về cách sống cao đẹp.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề.


ĐỀ SỐ 6.

Bàn về văn chương, Hoài Thanh viết: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có”. (Trích Ý nghĩa văn chương- SGK Ngữ văn 7, tập hai)

Bằng hiểu biết của em về bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

  • Mở bài:

– Giới thiệu ý kiến của Hoài Thanh gắn với nội dung cơ bản của bài thơ Bếp lửa: Bài thơ thể hiện tình cảm bà cháu thiêng liêng, sâu nặng.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

– Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có: tức là khẳng định các tác phẩm văn chương có khả năng khơi gợi những tình cảm, rung cảm đẹp đẽ cho mỗi người khi tiếp cận tác phẩm. Văn chương luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có: tức là nhấn mạnh khả năng văn chương bồi đắp tâm hồn, tình cảm của mỗi người thêm sâu sắc, thêm đẹp đẽ, bền vững.

→ Nhận định đã khái quát một cách sâu sắc hai vấn đề: Khái quát quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương: Đều xuất phát từ tình cảm, cảm xúc của tác giả và bạn đọc; khái quát chức năng giáo dục và thẩm mĩ của văn chương đối với con người.

– Hoàn cảnh tác giả sáng tác bài thơ: Viết 1963 khi tg đang du học ở Liên xô (cũ), nơi lạnh giá xứ người xa quê hương, xa người bà đã khơi gợi nỗi nhớ thương về quê hương, về bếp lửa ấm nồng cùng với hình ảnh bà yêu dấu.

– Khẳng định: Bài thơ khơi dậy, bồi đắp thêm cho tình cảm gia đình (tình bà cháu thiêng liêng, sâu nặng), tình yêu thương con người, tình yêu quê hương, đất nước của mỗi con người. Bài thơ là minh chứng cho nhận định của Hoài Thanh.

2. Phân tích, chứng minh:

– Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình cho mỗi người đọc qua dòng hồi tưởng của cháu về kỷ niệm tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa – qua tình cảm bà cháu của nhân vật trữ tình (3 điểm)

– Hồi tưởng của cháu bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa và hình ảnh bà.

+ Nhân vật trữ tình hồi tưởng lại những kỷ niệm: Kỷ niệm những năm đói khổ; kỷ niệm tám năm sống bên bà; kỉ niệm những năm giặc dã, chiến tranh. Trong dòng hổi tưởng đó luôn có hình ảnh bà tần tảo, hi sinh, yêu thương cháu, có tình bà ấm áp. (phân tích- chứng minh)

+ Hồi tưởng về bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, bếp lửa là biểu tượng cho tình bà ấm áp, biểu tượng cho ý chí, nghị lực, niềm tin của bà. (Phân tích – chứng minh)

– Cháu khôn lớn, trưởng thành thấm thía cuộc đời bà vất vả, gian khổ, tần tảo, chịu thương chịu khó; công lao của bà mênh mông, sâu nặng (Phân tích – Chứng minh)

+ Cháu tâm nguyện: luôn trân trọng, nhớ bà, biết ơn bà (Phân tích – Chứng minh)

+ Trong suy ngẫm, tâm nguyện của cháu cũng vẫn hiện lên hình ảnh bếp lửa bình dị mà thiêng liêng: Bếp lửa là biểu tượng cho tình bà cháu, biểu tượng của gia đình, quê hương.

+ Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm gia đình gắn bó hài hòa trong tình yêu quê hương đất nước- qua những suy ngẫm của cháu về bà, về đất nước, dân tộc, nhân dân mình. (3 điểm)

+ Tình cảm bà cháu là cội nguồn của tình cảm gia đình, tình cảm với quê hương, đất nước: Mỗi kỉ niệm của cháu với bà gắn với những thời kì lịch sử khó quên của đất nước, dân tộc; gắn với tình làng nghĩa xóm (Phân tích- chứng minh)

+ Người cháu nhớ về bà, biết ơn bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu nhân dân, đất nước, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở thành biểu tượng của quê hương, xứ sở. (phân tích- chứng minh)

+ Khẳng định sự tác động của bài thơ đến tình cảm mỗi người đọc, sự đồng cảm của người đọc với bài thơ. (2 điểm)

+ Với hình tượng bếp lửa và hình tượng người bà, bài thơ bếp lửa đã khơi dậy trong lòng mỗi người đọc tình cảm bà cháu đẹp đẽ, tình cảm gia đình thiêng liêng. Tình cảm của nhân vật trữ tình, của tác giả đã làm sâu sắc, đẹp đẽ, bền vững thêm tình cảm gia đình trong mỗi người đọc. Điều đó chứng minh nhận định của Hoài Thanh là đúng đắn.

+ Bài thơ nhận được sự đồng cảm của bạn đọc, bạn đọc tìm được sự đồng điệu tâm hồn với tác giả. Bài thơ là một minh chứng cho quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương, minh chứng cho vai trò quan trọng và chức năng của văn chương, đặc biệt là chức năng giáo dục và thẩm mỹ.

3. Đánh giá, mở rộng:

– Bài thơ Bếp lửa với hình tượng thơ độc đáo, ngôn từ biểu cảm, bình dị mà sâu sắc, sử dụng hổi tưởng và hiện tại trong mạch cảm xúc, sử dụng nhiểu biện pháp nghệ thuật đặc sắc đã thể hiện xúc động tình bà cháu thiêng liêng, ấm áp, tình cảm yêu gia đình, quê hương, đất nước trong sáng, đẹp đẽ.

– Bài thơ đã làm sáng tỏ những quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương; minh chứng cho những tác dụng to lớn của văn chương: Văn chương làm đẹp thêm tình người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ.

– Liên hệ đến các tác phẩm ngợi ca tình cảm gia đình: Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh), Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)…

  • Kết bài:

– Khẳng định giá trị, ý nghĩa của bài thơ tác động đến mỗi người: là lời nhắc nhở mỗi con người luôn biết trân trọng, giữ gìn những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ.

– Liên hệ nhận thức và hành động của bản thân.


ĐỀ SỐ 7.

Cảm nhận của em về “Sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng về lao động” trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (SGK Ngữ văn 9 , tập một).

  • Mở bài:

Giới thiệu vấn đề nghị luận: “Sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng về lao động” trong bài thơ Đoàn thuyền đành cá của Huy Cận.

  • Thân bài:

1. Cảm hứng trước cảnh hoàng hôn trên biển và khúc hát ra khơi của đoàn thuyền đánh cá (hai khổ đầu).

– Nhà thơ mở ra trước mắt người đọc cảnh biển đẹp, kì vĩ, tráng lệ. mênh mang không gian bao la, mặt trời đang từ từ xuống biển đỏ như quả cầu lửa khổng lồ. Sóng đan trên mặt nước lung linh ánh vàng như cài then, sập cửa khép lại nửa chu kì nhật nguyệt. Cảnh biển trước hoàng hôn không nặng nề, tăm tối mà mang vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên tạo vận trong quy luật vận động của nó. Tác giả miêu tả với cảm hứng vũ trụ, nếu trước Cách Mạng, Vũ trụ ca còn mênh mang trời nước một nỗi buồn ảo não bơ vơ thì giờ đây niềm vui tràn ngập ấm áp giao thoa trong cảnh và người.

– Nổi bật lên bức tranh thiên nhiên kì vĩ ấy là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá căng buồm lướt sóng ra khơi. Tâm trạng náo nức của người lao động hòa trong khúc hát lên đường đầy khí thế, nhiệt tình và khẩn trương. Họ hát cho buồm căng gió, cho cá bạc đầy khoang, cho cá thu như đoàn thoi đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

2. Cảm hứng trước cảnh biển đêm trăng và cảnh đánh bắt cá của đoàn thuyền (4 khổ tiếp).

– Khi sóng đã cài then, đêm sập cửa thì hình ảnh vũ trụ lại chuyển sang một cảnh khác – cảnh biển đêm trăng. Không gian bao la lại tạo ra bức tranh trời nước với những ngôi sao lấp lánh, trăng chan hòa sắc vàng không gian, mây cao, gió lộng buồm căng thấm đẫm ánh trăng. Biển đẹp và sống động: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”, “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”.

– Sự giao thoa hai nguồn cảm hứng ở 4 khổ thơ này rất rõ, Cảm hứng lãng mạn cách mạng và cảm hứng vũ trụ đã tạo ra cảnh bắt cá của đoàn thuyền dưới đêm trăng tuyệt đẹp, hùng tráng, mơ mộng: “Thuyền ta lướt gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”. Thật bay bổng, lãng mạn, con thuyền nhỏ nhoi trước vũ trụ bao la trở nên kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ, lướt giữa gió, mây, trăng sao và cánh buồm thấm đãm ánh trăng.

– Hình ảnh con người càng khỏe khoắn, lồng lộng giữa biển khơi, ra thăm dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng…..vừa làm vừa hát khiến công việc đánh bắt cá trên biển vốn đầy nặng nhọc, gian khổ, nguy hiểm thành bài ca lao động hào hứng, vui tươi.

– Hình ảnh con người lao động là trung tâm của bức tranh được nhà thơ khắc họa bằng nét bút giàu chất tạo hình. Thân hình chắc khỏe, gân guốc, cơ bắp cuồn cuộn, kéo lên những mẻ lưới trĩu nặng cá bạc, vàng. Trăng soi, chiếu xuống mặt biển, sóng xô bóng trăng gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp sóng lấp lánh ánh trăng như xua cá vào lưới. Thiên nhiên – con người giao hòa, tạo nên bức tranh đánh bắt cá trên biển đêm trăng vừa hùng tráng vừa thơ mộng.

3. Cảnh biển bình minh và đoàn thuyền đánh cá trở về trong chiến thắng (khổ cuối).

– Cảnh bình minh lên, mặt trời đội biển xòe những ngón tay hồng xua đi màn đêm còn xót lại. Biển trời bao la, sự vận động của thiên nhiên trên biển thật kì vĩ, mát mẻ, trong trẻo, tinh khôi, khoáng đãng. Gió khơi lồng lộng đưa đoàn thuyền trở về trong niềm vui chiến thắng cá đầy khoang, khép lại 1 chu trình lao động vất vả trên biển đêm. Con người lúc ra đi đẹp hào hùng đầy hứng khởi thì lúc trở về vẫn trong niềm vui chiến thắng ấy. Ánh dương đã tô điểm cho thành quả của họ thêm rực rỡ: ”Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”.

– Sự giao thoa giữa hai nguồn cảm hứng: vũ trụ và cảm hứng cách mạng – ca ngợi người lao động đã tạo cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, tráng lệ, độc đáo, thực mà mộng, biểu hiện niềm say sưa, hào hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên.

– Đây cũng là niềm vui của nhà thơ trước cuộc sống mới, con người lao động mới. Tâm hồn Huy Cận không còn ảo não, bơ vơ trong cái tôi lẻ loi trước vũ trụ mà đã thực sự hòa vào cái ta chung của đất nước, con người. Có thể nói đây là bài thơ hay nhất của Huy Cận trong thời kì đó.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đê nghị luận.


ĐỀ SỐ 8.

Cảm nhận về tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải và bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.

  • Mở bài:

– Tình yêu thiên nhiên là một trong những nội dung nổi bật của văn học Việt Nam.

– Các nhà thơ Việt Nam hiện đại đã góp vào đề tài này bằng những nét riêng độc đáo. Người đọc sẽ cảm nhận tình yêu thiên nhiên tha thiết của hai thi nhân: Thanh Hải qua Mùa xuân nho nhỏ, Hữu Thỉnh qua Sang thu.

  • Thân bài:

1. Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ: Tình yêu thiên nhiên – thiên nhiên mùa xuân xứ Huế của nhà thơ thể hiện thật tinh tế.

– Nghệ thuật phối sắc thể hiện cái đẹp hài hòa của thiên nhiên: bông hoa tím biếc, dòng sông xanh.

– Biện pháp đổi trật tự cú pháp trong câu thơ vắt dòng: “Mọc giữa dòng sông xanh / Một bông hoa tím biếc” đã nhấn mạnh sự vươn lên trỗi dậy của thiên nhiên khi mùa xuân về; đã vẽ nên một sắc xuân riêng của thiên nhiên xứ Huế. Bông hoa tím biếc khiến bức tranh xuân trở nên bình dị, thân thiết.

– Hai câu thơ kế tiếp đã mở rộng không gian nghệ thuật bức tranh xuân. Tín hiệu xuân còn là tiếng hót vang trời của con chim chiền chiện:

Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời

+ Thành phần gọi – đáp ơi đã nhân hóa con chim chim trở thành người bạn.

+ Từ ngữ “hót chi” – từ ngữ địa phương tăng tính biểu cảm của câu thơ.

– Hai câu thơ 5, 6 trong khổ thơ xuất hiện bóng dáng nhân vật trữ tình trong bài thơ:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

+ Từng giọt long lanh có nhiều cách hiểu: giọt sương treo đầu ngọn cỏ;/giọt mưa xuân/ giọt âm thanh tiếng chim

+ Theo mạch cảm xúc, người đọc có thể nhận ra đây là âm thanh tiếng chim. Phép tu từ ẩn dụ (chuyển đổi cảm giác) làm cho bức tranh xuân mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình với hành động đưa tay hứng âm thanh tiếng hót chim chiền chiện của nhà thơ – nhân vật trữ tình trong bài thơ.

→ Đoạn thơ đẹp như bức tranh – bức tranh có dòng sông, hoa cỏ, có chim hót, có bầu trời, sương mai, có ánh xuân, có con người. Bức tranh có sắc xuân, tình xuân và có cả khúc nhạc xuân đã thể hiện tình yêu thiên nhiên – thiên nhiên mùa xuân của thi nhân!

2. Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Sang thu:

– Đọc Sang thu của Hữu Thỉnh, thêm một lần ta được thưởng thức vẻ đẹp của sự cảm nhận tinh tế, những rung động của một tâm hồn nhạy cảm nghệ sĩ lúc thu sang.

– Sự độc đáo bắt đầu bằng hương ổi – hương thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.

+ Hai chữ phả vào vừa gợi ra cái bất chợt trong cảm nhận, vừa gợi ra một cách thực thể cái hương thơm của ổi, lại vừa gợi ra sự vận động nhẹ nhàng của gió.

+ Từ láy chùng chình đã nhân hóa sương gợi ra sự lay động của cây lá, vẻ tư lự của lòng người, cái man mác của không gian chớm thu.

+ Thành phần biệt lập – thành phần tình thái hình như thể hiện một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng, có cái gì đó không thật rõ ràng của bước chân mùa thu dù tín hiệu thu sang đã rõ.

– Cảm xúc của thời điểm chuyển giao tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

+ Từ láy dềnh dàng đã nhân hóa sông dòng sông không còn chảy cuồn cuộn, gấp gáp như trong những ngày mưa lũ mùa hạ nữa mà trở nên chậm chạp, thong thả.

+ Đối lập với sự dềnh dàng của dòng sông là sự vội vã của những cánh chim bay «Chim bắt đầu vội vã». Từ láy vội vã đã nhân hóa những cánh chim – những cánh chim đang chuẩn bị bay về phương Nam để tránh rét.

→ Sự đối lập này đã gợi lên sự vận động của sự vật trong giây phút giao mùa.

– Đẹp nhất, giàu sức biểu cảm nhất là hình ảnh thơ:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

+ Phép nhân hóa được sử dụng trong câu thơ tạo nên sự bất ngờ thú vị, tinh tế Áng mây bâng khuâng là hình ảnh thực nhưng cái ranh giới mùa là hư – sản phẩm của trí tưởng tượng nhà thơ.

+ Đám mây đang trôi trên bầu trời một nửa là hạ một nửa là thu để rồi một lúc nào đó nó bỗng ngỡ ngàng nhận ra mình đang trôi trong một bầu trời thu trọn vẹn.

Hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ vắt dòng tạo ra những liên tưởng thú vị đã thể hiện một cách đặc sắc những xúc cảm tinh tế trước bước chuyển giao của mùa; đã diễn tả cụ thể, tinh tế, nhạy cảm tình yêu thiên nhiên tha thiết của Hữu Thỉnh. Cách cảm nhận và miêu tả của tác giả: tinh tế, nhạy cảm, sự liên tưởng độc đáo. Nhà thơ làm cho mùa thu trong thơ ca Việt Nam mang một hương sắc mới.

3. Đánh giá chung:

* Điểm chung:

– Cả hai thi nhân đều yêu thiên nhiên.

– Tình yêu thiên nhiên của hai nhà thơ đều nhẹ nhàng, tinh tế nên cảnh sắc thiên nhiên trong hai bài thơ không bị hòa lẫn vào cảnh sắc thiên nhiên của các bài thơ khác.

* Điểm riêng:

– Mùa xuân nho nhỏ:

+ Đổi trật tự cú pháp, ẩn dụ.

+ Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế.

+ Xúc cảm của thi nhân nghiêng về hình ảnh đầy sắc xuân đẹp đẽ của thiên nhiên, đất trời – thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống.

– Sang thu:

+ Hình ảnh đặc trưng, giàu sức biểu cảm; phép nhân hóa;

+ Cảnh vườn thu, ngõ xóm của đồng bằng Bắc bộ;

+ Xúc cảm của thi nhân nghiêng về cảm nhận giây phút nhẹ nhàng – tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương.

  • Kết bài:

– Tình yêu thiên nhiên – mùa xuân, mùa thu của hai thi nhân thật thiết tha đã bồi đắp thêm cảm xúc, tình cảm yêu mến thiên nhiên cho mỗi người đọc.

– Hai bài thơ: Mùa xuân nho nhỏ, Sang thu cùng với hai hồn thơ – Thanh Hải, Hữu Thỉnh – đã làm đẹp những trang thơ – thơ hiện đại Việt Nam.


ĐỀ SỐ 9.

Có người cho rằng: “Thơ bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ”.

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng sự hiểu biết của em về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt,  hãy làm sáng tỏ điều đó.

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề nghị luận “ Thơ bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ”.

– Giới thiệu bài thơ Bếp lửa của Bằng việt.

  • Thân bài:

1. Giải thích

Thơ bắt rễ từ lòng người: thơ là tiếng nói chân thành của tình cảm, thơ do tình cảm mà sinh ra, thơ luôn thể hiện những rung cảm tinh tế, thẳm sâu của tác giả…

– Nở hoa nơi từ ngữ: Lời thơ bao giờ cũng chắt lọc, giàu hình tượng, gợi cảm xúc…=> vẻ đẹp ngôn từ chính là yêu cầu bắt buộc với thơ ca…

→ Thơ khơi nguồn từ cảm xúc của tác giả trước cuộc sống, và tình cảm ấy thăng hoa nơi từ ngữ biểu hiện…

2. Phân tích, chứng minh.

* Thơ khơi nguồn từ cảm xúc của tác giả trước cuộc sống: Bài thơ là dòng cảm xúc của nhà thơ về bếp lửa, về bà và những kỉ niệm tuổi thơ…

+ Mạch cảm xúc bắt đầu từ hồi tưởng: bếp lửa, hình ảnh người bà, những kỉ niệm tuổi thơ…(Phân tích dẫn chứng)

+ Từ kỉ niệm, người cháu nay đã trưởng thành, suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà…(Phân tích dẫn chứng)

* Tình cảm ấy “nở hoa” nơi từ ngữ biểu hiện: Qua việc phân tích, HS phát hiện, bình luận, đánh giá… chiều sâu tư tưởng của các hình tượng thơ: bếp lửa – ngọn lửa; Bà – người nhóm lửa- người giữ lửa – người truyền lửa…

→ Bài thơ chứa đựng một triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời…

3. Khái quát, đánh giá:

– Ý kiến đã khẳng định: một tác phẩm chân chính phải khởi phát từ tình cảm dạt dào của tác giả và được thể hiện bằng ngôn từ chắt lọc, trau chuốt.

– Người nghệ sĩ phải có trái tim nhạy cảm, tinh tế và khả năng lao động nghệ thuật nghiêm túc thì mới tạo được những vần thơ hay, lay động lòng người…

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 10.

Sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng trong các tác phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận); “Đồng chí” (Chính Hữu); “Ánh trăng” (Nguyễn Duy).

  • Mở bài:

– Hình ảnh ánh trăng trong thơ ca… đặc biệt ở 3 bài thơ: “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận); “Đồng chí” (Chính Hữu); “Ánh trăng” (Nguyễn Duy).

  • Thân bài :

– Sự khám phá ánh trăng ở những góc nhìn và cảm nhận khác biệt nhưng 3 nhà thơ đều gặp nhau ở một điểm đó là xem trăng như là người bạn gần gũi để bộc lộ tâm tư tình cảm, người bạn chứng kiến mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

* Dẫn chứng :

+ Trăng xuất hiện trong lao động sản xuất trên biển.

+ Trăng xuất hiện trong cảnh chiến đấu chờ quân thù.

+ Trăng xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày.

* Đoàn thuyền đánh cá  của Huy Cận:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng”.

“Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”.

“Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”.

Trăng ở đây giúp gợi lên một không gian bao la của trời biển, trong đó trung tâm là con người. Bằng nghệ thuật nhân hóa, ánh trăng trong bài thơ giúp ta hình dung ra một bức tranh hài hòa, lộng lẫy giữa vẻ đẹp của con người và biển cả , bởi vì nền của bức tranh ấy được dát bạc bởi ánh vàng của trăng, ánh sáng lung linh của muôn loài cá…

* Đồng chí của Chính Hữu:

– Hình ảnh “ Đầu súng trăng treo”: Người lính trong khi làm nhiệm vụ có thêm vầng trăng làm bạn, tâm hồn người chiến sĩ tràn ngập ánh trăng tạo niềm tin chiến thắng trong chận chiến với quân thù.

* Ánh trăng của Nguyễn Duy:

– Khi lớn lên, đi bộ đội, vầng trăng như người bạn đồng hành và nhanh chóng trở thành tri kỉ: “Hồi chiến tranh ở rừng / Vầng trăng thành tri kỉ.”

– Khi cuộc chiến kết thúc sống trong điều kiện hòa bình, cuộc sống với đầy đủ tiện nghi : “Từ ngày về thành phố / Quen ánh điện cửa gương / Vầng trăng đi qua ngõ / Như người dưng qua đường”

– Thực tế làm thức tỉnh một tư duy, điện tắt sẽ thấy trăng. Ánh trăng làm sáng lên góc tối của con người, đánh thức sự ngủ quên, lãng quên quá khứ trong điều kiện sống của con người hoàn toàn khác trước; từ đó rút ra bài học đạo lí làm người. Ánh trăng thực sự như một tấm gương soi để thấy được mặt thật của mình và tìm lại cái đẹp tinh khôi mà đôi khi chúng ta để mất.

  • Kết bài:

– Nêu nhận xét, đánh giá về hình ảnh ánh trăng trong thơ ca nói chung và ở 3 bài thơ trên về cách khám phá và thể hiện.


ĐỀ SỐ 11.

Mối quan hệ giữa bếp lửa đời thường và Bếp lửa trong thơ Bằng Việt.

  • Mở bài:

Cảm nhận chung nhất về bài thơ và tình cảm bà cháu đằng sau hình ảnh bếp lửa.

  • Thân bài:

– Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc về bà, về những hồi ức đẹp đẽ của tuổi thơ, về tình bà cháu

– Bếp lửa đời thường:

+ Là hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam

+ Gợi sức sống, tình cảm gia đình và sự bình yên, no ấm.

– Bếp lửa trong thơ Bằng Việt:

+ Hình ảnh bếp lửa gắn liền với bà khiến cho người đọc liên tưởng đến mối quan hệ kì lạ, thiêng liêng.

+ Nỗi nhớ về bếp lửa được gợi nhớ bằng nhiều giác quan, bằng trí tưởng tượng: thị giác, cảm giác, khứu giác, xúc giác…Mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã được tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi.

+ Bếp lửa gắn với bà: hình ảnh bếp lửa ấp iu…chính là sự hóa thân của tình cảm bà dành cho cháu…Nếu bếp lửa củi rơm gắn với cảm nhận về mùi khói, với dư vị sống mũi còn cay, thì bà gắn với tuổi thơ cháu vừa như người chăm sóc vừa như một người bạn lớn….(dẫn chứng)

+ Những kí ức tuổi thơ ùa về trong tâm tưởng cháu… Nhớ về bếp lửa, nhắc về bếp lửa là nhắc về bà với những công việc xoay quanh bếp lửa, và tình cảm của một người bà đôn hậu, tần tảo.…(dẫn chứng)

+ Qua dòng hồi tưởng hình ảnh bếp lửa không còn là bếp lửa bình thường mà là một hình ảnh biểu tượng cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí cháu với sự hòa quyện tuyệt vời giữa cái ấm áp của bếp lửa đời và bếp lửa lòng người. (dẫn chứng)

+ Từ bếp lửa, tình cảm của bà  đã được  hình tượng hóa trở thành ngọn lửa, là một hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn….Bếp lửa trong kí ức tuổi thơ chính là hiện hữu của một tình yêu nồng nàn, đượm đà mà bà dành cho cháu.

+ Trong tình cảm của bà có tình yêu quê hương, đất nước của những người xa quê, nhớ bà là nhớ quê hương đất nước.

  • Kết bài:

– Hành trình từ bếp lửa đời đến bếp lửa trong thơ Bằng Việt là hành trình của tình yêu, nỗi nhớ, sự biết ơn và sức sống mãnh liệt.

– Bếp lửa trong dòng hồi tưởng nhưng sẽ rực sáng với ngọn lửa  tình yêu và niềm tin mãnh liệt, không bao giờ vụt tắt.


ĐỀ SỐ 12.

Sự giản dị, xúc động và ám ảnh của bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy).

Mở bài:   

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy và bài thơ Ánh trăng.

– Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Sự giản dị, xúc động và ám ảnh của bài thơ Ánh trăng.

  • Thân bài:

1. Giải thích vấn đề:

Giản dị: Sự bình dị, mộc mạc, không cầu kì, hoa mĩ. Giản dị trong văn chương không đồng nhất với đơn giản, dễ dãi.

Xúc động: Là tiếng lòng, sự dồn nén cao độ của cảm xúc được chính nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm. Từ tiếng lòng của thi nhân, bằng thơ và qua thơ đến với người đọc, khơi gợi trong lòng người đọc những rung cảm, tình cảm đẹp đẽ.

Ám ảnh: những giá trị sâu sắc gợi cho người đọc những trăn trở nghĩ suy, những cảm xúc không thể nào quên.

→  Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ hội tụ đầy đủ ba yếu tố: giản dị, xúc động và ám ảnh.

2. Chứng minh:

* Sự giản dị trong Ánh trăng:

– Đề tài: Bài thơ lấy đề tài ánh trăng, vầng trăng- một đề tài quen thuộc trong thơ ca dân tộc.

– Bài thơ có chủ đề rất quen thuộc, bắt nguồn từ truyền thống đạo lí của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Để thể hiện nội dung chủ đề, nhà thơ chọn trăng – hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, hồn nhiên, khoáng đạt, tươi mát, làm biểu  tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời sống, gợi nhắc con người có thái độ sống ân nghĩa. thủy chung.

Thể thơ và cấu trúc: Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn rất bình dị. Bài thơ mang dáng dấp của một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, theo dòng cảm nghĩ của tác giả, có sự kết hợp hài hoà, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.

Giọng điệu, ngôn ngữ tự nhiên như lời tâm tình sâu lắng, nhịp thơ khi thì trôi chảy, nhịp nhàng theo lời kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc.

* Những xúc động và ám ảnh của bài thơ Ánh trăng chủ yếu thể hiện qua nội dung tư tưởng bài thơ:

– Tình cảm giữa người và trăng trong quá khứ: tình cảm giữa người và trăng chân thành, sâu nặng. Mạch thơ khiến người đọc xúc động, ám ảnh bởi một quá khứ gian lao nhưng đẹp đẽ, nghĩa tình.

– Tình cảm giữa người và trăng theo thời gian:

+ Theo thời gian, cách cư xử của con người khiến ta trăn trở, day dứt. Cuộc sống hiện đại, hào nhoáng nơi thị thành đã khiến con người quên đi quá khứ, quên đi người bạn nghĩa tình năm xưa.

+ Vầng trăng, ánh trăng đã được nhân cách hóa như con người, có tâm hồn, có lẽ sống. Trăng khiến chúng ta xúc động và ám ảnh bởi lối sống tình nghĩa, thủy chung, nhân ái, vị tha mà cũng rất nghiêm khắc.

+ Trăng đưa người trở về với quá khứ, để gợi nhắc bài học sâu sắc, thấm thía về lẽ sống cao đẹp, ân tình, thủy chung, nghĩa tình với quá khứ.

 3. Đánh giá:

– Bài thơ giản dị từ đề tài, chủ đề đến hình ảnh, câu chữ, giọng điệu…

– Bài thơ là bức thông điệp mà tác giả gửi đến cho những người lính vừa bước ra khỏi chiến trường, đồng thời cũng là thông điệp cho tất cả chúng ta: hãy trân trọng quá khứ, hãy sống trọn đạo nghĩa: Uống nước nhớ nguồn.

  • Kết bài:

– Khẳng định lại nội dung bàn luận.

– Liên hệ: cần kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức Uống nước nhớ nguồn.


ĐỀ SỐ 13.

Trong bài thơ “Con cò”, Chế Lan Viên đã viết:

“Lớn lên, lớn lên, lớn lên …
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn …”

Theo em, vì sao trong lời ru thấm hơi xuân ấy, người mẹ lại mong con con lớn lên làm thi sĩ? Từ mong ước của người mẹ trong bài thơ, em có suy nghĩ gì về vai trò của văn chương trong việc bồi đắp tâm hồn con người?

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề nghị luận.

  • Thân bài:

1. Giải thích ý kiến: Vì sao người mẹ lại mong con mình lớn lên làm thi sĩ?

– Vì muốn làm thi sĩ để mang lòng từ tâm như một thứ hương hoa thuần khiết dâng cho cõi đời, để lưu giữ cái đẹp, cội nguồn nhân bản cho cuộc đời.

– Làm thi sĩ để cánh cò trong trắng của con lại bay hoài trong cõi thơ mênh mông, đánh thức những xao động tế vi và ngọt ngào của tâm hồn con người, của tâm hồn nhân loại.

– Mẹ mong con làm thi sĩ là để thoát khỏi những toan tính trần tục để hướng vào thế giới nội tâm của tâm hồn.

– Nếu con không thể trở thành một nhà thơ thì mẹ cũng mong con sẽ có trái tim của một thi sĩ đích thực …

2. Từ mong ước của người mẹ trong bài thơ, suy nghĩ về vai trò của văn chương trong việc bồi đắp tâm hồn con người:

– Nếu các bộ môn Khoa học tự nhiên như Toán, Lí, Hóa … bồi đắp cho con người trí tuệ thì văn chương lại bồi đắp cho tâm hồn con người:

– Giúp con người biết yêu cái tốt, cái thiện, cái cao cả; căm ghét cái xấu xa, cái ác, cái thấp hèn …

– Biết đồng cảm, chia sẻ với nỗi đau của đồng loại

– Biết nuôi dưỡng ước mơ và hi vọng sống tốt đẹp

– Biết phê phán, đấu tranh, loại bỏ sự bất công, ngang trái, chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống con người

– Biết sống có lòng tin, lòng tốt và lòng yêu thương con người trong cuộc sống ….

→ Tóm lại, văn chương chân chính sẽ làm cho tâm hồn con người phong phú hơn, tinh tế hơn, sâu lắng hơn, nhân bản hơn và giúp con người hướng thiện, góp phần cho cuộc đời này ngày càng trở nên tươi đẹp hơn.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 14.

Nhà thơ Pháp Andre Chanien từng nói: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ.”

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải.

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề.

  • Thân bài:

1. Giải thích:

– Nghệ thuật: Là những đặc sắc về hình thức (ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu…)

– Trái tim: Là thế giới của đời sống tâm hồn, tình cảm, tâm nguyện… với những rung động thẩm mĩ nhạy cảm thể hiện thiên chức của người nghệ sĩ.

+ Để có những bài thơ hay đòi hỏi người nghệ sĩ vừa phải có tài, vừa phải có tâm.

– Đây là ý kiến nhằm khẳng định, đề cao thiên chức của nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật.

2. Làm sáng tỏ qua “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:

– Những đặc sắc về nghệ thuật: thể thơ năm tiếng, nhạc điệu trong sáng, tha thiết, hình ảnh thơ đẹp, giản dị, sáng tạo…

“Trái tim” của thi sĩ: mặc dù sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời trên giường bệnh nhưng tiếng lòng nhà thơ vẫn tha thiết yêu mến và gắn bó với thiên nhiên, đất nước, với cuộc đời; ước nguyện chân thành được cống hiến, được góp một “mùa xuân nho nhỏ” vào mùa xuân lớn của dân tộc…

3. Đánh giá:

– Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ vừa đặc sắc về nghệ thuật, vừa tiêu biểu cho “trái tim” của nhà thơ.

– Ý kiến của Andre Chenien giúp ta cảm nhận sâu sắc và trân trọng tài năng, trái tim của người nghệ sĩ…

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề.


ĐỀ SỐ 15.

Có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng thể hiện tình yêu và khát vọng được cống hiến cho đời của Thanh Hải. Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến trên.

  • Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, dẫn dắt vấn đề nghị luận.

  • Thân bài:

 – Tiếng lòng thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước:

+ Tình yêu mùa xuân của thiên nhiên: Bức tranh mùa xuân tươi tắn, thơ mộng với những hình ảnh: dòng sông xanh, bông hoa tím, chim chiền chiện hót vang trời…  Nhà thơ đã cảm nhận bằng mọi giác quan, hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa; mùa xuân được đón nhận  bằng một tình yêu tha thiết, tâm hồn lạc quan

+ Cảm xúc trước mùa xuân đất nước, tác giả hướng tình cảm của mình đến những con người cụ thể của quê hương dân tộc: các điệp từ “mùa xuân”, “lộc”, “người” có ý nghĩa khái quát về cuộc sống, chiến đấu, lao động của nhân dân; nghệ thuật lặp cấu trúc “tất cả như” và lối so sánh trực tiếp diễn tả không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức.

+ Từ những con người cụ thể nhà thơ suy ngẫm về đất nước trong cảm nhận khái quát cùng cái nhìn suốt chiều dài lịch sử vừa xúc động vừa tự hào (Đất nước như vì sao….)

 – Khát vọng cống hiến cho đời:

+ Nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời với khát vọng hòa nhập và dâng hiến cho mùa xuân chung của đất nước: nguyện làm con chim hót, cành hoa, nốt trầm trong bản hòa ca chung của đất nước, “Mùa xuân nho nhỏ” – một sáng tạo bất ngờ độc đáo, ẩn dụ về khát vọng, lẽ sống, ý thức cao đẹp, quan niệm sống đẹp, có trách nhiệm, việc cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên, thầm lặng, khiêm tốn như con chim cho tiếng hót, bông hoa dâng sắc hương….

+ Nhà thơ bộc lộ niềm yêu mến tự hào với cuộc đời trong tiếng hát tự nguyện – muốn hát lên điệu hát của quê hương xứ Huế.

– Thể thơ 5 chữ mang âm hưởng gần gũi với dân ca; hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị, giàu ý nghĩa khái quát biểu trưng; ngôn ngữ thơ trong sáng, giàu nhạc điệu; sử dụng nhiều biện pháp tu từ; cấu tứ chặt chẽ; giọng điệu thơ linh hoạt…

→ Bài thơ như một sự tổng kết đánh giá về cuộc đời nhà thơ, một cuộc đời dâng hiến trọn vẹn cho dù bệnh tật, ốm đau thậm chí cái chết kề cận. Điều đó thể hiện một bản lĩnh, một tình yêu cuộc sống mãnh liệt, một khát vọng sống đẹp.

  • Kết bài: 

Khẳng định lại vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 16.

So sánh ước nguyện của Thanh Hải trong “Mùa xuân nho nhỏ” và ước nguyện của Viễn Phương trong “Viếng lăng Bác”.

  • Mở bài:

– Ai cũng có những ước muốn của riêng mình, ước muốn ấy có thể bình thường, giản dị nhưng cũng có thể là khao khát nguyện vọng thực hiện được khi thoát khỏi cái tôi cá nhân hóa thân, hòa nhập vào cộng đồng. Đứng trước thiên nhiên tươi đẹp của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải đã thể hiện khát vọng dâng hiến mùa xuân của mình vào mùa xuân chung đất nước qua bài thơ “Mùa Xuân nho nhỏ”. Hay đó là niềm thành kính, nỗi xúc động chân thành của Viễn Phương lần đầu ra thăm lăng Bác được bộc lộ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.

  • Thân bài:

1. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:

– Mùa xuân gợi cho con người niềm tha thiết và hi vọng, dù ở cái tuổi gần đất xa trời và những ngày trên giường bệnh nhưng Thanh Hải vẫn bộc bạch tâm niệm của mình:

Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến

– Điệp ngữ “ta làm” cộng với nhịp thơ dồn dập diễn tả khát vọng thôi thúc mãnh liệt trong lòng nhà thơ. Đó là khát vọng góp một phần nhỏ bé của mình để tô điểm cho mùa xuân quê hương.

– Ước nguyện làm con chim để mang tiếng hát cho đời thêm rộn ràng, một cành hoa để khoe sắc trước ánh mặt trời tô điểm cho vẻ đẹp của cuộc sống, một nốt trầm góp nên bản hòa ca xao xuyến. Những nguyện ước ấy không cao xa, không ồn ào chứng tỏ nhà thơ rất khiêm tốn và mong muốn được cống hiến lặng thầm đời mình. Tiếng chim ấy, cành hòa ấy, khúc ca ấy đều là tấm lòng của nhà thơ để mừng cho ngày xuân thống nhất của quê hương, mừng cho xứ Huế thanh bình, mỗi ngày càng phát triển.

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

– Thái độ sống tích cực, lạc quan của một nhà thơ đã nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam và cho cả cuộc kháng chiến vẫn cho sự cống hiến của mình là lặng lẽ. Dẫu qua cái tuổi xuân của cuộc đời vẫn muốn cồng hiến sức lực của mình.

– Điệp ngữ “dù là” là lời nhắc nhở bản thân luôn cố gắng để đối đầu với tuổi già, bệnh tật. Theo nhà thơ, không chỉ tuổi trẻ mới có nghĩa vụ đóng góp cho xã hội mà đó là nghĩa vụ của tất cả mọi người.

– Hình ảnh thơ gần gũi, mộc mạc, giọng thơ nhẹ nhàng, ngọt ngào như tiếng lòng thủ thỉ của chính nhà thơ. Ước nguyện đó là ước nguyện cao đẹp không cho riêng mình mà dành riêng cho cuộc đời.

2. Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.

Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

– Mặc dù đang đứng trước hình hài người lãnh tụ nhưng Viễn Phương đã lo sợ khi mai phải lìa xa nơi này. Nỗi thôi thúc trong lòng thành kính và tình cảm vô bờ đối với người lãnh tụ đã khiến nhà thơ bật lên thành tiếng khóc “thương trào nước mắt” ý thơ mộc mạc mà chân thành.

– Điệp ngữ “muốn làm” nhấn mạnh khát vọng được hóa thân để ở bên cạnh Người. Viễn phương muốn làm con chim để hót chào bình minh thức dậy trước lăng và mang tiếng hát say sưa cho Bác ngủ yên bình, muốn làm đóa hoa trước lăng khoe sắc, muốn làm cây tre canh giữ sự thiêng liêng. Hình ảnh cây tre Việt Nam được lặp lại phần đầu thêm vào phẩm chất trung hiếu để hoàn thiện tính cách của người Việt Nam: kiên cường, bất khuất, trung hiếu.

– Viễn Phương sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng giàu sức gợi cảm, tinh tế và khéo léo trong chọn lựa hình ảnh để bày tỏ tấm lòng thành kín của đứa con miền Nam khi đứng trước lăng Bác. Bài thơ truyền cho người đọc tình yêu mến vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân và thái độ sống ơn nghĩa, trung hiếu đối với đất nước.

3. So sánh:

– Điểm giống nhau:

+ Cả hai đoạn thơ đều thể hiện ước nguyện chân thành, tha thiết được hoà nhập, cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước, nhân dân… Ước nguyện khiêm nhường, bình dị muốn được góp phần dù nhỏ bé vào cuộc đời chung.

+ Các nhà thơ đều dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên là biểu tượng thể hiện ước nguyện của mình.

– Điểm khác nhau:

+ Thanh Hải viết về đề tài thiên nhiên đất nước và khát vọng hòa nhập dâng hiến cho cuộc đời.

+ Viễn Phương viết về đề tài lãnh tụ, thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng tha thiết thành kính khi tác giả từ miền Nam vừa được giải phóng ra viếng Bác Hồ.

  • Kết bài:

– Dù ngày Viễn Phương ra viếng lăng Bác đã rất xa, Thanh Hải thì không còn nhìn thấy mùa xuân quê hương mình nữa. Nhưng mỗi nhà thơ đều để lại những dòng thơ chan chứa, ấm áp về tình người, tình cảm sâu nặng với quê hương, xứ sở.


ĐỀ SỐ 17.

Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tình yêu làng của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” được nhà văn Kim Lân viết lại thật chân thành và cảm động.

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tình yêu làng của những người con yêu quê hương được thể hiện như thế nào? Hãy viết bài văn nghị luận nêu suy nghĩ về tình cảm thiêng liêng đó?

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề nghị luận.

  • Thân bài:

1. Tình yêu làng của ông Hai trọng truyện ngắn “Làng”:

– Ông Hai có tình yêu làng thật đặc biệt:

+ Ông rất tự hào về ngôi làng của mình, đi đến đâu ông cũng khoe làng ( dẫn chứng)

+ Trong thời gian tản cư nghe tin làng theo giặc ông đau khổ tận cùng, khi nghe tin cải chính ông vui sướng vô cùng ( dẫn chứng)

– Tình yêu làng của ông Hai giản dị mà sâu sắc, gắn bó với tình yêu nước.

2. Suy nghĩ về tình yêu làng trong cuộc sống hiện tại:

– Có điểm giống với ông Hai: yêu mến, tự hào về làng quê của mình

– Nhưng cũng có điểm khác:

+ Người dân hôm nay không phải chiến đấu với giặc để bảo vệ làng quê của mình

+ Sống trong hòa bình, độc lập, người dẫn đã hăng hái phát triển kinh tế, tích cực tham gia các hoạt động….làm thay đổi diện mạo quê hương ( dẫn chứng)

+ Có những người xa quê vẫn nhớ về quê hương, bản quán, họ vẫn hướng về quê bằng tình yêu và bằng cả những hành động thiết thực như quyên góp, công đức để xây dựng làng xã….. ( dẫn chứng)

– Tuy nhiên tình yêu làng ở một số người bị phai nhạt: khinh miệt  làng quê nghèo đói, tự bỏ quê hương, không nhớ tới quê hương dẫu đã thành đạt ….Những nguwoif như thế thât đáng lên án.

→ Đánh giá chung: Dẫu ở thời đại nào, tình yêu làng cũng là một biểu hiện giản dị mà sâu sắc của tình yêu đất nước.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


 ĐỀ SỐ 18.

Hình ảnh con người Việt Nam trong chiến tranh qua hai truyện ngắn “Làng “(Kim Lân) và “Chiếc lược ngà “ (Nguyễn Quang Sáng).

  • Mở bài:

– Giới thiệu về truyền thống yêu nước, yêu làng quê của dân tộc VN.

– Giới thiệu hai tác phẩm: “Làng” (Kim Lân) và “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng) à viết về hình ảnh con người Việt Nam và tình cảm của họ trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.

– Nhận xét chung về phẩm chất, tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh được thể hiện qua hai tác phẩm trên.

  • Thân bài:

1. Con người Việt Nam hiện lên trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân.

– Yêu làng, tự hào về làng mình giàu đẹp. Say mê kể về làng – khoe làng một cách say mê, náo nức lạ thường.

– Yêu làng, ông Hai tự hào về những thành tích trong khánh chiến của làng, tự hào về tinh thần chiến đấu dũng cảm của làng ông trong chiến tranh.

– Khi xa làng đi tản cư, ông băn khoăn, ray rứt, tiếc nuối về những ngày tham gia chiến đấu cùng anh em đồng chí ở lại làng. Luôn quan tâm theo dõi tin tức của làng mình và mong ước được trở lại làng chiến đấu cùng anh em đồng chí.

– Khi nghe tin “Làng ông theo Tây “. Ông đau xót, tuỉ hổ, dằn vặt , rồi dẫn đến tuyệt vọng khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình ông đi, không cho ở nữa, vì gia đình ông là người làng theo Tây, việt gian bán nước(được miêu tả qua những diễn biến tâm lí phức tạp).

– Khi nghe tin “làng ông theo giặc ” được cải chính, ông mừng rỡ đi khoe với nhiều người, đến nhiều gia đình khoe làng ông chiến đấu kiên cường, rằng làng ông không phải theo Tây, rằng nhà ông bị giặc Tây đốt nhẵn…

→ Tóm lại, ở Ông Hai ,tình yêu làng quê hoà quyện, gắn chặt với tình yêu đất nước, thống nhất với tình cảm kháng chiến. Ông Hai là một điển hình cho những người nông dân sống mộc mạc, chân chất nhưng tâm hồn chứa đựng biết bao tình cảm đáng trân trọng: yêu làng quê, yêu đất nước, ủng hộ công cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tình cảm gắn bó với làng quê bộc lộ và trỗi dậy trong hoàn cảnh chiến tranh thật đặc biệt . Và họ luôn đặt quyền lợi của gia đình, tình yêu làng dưới tình yêu đất nước và quan trọng hơn bao giờ hết đối với họ là góp phần cho cuộc kháng chiến của dân tộc mau chóng đi đến thắng lợi.

2. Hình ảnh con người Việt Nam trong chiến tranh qua tác phẩm “Chiếc lược ngà”:

– Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, họ rời xa làng quê, rời xa người thân để ra đi, mang theo cả những tâm tư nỗi niềm, những nguyện ước đang canh cánh bên lòng. Anh Sáu ra đi khi con còn rất nhỏ. Tình cha con bị chia cắt bỡi chiến tranh ác liệt.

– Chính hoàn cảnh chiến tranh nghiệt ngã đã gây nên những bi kịch trong tình cha con của Anh Sáu, mà anh là người phải chấp nhận những đớn đau. Anh Sáu về phép mấy ngày nhưng đứa con gái yêu quý của Ông (bé Thu ) không nhận cha. Bom đạn, khói lửa của chiến tranh đã làm thay đổi một  phần trên nét mặt của người cha, làm cho Bé Thu không nhận ra được, vì không giống với người trong tấm ảnh. Thật cảm động, khi mà Bé Thu nhận ra cha thì đó cũng là lúc Anh Sáu phải ra đi…

– Chiến tranh không những gây nên những vết thương trên thân thể người lính mà còn gây nên cả những vết thương trong trái tim của họ.Dù đau đớn, nhưng họ vẫn hướng về phía trước, về cuộc chiến đấu, vầ Tổ quốc thân yêu…

– Khi con đã trưởng thành, đã hiểu ra được ý nghĩa của cuộc chiến đấu của thế hệ cha anh và sẵn sàng chờ đợi ngày chiến thắng để được đoàn tụ gia đình, thì đó chính là lúc người cha mãi mãi nằm lại nơi chiến trường xa xôi. Chiến tranh đã gây chia cắt và mất mát trong cuộc sống gia đình, trong tình cha con. Thế nhưng họ vẫn vượt qua để phụng sự Tổ quốc. Họ đã sống vì Tổ quốc, vì nhân dân mà quên mình…

  • Kết bài:

– Tóm lại, hình ảnh con người Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh thật đẹp đẽ. Dù trong hoàn cảnh đen tối như thế nào, họ vẫn vươn lên , vẫn hướng về Tổ quốc thân yêu với một tình yêu thiêng liêng ,cao cả…


ĐỀ SỐ 19.

Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp?

  • Mở bài: 

– Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài nông dân.  Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập tròng lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Nhân vật ông Hai trong truyện có những nét tình cảm cao đẹp và đáng quý đó.

  • Thân bài:

1. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi đi tản cư.

–  Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một quê hương để yêu thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Kháng chiến bùng nổ, người dân phải dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo dòng người ấy sơ tán đến một miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn khi phải xa làng.  Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.

– Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

– Ông luôn  tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được nhiều tin hay, những tin chiến thắng của quân ta,  ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.

2. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:

– Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy  ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.

– Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại, dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.

– Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam –nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”

– Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đang tự hào… Nhưng giờ đây…. dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.

– Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.

+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”.  Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”.

3. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng được cải chính.

– Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai  thật là sâu sắc và cảm động.

– So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng của Đảng, Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có những điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có những phẩm chất của những người nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất phác, lương thiện. Khi cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho mỗi người nông dân. Từ một thân phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ cuộc đời, làm chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình yêu quê hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu nặng, nồng cháy.

– Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.

– Văn hào I-E- ren – bua có nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc”. Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.

4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai.

– Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt.

+  Nhà văn  đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật.

  • Khi nghe tin làng theo giặc thì bị dằn vặt, đau khổ: “ông Hai cứ cúi gằm mặt xuống mà đi” rồi “nắm chặt hai bàn tay mà rít lên : “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Những ngày sau đó, “ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. …… thôi lại chuyện ấy rồi”.
  • Khi tin đồn được cải chính thì “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.  “Ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin đồn ấy với mọi người”.

+ Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại….)

  • Kết bài

– Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng một người nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên chất phác nhưng xúc động. Hình tượng nhân vật ông Hai vừa phản ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc. Qua truyện ngắn này, ta có thể hiểu được một cách sâu sắc thêm về hình ảnh những người dân kháng chiến Việt Nam với tình yêu quê hương đất nước.


ĐỀ SỐ 20.

Với truyện ngắn “Làng”, Kim Lân muốn nói với chúng ta : “Cách mạng và kháng chiến chẳng những không làm mất đi tình yêu làng quê truyền thống mà còn đưa đến cho tình cảm ấy những biểu hiện hoàn toàn mới mẻ”.

Hãy làm rõ nhận định trên qua việc phát triển  niềm hãnh diện của ông Hai về làng chợ Dầu và nỗi đau buồn tủi hổ khi ông lầm tưởng làng ông theo giặc.

  • Mở bài :

– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả và tác phẩm

– Trích dẫn ý kiến: “Cách mạng và kháng chiến chẳng những không làm mất đi tình yêu làng quê truyền thống mà còn đưa đến cho tình cảm ấy những biểu hiện hoàn toàn mới mẻ”.

  • Thân bài

1.Tình yêu, niềm hãnh diện của ông Hai với làng chợ Dầu, một tình cảm truyền thống của người  nông dân Việt Nam.

– Ông luôn khoe làng, nhớ về làng, nhớ anh em xẻ đắp ụ, hào…. nhớ khóa bình dân học vụ ở làng….  Làng chợ Dầu luôn là ruột thịt, gắn bó, là nỗi nhớ của ông.

2. Biểu hiện mới mẻ.

– Tình yêu làng gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến ở làng chợ Dầu.

– Tất cả buồn vui của ông đều gắn với làng, với cách mạng. Những lời tuyên truyền của ông đều liên quan đến làng quê, đến kháng chiến, đến cách mạng.

+ Vừa nghe tin, ông quay phắt lại, lắp bắp – ý nghĩ làng quê luôn thường trực, ám ảnh. Ông nói nhanh trong tâm trạng lo lắng.

+ Cổ nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, cảm giác bàng hoàng, sững sờ khi nghe tin dữ, tủi hổ đến tê dại.

+ Tin đột ngột + nỗi đau xót khiến ông Hai lặng người đi tưởng như không thở được.

→ Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể nỗi đau đớn xót xa của ông khi lầm tưởng làng ông theo tây. Càng yêu làng bao nhiêu, ông Hai càng tủi hổ bấy nhiêu trước cái tin dữ ấy.

–  ông đứng lảng ra chỗ khác, không dám nhận mình là người làng chợ Dầu. Cảm giác tủi hổ đeo bám -> ông cúi gằm mặt xuống mà đi.

– Ông lão đau khổ, nước mắt cứ giàn ra, không biết trút nỗi đua khổ vào đâu, ông đau đớn rít lên :…

– Suy nghĩ , tâm trạng chủ yếu của ông được thể hiện qua hành động, câu nói, cử chỉ – những yếu tố miêu tả bên ngoài. Có độc thoại nội tâm nhưng rất ít, phù hợp với ông Hai,một nông dân chất phác, giản dị. Chi tiết thể hiện tình cảm rất mộc mạc, giản dị, rất nông dân.

– Tin làng theo giặc cứ ám ảnh ông, ông không dám đi đâu

–  Không có ai để thổ lộ tâm sự, ông trò chuyện với đứa con để vơi bót nỗi khổ tâm, dằn vặt trong lòng ông. ông nói như để ngỏ lòng mình, như để minh oan cho lòng mình nữa, cho vơi bớt nỗi nhớ thương.

– Lời của trẻ nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với cách mạng, với kháng chiến. Ông cảm động, nước mắt giàn ra, nói với con hay chính là tự nhủ lòng mình.

→ Khẳng định tình cảm sắt son của ông, của người dân làng chợ Dầu với cách mạng. ông muốn minh oan cho mình hay cho làng quê, nơi chôn rau cắt rốn của ông.

→ Kim Lân đã thể hiện hết sức mộc mạc, chân quê nhưng sâu sắc tình yêu làng quê, yêu kháng chiến, cách mạng của người nông dân.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 21.

Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long), nhân vật người hoạ sĩ nghĩ rằng: “Ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật (…) trong cuộc hành trình vĩ đại là cuộc đời”.

Em có đồng ý với suy nghĩ trên không? Bằng những hiểu biết về mối quan hệ giữa nghệ thuật (nói chung) và văn học (nói riêng) với hiện thực cuộc sống, em hãy viết bài văn đối thoại với nhân vật người hoạ sĩ.

  • Mở bài:

Giới thiệu vấn đề.

  • Thân bài:

1. Giải thích:

+ Cuộc đời đa chiều, đa diện, vô cùng phong phú, phức tạp (cuộc hành trình vĩ đại), vì thế nghệ thuật không dễ gì phản ánh được tất cả mọi phương diện, khía cạnh của cuộc đời (sự bất lực của nghệ thuật).

(+ Nghệ thuật cũng có nhiều hạn chế trong việc tác động đến con người và cuộc sống.)

2. Bày tỏ suy nghĩ của bản thân:

+ Ý kiến của người hoạ sĩ khi nói về giới hạn của nghệ thuật là đúng. Là một hình thái ý thức xã hội, một sản phẩm thẩm mĩ độc đáo nảy sinh trong quá trình sáng tạo theo quy luật cái đẹp, nhiệm vụ của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng là phản ánh đời sống. Tuy nhiên, thực chất của việc phản ánh hiện thực là phản ánh cách nghĩ của nhà văn về hiện thực. Mặt khác, cuộc sống luôn biến đổi không ngừng, “sự thật hôm nay không thật đến ngày mai” (Xuân Diệu), mọi biểu hiện của cuộc sống là vô cùng đa dạng, khó có thể nắm bắt. Do đó chẳng dễ gì để nghệ thuật thể hiện hết mọi góc, mọi mảng, mọi màu, mọi vẻ của đời sống.

+ Cũng vậy, do phụ thuộc vào người đọc, nghệ thuật rất khó tác động đến đời sống. Tuy nhiên với tài năng sáng tạo nghệ thuật và tâm huyết đối với cuộc đời, các nghệ sĩ vẫn không ngừng lao tâm khổ tứ để sáng tạo nên những tác phẩm vừa miêu tả sâu sắc hiện thực vừa thể hiện rõ nét tư tưỏng, tình cảm của người sáng tác. cần thấy rằng nghệ thuật tuy không tái hiện được tất cả những thứ hiện diện trong đời sống nhưng nghệ thuật vẫn khắc hoạ được bản chất của cuộc đời với những nét cốt lõi, đáng chú ý nhất.

+ Cũng thế, qua con đường tác động đến tình cảm con người, qua bạn đọc tích cực, nghệ thuật cũng có những tác động một cách hiệu quả đến cuộc sống.

Phân tích một số tác phẩm nghệ thuật (nói chung) và văn học (nói riêng) để đối thoại với nhân vật người hoạ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật với hiện thực cuộc sống. Cần thấy được nghệ thuật (nói chung) và văn học (nói riêng) đã giúp ta thấy được hiện thực xã hội lẫn hiện thực tâm trạng của con người. Ví dụ: Truyện Kiều cho thấy sự thối nát của xã hội phong kiến, bên cạnh đó là bi kịch và vẻ đẹp tâm hồn của nàng Kiều, Lặng lẽ Sa Pa vẽ ra không khí hăng say xây dựng đất nước và những tình cảm đẹp của con người với quê hương, với người xung quanh,…

3. Đánh giá, nhận xét:

+ Nhận định của nhân vật người hoạ sĩ cho thấy ý thức về những giới hạn của nghệ thuật trong việc phản ánh cuộc đời. Thế nên, mỗi nghệ sĩ phải không ngừng cố gắng rèn ngòi bút, luyện tài năng để rút ngắn những giới hạn ấy.

+ Nghệ thuật phản ánh cuộc sống chứ không phải chạy theo cuộc sống. Người nghệ sĩ nên chú ý đến chiều sâu của hiện thực được phản ánh hơn là bề rộng của hiện thực được phản ánh.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 22.

Đọc truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, tuổi trẻ chúng ta cảm nhận được bao điều bổ ích, thú vị: cuộc đời thật đẹp và đáng yêu; chung quanh ta có biết bao con người đẹp, tâm  hồn họ, việc làm của họ làm ta cảm phục, kính yêu.

Em có suy nghĩ gì về ý kiến trên? Liên hệ với thực tế cuộc sống hiện nay.

  • Mở bài:

– Giới thiệu về Nguyễn Thành Long và truyện ngắn Lặng Lẽ Sa Pa.

– Bày tỏ sự tán đồng về ý kiến nêu ở đề bài.

  • Thân bài:

– Những con người trong Lặng Lẽ Sa Pa là những con người đẹp, tâm hồn họ, việc làm của họ làm ta cảm phục, kính yêu.

+ Anh thanh niên có một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: một mình trên đỉnh Yên Sơn, cao 2600 mét, thách thức lớn nhất của anh đó là sự cô độc. anh yêu công việc, tự giác và có tinh thần trách nhiệm cao. Anh có những suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và công việc. anh tự tạo cho mình cuộc sống ngăn nắp, thú vị và chủ động. anh sống hồn nhiên, chân thực, cởi mở và khiêm tốn (dẫn chứng, phân tích)

+ Ông kĩ sư vườn rau lặng lẽ nghiên cứu cách tạo ra su hòa to hơn, ngọt hơn để phục vụ nhân dân. người cán bộ khoa học 11 năm ròng lập bản đồ sét…

+ Họ là những con người lao động bình dị, lặng lẽ, sống và cống hiến hết mình cho đất nước. nhờ có họ, chúng ta thấy cuộc đời đẹp hơn, đáng yêu hơn.

– Liên hệ với cuộc sống hiện nay: cuộc sống hiện nay thay đổi rất nhiều so với năm 1970. Thời buổi kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ sống bon chen, giành giật, vun vén cá nhân…làm rạn nứt nhiều mối quan hệ tốt đẹp.

– Tuy nhiên, có rất nhiều người tốt, việc tốt đáng quý, đáng khâm phục (dẫn chứng)

  • Kết bài:

– Rút ra bài học cho bản thân: xác định cách sống đúng đắn

– Có niềm vui, niềm tin vào cuộc đời.


ĐỀ SỐ 23.

Có người nhận xét “Lặng lẽ Sa pa” là một bài thơ bằng văn xuôi ngợi ca vẻ đẹp trong sự  lặng lẽ tỏa hưong của thiên nhiên và con người.

Phân tích truyện ngắn “ Lặng lẽ sa pa” của Nguyễn Thành Long để làm rõ ý kiến trên.

  • Mở bài:

Giới thiệu được tác giả, tác phẩm và vấn đề sẽ phân tích .

  • Thân bài:

1. Giải thích ngắn gọn nhận xét của đề.

– Bài thơ bằng văn xuôi, áng văn xuôi giàu chất thơ, ca ngợi vẻ đẹp lặng lẽ thơ mộng của thiên nhiên và con người.

2. Phân tích chất thơ của truyện.

  a/ Vẻ đẹp thiên nhiên SaPa

  • Hình ảnh mây rơi xuống đường, luồn cả vào gầm xe, khiến ta có cảm tưởng như đi trên mây.
  • Hình ảnh nắng chiều mạ bạc cả con đèo, đất trời như tỏa sáng.

b/ Vẻ đẹp của con người SaPa.

  • Nhân vật chính, anh thanh niên , và một số nhân vật phụ; ông họa sĩ, cô kĩ sư mới ra trường, ông kĩ sư chờ rét………..
  • Cái lặng lẽ của công việc ầm thầm ít ai biết đến trong một không gian vắng lặng.
  • Trong cái lặng lẽ của đất trời, công việc là những con người, những tâm hồn không lặng lẽ, vì họ đanglàm những công việc có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước; là sự hăng say trong công việc, hiến mình cho công việc cho, đất nước, cho nhân dân.

→ Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn bình dị, khiêm tốn và hồn nhiên của những con người ở SaPa.

3. Đánh giá chung.

– Khẳng định lại vấn đề và giá trị của tác phẩm “Lặng lẽ SaPa” là một áng thơ bằng văn xuôi ca ngợi vẻ dẹp của thiên nhiên và con người lao động, nhưng tri thức mới đang thầm lặng hiến dâng tất cả sức lực và tuổi trẻ cho nhân dân, cho đất nước

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 24.

Hình ảnh người lao động mới trong các tác phẩm : “Lặng lẽ Sa Pa”của Nguyễn Thành Long, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.

  • Mở bài:

Giới thiệu vấn đề: Hình ảnh người lao động mới trong hai tác phẩm : “Lặng lẽ Sa Pa”của Nguyễn Thành Long, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.

  • Thân bài:

1. Giới thiệu chung:

– Họ là những người có trái tim giàu tình yêu lao động , yêu con người, yêu quê hương đất nước. Ở họ tràn đầy niềm lạc quan, niềm tin yêu cuộc sống, đang âm thầm lặng lẽ đem hết tài năng và sức lực của mình cống hiến cho công cuộc xây dựng đất nước trên bước đường đi lên CNXH ở miền Bắc trong giai đoạn lúc bấy giờ.

2. Phân tích cụ thể :

a. Anh thanh niên trong truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa”:

– Yêu thích công việc, gắn bó, không rời khỏi vị trí làm việc một giờ nào, mặc dù nơi anh sống và làm việc là một đỉnh núi cao trên hai nghìn sáu trăm mét, quanh năm không một bóng người. Có lúc anh “ thèm người” đến độ cháy bỏng.

– Anh luôn vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để hoàn thành tốt công việc của mình, góp phần dự báo chính xác về thời tiết toàn miền Bắc, phục vụ sản xuất và chiến đấu.

– Anh luôn tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc thật  sự từ trong công việc của mình, nhất là khi công việc của anh mang lại kết quả cho công việc chung .

– Anh còn là người luôn có ý thức học tập không ngừng( qua sách báo), biết sắp xếp cuộc sống của mình ngăn nắp, cẩn thận. Anh biết tự chăm sóc cho cuộc sống vật chất và tinh thần cho bản thân: trồng hoa, nuôi gà… Đặc biệt, biết quý trọng, chân thành cởi mở và luôn quan tâm đến người khác.

→ Đó là những con người lao động đang ngày đêm lặng lẽ cống hiến cho đất nước.

b. Hình ảnh những ngư dân đánh cá giữa biển đêm trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá “ của Huy Cận:

– Họ say sưa làm việc trong tiếng hát thâu đêm: hát ra khơi, hát gọi cá vào lưới, tiếng hát gõ nhịp cùng trăng trời, hát căng buồm trở về khi cá đã đầy ắp khoan thuyền… Chính tình yêu , niềm say mê lao động đã tiếp thêm sức mạnh cho họ, giúp họ vượt qua bao lớp sóng điệp trùng . Họ rất khoẻ khoắn, vươn xa, làm chủ biển cả, “Ra đậu dặm xa dò bụng biển, dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Tầm vóc của họ trở nên phi thường ,kì vĩ, lớn ngang tầm với vũ trụ bao la…

– Họ làm việc trong niềm say mê và phấn khởi tự hào: tự hào về cuộc đời mới, làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình, tự hào về đất nước đang chuyển mình từng ngày trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tự hào về sự giàu đẹp của biển cả quê hương.

– Họ chiến đấu với sóng gió muôn trùng bằng nhiệt tình lao động, bằng niềm lạc quan tin tưởng vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong trái tim của những người lao động ấy luôn chất chứa tình yêu đất nước, niềm lạc quan tin tưởng về những bước phát triển đi lên của đất nước…

  • Kết luận:

– Hình ảnh của những người lao động trong hai tác phẩm đó thật tuyệt vời, thật đáng trân trọng. Hình ảnh của họ chính là vóc dáng của dân tộc một thời hào hùng đáng nhớ.


ĐỀ SỐ 25.

Sự khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua các tác phẩm Bếp lửa (Bằng Việt), Chiếc lược ngà ( Nguyễn Quang Sáng).

  • Mở bài:

Giới thiệu vấn đề.

  • Thân bài:
  1. Giới thiệu chung vài nét về đề tài tình cảm gia đình và sự khám phá thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình trong các tác phẩm văn học:

– Đó là tình cảm của những thành viên, thế hệ trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh em dành cho nhau); tình cảm của sự sinh thành, nuôi dưỡng, chở che, đùm bọc và tấm lòng ứng xử của những con người trong gia đình với nhau; vẻ đẹp tình cảm gia đình được các nhà văn, nhà thơ khám phá và thể hiện vừa có nét gần gũi vừa khác biệt; tình cảm gia đình lại được hoà quyện với tình yêu quê hương đất nước…

2. Phân tích sự khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai tác phẩm:

a. Vẻ đẹp tình bà cháu:

– Khám phá về tình bà cháu:

+Tình yêu bà dành cho cháu – tình cảm hết sức bình dị và thiêng liêng, một cuộc đời vất vả, tần tảo, giàu đức hy sinh vì con cháu, trải qua bao khó khăn nhưng ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin hy vọng bà luôn nhen nhóm trong người cháu thân yêu.

+ Vẻ đẹp của tình cảm người cháu dành cho bà qua sự hồi tưởng được thể hiện trong thi phẩm: yêu, hiểu, biết ơn, luôn nhớ tới bà.

– Cách thể hiện trong tác phẩm:

+ Xây dựng hình ảnh thơ vừa cụ thể, gần gũi, vừa gợi nhiều liên tưởng, mang ý nghĩa biểu tượng (hình ảnh bếp lửa).

+ Viết theo thể thơ tám chữ phù hợp với giọng điệu cảm xúc hồi ưởng và suy ngẫm.

+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.

b.Vẻ đẹp tình cha con:

– Khám phá về tình cha con:

+ Tình yêu thương sâu nặng người cha dành cho con: nhớ con, khao khát gặp con, nôn nao sung sướng khi được về thăm con; trong những ngày đoàn tụ luôn quan tâm, gần gũi chăm sóc con, mong chờ tiếng gọi cha của con; ở nơi chiến trường nhớ con, ân hận day dứt vì đánh con, dồn tình yêu, nỗi nhớ vào việc thực hiện lời hứa làm chiếc lược cho con, chỉ yên lòng nhắm mắt khi đồng đội nhận trao tận tay con chiếc lược.

+ Tình yêu thương mãnh liệt của người con dành cho cha: Kiên quyết, chối từ không nhận ông Sáu vì nghĩ rằng ông không phải là cha mình, trong lòng luôn tôn thờ yêu thương người cha trong tấm ảnh; khi hiểu ra, ân hận, tự hào về cha, bộc lộ tình cảm yêu cha một cách tự nhiên chân thành, mãnh liệt (qua tiếng gọi và hành động).

– Cách thể hiện trong tác phẩm :

+ Tạo tình huống truyện để thể hiện tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.

+ Cốt truyện chặt chẽ mang yếu tố bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý.

+ Lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp khiến câu chuyện chân thực, thể hiện xúc động tình cha con.

+ Nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em rất sinh động.

3. So sánh, đánh giá, mở rộng và nâng cao vấn đề:

– Những nét giống nhau trong việc khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai tác phẩm : tình yêu thương của sự chăm sóc, ân cần dạy dỗ, tấm lòng vị tha, đức hy sinh vì cháu, con – một tình cảm mang tính phổ quát.

– Những nét riêng trong việc khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai tác phẩm: hoàn cảnh, tình cảm, xuất phát từ mối quan hệ, tình cảm bà – cháu, cha-con…, và nét riêng trong hình thức thể hiện…

– Tình cảm gia đình là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá của mỗi con người, mỗi tác giả bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và lay thức tình cảm tốt đẹp của con người.

– Vẻ đẹp của tình cảm gia đình trong hai tác phẩm như những nét vẽ góp phần hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hoà quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước. Đây cũng là một mạch nguồn tình cảm được lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của văn học dân tộc nhưng luôn có những khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những nét riêng, một đặc trưng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề.


ĐỀ SỐ 26.

Trong đoạn trích “ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, Nguyễn Đình Chiểu đã để cho Lục Vân Tiên trả lời Kiều Nguyệt Nga khi nàng tỏ ý muốn mời chàng về nhà để đền ơn cứu mạn: “Làm ơn há để trông người trả ơn”.

Câu trả lời trên đã nêu lên một lẻ sống tốt đẹp ở đời như thế nào? Theo em, lý tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu có giá trị đến ngày nay không ? Hãy trình bày ý kiến của em.

  • Mở bài:

– Giới thiệu nhân vật Nguyễn Đình Chiểu và quan niệm sống của ông.

– Giới thiệu câu nói của Lục Vân Tiên.

– Nêu nội dung bình luận: giúp người không cần đền đáp.

  • Thân bài:

1. Giải thích:

– Trên đường lên kinh đô thi, Lục Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp Phong Lai cứu Kiều Nguyệt Nga, khi nàng chứng tỏ ý muốn đền ơn. Lục Vân Tiên đã từ chối

“Làm ơn há để trông người trả ơn”.

– Người anh hùng, kẻ trượng phu làm ơn, làm điều nghĩa không cần đền đáp

2. Khẳng định vấn đề trên là đúng:

– Lời từ chối thẳng thắn đã thể hiện phẩm chất cao đẹp của Lục Vân Tiên vì:

+ Chàng là người xứng đáng được hưởng sự đền ơn, đáp nghĩa của Kiều Nguyệt Nga.

+ Chàng “ tả đột hữu xung” đánh bọn cướp để cứu nàng.

+ Nhưng Lục Vân Tiên không nhận sự đền đáp – bởi chàng là một người hào hiệp, đầy nghĩa khí lấy việc nhân nghĩa làm lẻ sống cuả đời mình.

+ Lục Vân Tiên đã xác định lý tưởng sống của đời mình là:

“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

– Người anh hùng giữa đường gặp chuyện bất bình phải dẹp tan. Đó là nghĩa cử cao đẹp của Lục Vân Tiên. Vì thế không nhận của người đền ơn là một nét đẹp trong tình cảm, phù hợp với tính cách của nhân vật này.

3. Bàn luận mở rộng:

– Qua nhân vật Lục Vân Tiên ta hiểu thêm về lý tưởng nhân nghĩa của Nguyên Đình Chiểu. Ông luôn ca ngợi đề cao đạo đức tốt đẹp của nhân dân.

– Những nhân vật trong tác phẩm của ông đều là những người luôn luôn lấy việc nhân nghĩa làm lẻ sống, vô tư, không tính toán , khước từ mọi sự đền đáp.

+ Nhân vật ông Ngư cứu sống Lục Vân Tiên chẳng cần phải đền đáp: “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”.

– Đặt trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, một xa  hội đầy rẫy những xấu xa, thối nát, không ít những kẻ như Bùi Kiệm, Trịnh Hâm thì quan niệm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu là cao cả, đẹp đẽ, trong sáng tuyệt vời.

4.Liên hệ thực tế:

– Ngày nay, quan điểm sống của Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành quan điểm sống trong mỗi người:

+ Ở gia đình: Hàng loạt việc làm nhân nghĩa cuả bản thân, của bố mẹ, anh chị như dắc một em bé qua đương, giúp kẻ tàn tật đến nhà, cứu người bị tai nạn…

+ Ở trường lớp: Hàng loạt phong trào thể hịên nghĩa cử cao đẹp: mua tăm ủng hộ người mù, tấm áo tặng bạn, quyên góp sách vở , quần áo cho các bạn nghèo, giúp đở các bạn nghèo trong lớp …

+ Ở địa phương: dưới sự lãnh đạo của Đảng, của địa phương đã thực hiện hàng loạt chính sách nhân nghĩa: giúp đỡ người nghèo thoát nghèo trong làm ăn; xây dựng nhà tình thương cho các hộ nghèo; các hộ gia đình thương binh liệt sĩ; có công với cách mạng; chính sách khuyết khích người khuyến tật.

  • Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị của câu thơ.

– Ngày nay, quan điểm sống của Nguyễn Đình Chiểu vẫn là nét đẹp trong tình cảm đạo đức của nhân dân ta. Đạo lý ấy cần được phát huy để xây dựng một xã hội giàu đẹp và văn minh.


ĐỀ SỐ 27.

Vẻ đẹp của người anh hùng tài hoa, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ( Nguyễn Đình Chiểu- Truyện Lục Vân Tiên).

  • Mở bài:

– Truyện “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm có sức sống mạnh mẽ và lâu bền trong lòng nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ.

– Nhân vật chính trong tác phẩm là Lục Vân Tiên, một người anh hùng tài hoa, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài.

– Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu của truyện.

  • Thân bài:

a/ Lục Vân Tiên là người anh hùng tài hoa, dũng cảm:

– Trên đường xuống núi, về kinh đô ứng thi Vân Tiên đã đánh cướp để cứu dân lành:

“Tôi xin ra sức anh đào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”

– Mọi người khuyên chàng không nên chuốc lấy hiểm nguy vì bọm cướp thì quá đống mà lại hung hãn.

Dân rằng lẽ nó còn đây
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành
E  khi họa hổ bất  thành
Khi không mình lại xô  mình xuống hang”

– Trước một dối thủ nguy hiểm như vậy nhưng Vân Tiên  không hề run sợ.

“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”

-Vân Tiên đã quát vào mặt bọn chúng:

“Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

– Tướng cướp Phong Lai thì mặt đỏ phừng phừng trông thật hung dữ. Vậy mà Vân Tiên vẫn xông vô đánh cướp. Hình ảnh  Vân Tiên đánh cướp được miêu tả rất đẹp.

“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khácnào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”

– Hành động của Vân Tiên chứng tỏ là người vì việc nghĩa quên mình, cái tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu, chiến thắng những thế lực bạo tàn.

b/ Vân Tiên là người chính trực, trọng nghĩa kinh tài:

– Thái độ cư xử với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp lại bộc lộ tư cách con người chính  trực hào hiệp , trọng nghĩa khinh tài, cũng rất từ tâm, nhân hậu  của Lục Vân Tiên. Khi thấy hai cô gái chưa hết hãi hùng, Vân Tiên động lòng tìm cách an ủi họ và ân cần hỏi han.

Vân Tiên nghe nói dộng lòng
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la”

– Khi nghe họ nói muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên đã cười và khiêm nhường trả lời: “ Là ơn há đễ trông người trả ơn” .

– Quan niệm sống của Vân Tiên là cách cư xử mang tính thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Vân Tiên quan niệm:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng

  • Kết bài:

– Vân Tiên là người tài hoa, dũng cảm, chính trực hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài.

– Hình ảnh Lục Vân Tiên là hình ảnh đẹp, hình ảnh lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và ước vọng của mình.

– Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị gần với  lời nói thông thường trong nhân dân và mang đậm màu sắc địa phương Nam Bộ. Ngôn ngữ thiếu phần trau chuốt uyển chuyển nhưng lại phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng.


ĐỀ SỐ 28.

 “Văn học trung đại  nước ta sau những vấn đề đấu tranh xã hội, còn thường đề cập đến vấn đề đạo đức gia đình ,đặc biệt là luôn đề cao  những tấm gương hiếu thảo với cha mẹ ”

Qua một số  tác phẩm văn học trung đại mà em đã học trong chương trình ngữ văn 9  hãy  làm sáng tỏ nội dung “Văn học nước ta luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối vơi cha mẹ ” .

Theo em, trong thời đại ngày nay, vấn đề đạo đức gia đình có còn quan trọng không?  Vì sao?

Mở bài:

Giới thiệu vấn đề.

  • Thân bài:

1.Phân tích chứng minh làm rõ:“Văn học trung đại nước ta luôn đề cao những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ”:

– Văn học cổ luôn là tấm gương trung thực phản ánh những cuộc đấu tranh của dân tộc chống xâm lược ,những cuộc đấu tranh xã hội chống áp bức bất công. Nhưng bên cạnh đó ,văn học trung đại còn đề cập đến vấn đề đạo đức gia đình .Không ít tác phẩm trung đại đã nêu cao những hình ảnh cảm động ,những tình cảm đẹp đẽ về mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ :

– Vũ Nương  trong chuyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ  đã thay chồng ở nhà phụng dưỡng mẹ chồng khi chồng đi lính, chăm sóc chu đáo, dùng lời ngon ngọt khuyên lơn khi mẹ bị bệnh nặng, khi mẹ chồng lâm chung lo ma chay tế lễ như cha mẹ đẻ mình .

–  Nàng Thúy Kiều trong  “Truyện Kiều ”của Nguyễn Du, trong cơn gia biến đã hy sinh mối tình đầu  vừa chớm nở để làm tròn chữ hiếu ,Kiều quyết định bán minh chuộc cha và em trai thoát khỏi những trận đòn roi nơi chốn lao ngục

–  Trong những ngày lưu lạc nơi đát khách Kiều không nguôi nhớ thương cha mẹ

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ …….

– Chàng Lục Vân Tiên trong “Truyện Lục Vân Tiên”, hăm hở đi thi thế nhưng lúc sắp vào trường thi được tin mẹ mất phải bỏ thi trở về ,trên đường về nhớ thương mẹ khóc đến mù đôi mắt .

–  Nàng Kiều Nguyệt Nga trong truyện “Lục Vân Tiên” thân gái một mình vượt xa xôi vạn dặm  lo bề nghi gia theo lời dạy của cha “Làm con đâu dám cãi cha, ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành ….”

2. Vai trò đạo đức  gia đình  trong thời đại ngày nay:

– Đạo đức gia đình trong thời đại ngày nay đóng vai trò vô cùng quan trọng :

+ Đaọ đức gia đình, đặc biệt là tấm gương hiếu thảo giúp con người sống tốt đẹp hơn có nghĩa có tình …….

+ Đạo đức gia đình là thước đo nhân cách con người

+ Đạo đức gia đình còn làm cho xã hội văn minh

  • Kết bài:

Khẳng định vấn đề.


ĐỀ SỐ 29.

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét:“ Thơ không cần nhiều từ ngữ. Nó cũng không quan tâm đến hình xác của sự sống. Nó chỉ cần cảm nhận và truyền đi một chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh hồn thi sỹ ”. Em hiểu câu nói trên như thế nào? Bằng một tác phẩm văn chương trong chương trình Ngữ văn lớp 9 em hãy làm sáng tỏ?

  • Mở bài:

– Dẫn dắt và nêu vấn đề nghị luận

– Giới thiệu ý kiến của Nguyễn Đình Thi và nội dung cơ bản của một tác phẩm trích dẫn.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định

+Thơ không cần nhiều từ ngữ: Thơ không chú trọng miêu tả cụ thể, chi tiết hiện thực đời sống như đời sống vốn có mà chỉ nắm bắt lấy cái hồn vía, thần thái của cảnh vật.

+ Hiên thực được phản ánh trong thơ bao giờ cũng mang tâm sự, nỗi niềm của nhà thơ.

+ Mỗi nhà thơ phải có tài sử dụng nghệ thuật ngôn từ, ngôn ngữ phải cô đọng, hàm súc, giàu tính tạo hình.

→ Nhận định đã khái quát được tính hàm súc, cái thần thái, linh hồn của thơ ca.

2. Chứng minh qua một tác phẩm văn hoc trong chương trình Ngữ văn lớp 9 để làm sáng tỏ ba đăc điểm của nhận định bằng các luận điểm.

3. Đánh giá mở rộng.

– Khẳng định nội dung, nghệ thuật của tác phẩm đó.

– Tác phẩm làm sáng tỏ nhận định.

– Liên hệ một số tác phẩm cùng chủ đề.

  • Kết bài.

– Khẳng định ý nghĩa của tác phẩm đến tư tưởng, tình cảm của chúng

– Liên hệ bản thân.


ĐỀ SỐ 30.

“Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người.” (Nguyên Ngọc, “Báo văn nghệ” số ra ngày 21/10/1987)

Em hãy chọn hai trong bốn tác phẩm sau: Bếp lửa (Bằng Việt), Ánh trăng (Nguyễn Duy), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Nói với con (Y Phương) để bày tỏ ý kiến của mình về quan niệm trên.

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề: “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người.”

– Chọn tác phẩm phân tích.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

– Nghệ thuật chỉ phạm trù lớn, bao gồm cả văn học và các ngành nghệ thuật khác.

– Sự vươn tới, sự hướng về…tính người: Muốn nói tới sự khám phá, phản ánh vẻ đẹp nhân bản, nhân văn của nghệ thuật chân chính.

– “Nghệ thuật là… sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”, đó là vai trò cảm hóa, tác động tích cực, chức năng bồi bổ tâm hồn con người của văn học nghệ thuật.

→ Tóm lại, ý kiến của Nguyên Ngọc muốn đề cao nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng: luôn mang thiên chức cao cả là phản ánh, ngợi ca vẻ đẹp nhân tính của con người và vì thế, văn học nghệ thuật đảm nhận chức năng nhân đạo hoá con người, giúp con người hoàn thiện hơn.

2. Chọn hai trong bốn tác phẩm để phân tích: Bếp lửa (Bằng Việt), Ánh trăng (Nguyễn Duy), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Nói với con (Y Phương).

* Cơ sở lí luận:

+ Ý kiến đúng đắn, có sở từ lí luận về bản chất của nghệ thuật: Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng vươn tới các giá trị: chân, thiện, mĩ – phục vụ cho những nhu cầu chính đáng của con người…

+ Văn học nghệ thuật vừa là sản phẩm phản ánh đời sống một cách khách quan vừa là một hình thức biểu hiện tư tưởng tình cảm chủ quan, cũng là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người. Nó có nhiều chức năng trong đó có chức năng nhận thức và quan trọng hơn cả là chức năng giáo dục, nhân đạo hoá con người…

+ Là sản phẩm tinh thần của con người, do con người tạo ra để đáp ứng những nhu cầu trong đời sống nhất là đời sống tâm hồn, văn học chỉ thực sự có giá trị khi nói lên tiếng nói của tâm hồn con người, thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca, bảo vệcon người. Vì vậy hướng về tính nhân văn, tinh thần nhân đạo bao giờ cũng là vấn đề cốt yếu làm nên giá trị lâu bền của văn học chân chính…

+ Tác phẩm văn học thể hiện tính nhân văn và tinh thần nhân đạo qua nhiều phương diện: phê phán, tố cáo tội ác của những thế lực đã chà đạp quyền sống con người, tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, thấu hiểu, cảm thông tâm tư tình cảm, nguyện vọng ước mơ của con người giúp con người bày tỏ ước nguyện… Sự đa dạng này tuỳ thuộc ở cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật, phương pháp sáng tác của nghệ sĩ…

* Cơ sở thực tiễn – qua hai tác phẩm vừa chọn:

– Trình bày sơ lược nội dung tư tưởng nhân văn, vẻ đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam qua hai tác phẩm ấy. Chỉ ra được điểm tương đồng, sự đồng điệu giữa các nhà thơ trong cách khám phá và cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn con người. Học sinh phải phân tích làm rõ được cách thể hiện độc đáo của các nhà thơ trong việc phản ánh, níu giữ tính người cho con người qua tác phẩm của họ.

– Những tư tưởng trong tác phẩm của các nhà thơ có gì khác biệt nhau: tư tưởng, tình cảm mà mỗi nhà thơ gửi gắm qua tác phẩm của mình; những biện pháp nghệ thuật độc đáo trong việc truyền tải nội dung tư tưởng nhân văn, tình cảm của con người Việt Nam.

* Khái quát, đánh giá vấn đề bàn luận.

(Trong cả hai tác phẩm, thí sinh cần phân tích được các dẫn chứng tiêu biểu, bình luận bám sát nhận định)

2.3. Mở rộng, nâng cao vấn đề:

– Ý kiến của Nguyên Ngọc trở thành phương châm, nguyên tắc sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính; Đòi hỏi nhà văn phải có tầm nhìn sâu rộng, có tư tưởng nhân văn, nhân đạo…

– Quan điểm này cũng trở thành tiêu chí đánh giá văn học nghệ thuật đối với bạn đọc… Nguyên Ngọc đã góp phần khẳng định giá trị lớn lao, phong phú của văn học nghệ thuật đối với đời sống nhân sinh, đặc biệt là thiên chức cao cả: thanh lọc tâm hồn, nhân đạo hóa con người…

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề qua 2 tác phẩm đã phân tích.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang