»» Nội dung bài viết:
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng Đất nước qua các tác phẩm “Tây Tiến” (Quang Dũng), “Việt Bắc” (Tố Hữu), “Đất nước” (trích “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm), “Đất nước” (Nguyễn Đình Thi).
- Mở bài:
Đất nước là một chủ đề lớn, xuyên suốt toàn bộ quá trình văn học: từ văn học dân gian đến văn học viết. Chân thực và sinh động, Đất nước đã được tái hiện cụ thể qua mỗi trang thơ dân tộc. Trong văn học dân gian, hình tượng Đất nước hiện lên qua những bài ca dao trữ tình đằm thắm, hay những truyền thuyết hào hùng về quá trình dựng và giữ nước của cha ông ta. Tiếp nối mạch nguồn thiêng liêng ấy, văn học viết đã tạc nên một tượng đài Đất nước rất đỗi kiên cường bất khuất qua các áng văn “Nam quốc sơn hà”, “Đại cáo bình Ngô”…của văn học trung đại. Đến với văn học kháng chiến 1945- 1975, hơn bao giờ hết, Đất nước trở thành hình tượng trung tâm của văn học với khuôn mặt đa dạng đi qua những năm tháng chiến tranh gian khổ và mang lại cho người đọc những rung cảm mãnh liệt, đặc biệt là qua các thi phẩm: “Tây Tiến” của Quang Dũng, “Việt Bắc” của Tố Hữu, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đình Thi.
- Thân bài:
Đất nước trong văn học giai đoạn 1945 – 1975 qua các tác phẩm: Tây Tiến của Quang Dũng, Việt Bắc của Tố Hữu, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đình Thi hiện lên trong niềm tự hào về một tổ quốc giàu đẹp, về một dân tộc anh hùng tình nghĩa, trong đau thương vẫn bất khuất kiên cường. Hình tượng đất nước vừa độc đáo mới lạ lại vừa bình dị, sâu sắc.
1. Đất nước giàu và đẹp:
a. Vẻ đẹp thiên nhiên đất nước:
Thiên nhiên trong bài “Tây Tiến” là thiên nhiên miền Tây Bắc tổ quốc mang vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng trữ tình:
Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội:
Nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu …gợi những vùng đất xa xôi, hẻo lánh.
Thời tiết : sương núi, mưa rừng vô cùng khắc nghiệt: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi / Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Sương núi dày đặc, bao phủ cả núi rừng, che lấp cả đoàn quân. Người lính hành quân trong sương mù lạnh lẽo, mệt mỏi với cái lạnh tỏa ra từ đá núi, sương đêm.
Địa hình: nhiều đèo dốc, núi non hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thiên nhiên rừng núi hoang sơ, bí ẩn, thâm u nhiều thác ghềnh, thú dữ với biết bao hiểm nguy rình rập: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Thiên nhiên thơ mộng, trữ tình:
- Tây Tiến:
Những nếp nhà chìm trong mưa, hình ảnh cơm lên khói, hương nếp thơm ngày mùa…
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Cảnh sông nước với bến bờ mênh mông hư ảo trong buổi chiều sương với dáng người trên độc mộc và cánh hoa rừng đong đưa trên dòng nước lũ…
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
- Việt Bắc:
Với “Việt Bắc”, đất nước thật giàu đẹp. Tố Hữu đã đem đến cho ta những bức tranh tuyệt diệu về quê hương cách mạng Việt Bắc:
Một thiên nhiên mênh mông, hùng vĩ, đầy sức sống (rừng nứa – bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê….)
Một thiên nhiên vừa hiện thực vừa thơ mộng, thi vị và mang đậm nét đặc trưng của Việt Bắc khác hẳn những vùng quê khác: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, những bản làng mờ trong sương khói, bếp lửa hồng trong đêm, …
Một thiên nhiên đa dạng, phong phú, sinh động thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa với những khoảng không gian, thời gian khác nhau (sương sớm- nắng chiều- trăng khuya, nhất là vẻ đẹp bốn mùa – bức tranh tứ bình: xuân, hạ, thu, đông…)
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung…”
Bức tranh núi rừng Việt Bắc hiện lên đặc trưng cho cả bốn mùa. Vẻ đẹp ấy chỉ ai gắn bó tha thiết mới cảm nhận hết được cái đặc trưng của nó.
- Đất nước (Nguyễn Đình Thi):
Vẫn là Việt Bắc nhưng Nguyễn Đình Thi lại cảm nhận vùng đất này ở phát hiện rất riêng, Đất nước của ông bắt đầu từ Hà Nội:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”.
Cảm xúc về Hà Nội đã dẫn dắt vào cảm xúc đất nước. Từ hôm nay mà nhớ về hôm qua. Chỗ đứng của tác giả là giữa chiến khu Việt Bắc còn hoài niệm trở về là một phố phường Hà Nội xa xăm. Hai bờ thời gian ấy nối liền với nhau bằng cơn gió mùa thu, một tín hiệu mùa thu ngàn đời không đổi: cái mát trong và một chút hương trầm (hương cốm mới). Cơn gió hôm nay gợi về cơn gió ngày nào gần gũi đó mà rất xa xôi trong cái chớm lạnh đầu mùa, trong cái xao xác không gian: “những phố dài xao xác hơi may”. Phải có một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế mới cảm nhận được cái mơ hồ phảng phất ấy. Lặng lẽ mà dồn dập, tự nó thành nhạc, mùa thu nay khác rồi là ở đây chăng? Hà Nội xưa đẹp, buồn. Giờ Việt Bắc đẹp, vui. Niềm vui ấy càng lúc càng mở rộng, bao trùm cả trời xanh,
núi rừng:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
Hình tượng Đất nước được Nguyễn Đình Thi xây dựng bằng những vẻ đẹp của thiên nhiên xanh tươi, dạt dào sức sống. Cảm nhận đất nước từ chỗ đứng, tấm lòng của chúng ta, nên đất nước hiện lên vừa bình di, vừa rất đỗi thân thương. Âm điệu các câu thơ ở đây quấn quýt cộng với nhịp dài ngắn, tất cả tạo nên dáng hình một đất nước trường chinh trên vạn dặm dài lịch sử, một đất nước mang vẻ đẹp tầm vóc của một thời đại mới. Và đó cũng là nỗi lòng yêu quý tha thiết non sông, đất nước của chính tác giả Nguyễn Đình Thi.
- Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm):
Trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước hiện lên vừa chân thực, tươi đẹp, gần gũi như những gì đang hiện hữu trong cuộc sống con người Việt Nam, vừa hùng vĩ, tráng lệ, khoáng đạt, in dấu ấn một dân tộc có nền văn hiến 4000 năm:
Đất nước là núi, sông, rừng bể hùng vĩ, tráng lệ:
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Những cảnh quan kì thú của non sông gấm vóc trải dài từ Bắc vào Nam: núi Vọng Phu ở Lạng sơn, Thanh hóa, núi Con Cóc, Con gà ở vịnh Hạ Long, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, núi Bút non Nghiên ở Quảng Ngãi…không chỉ là những tặng vật của tạo hóa, thiên nhiên mà đã gắn liền với cuộc đời, số phận, tâm hồn, ước vọng của nhân dân; trở thành thắng cảnh mang những giá trị văn hóa lịch sử lâu đời.
Ở nhiều góc độ khác nhau, từ một vùng núi rừng “Việt Bắc” của Tố Hữu, miền Tây Bắc trong thơ Quang Dũng đến “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi rồi Nguyễn Khoa Điềm…quê hương, Đất nước Việt Nam lần lượt hiện lên với vẻ đẹp riêng có đặc sắc của nó. Có lúc quê hương hùng vĩ, tráng lệ, có lúc thì thơ mộng, hiền hòa. Đó đều là những vẻ đẹp đa dạng của khuôn mặt Đất Nước.
b. Vẻ đẹp con người bình dị:
Nếu như thơ ca cổ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp, thì ở đây các nhà thơ hiện đại lại lấy chuẩn mực từ con người, con người trong thơ hiện đại hiện ra rất rõ nét, chân thực, không bị che lấp bởi cảnh vật thiên nhiên như thơ xưa. Con người là chủ thể trong lao động, chiến đấu, trong cuộc sống. Ở họ mang những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý.
Hình ảnh Bác Hồ vĩ đại mà gần gũi: “(Việt Bắc”, “Sáng tháng năm”).
Người lính vệ quốc can trường, quả cảm, kiêu hùng, tài hoa lãng mạn: Trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên trên nền thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp vừa hào hùng vừa lãng mạn hào hoa. (sẽ cụ thể ở chủ đề người lính).
Nhân dân bình dị mà anh hùng:
- Ở “Việt Bắc” của Tố Hữu:
Nếu mỗi khung trời, mỗi cảnh vật Việt Bắc là một bức tranh nên thơ thì trên nền tranh ấy là hình ảnh con người hòa điệu vào nhau trong lao động, trong cuộc sống thanh bình, dung dị.
Ở đó là dáng vẻ con người khỏe khoắn làm chủ núi đồi, tỏa sáng cùng thiên nhiên:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Người Việt Bắc tài hoa, khéo léo “đan nón, chuốt từng sợi giang”.
Họ lạc quan, yêu đời, gắn bó với kháng chiến: nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Họ là những con người bình dị, thủy chung nghĩa tình, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, chia ngọt, sẻ bùi với cách mạng :
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng …”
Họ tần tảo, lam lũ, chịu thương, chịu khó:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
…
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng”.
- Ở “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm:
Điều đặc sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là cái nhìn của nhà thơ thấm sâu ý thức về nhân dân, về những con người bình thường đã làm nên Đất nước:
Nhìn từ không gian địa lí:
Tác giả nhìn thiên nhiên, danh lam thắng cảnh qua tâm hồn, số phận, ước vọng nhân dân. Nhân dân trao cho núi sông tình yêu, nỗi đau của mình nên mới có núi Vọng Phu, hòn Trống Mái…. Nhân dân vô danh đã hoá thân vào mỗi tấc đất của quê hương để có Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm….
Cuộc đời nhân dân tạc vào núi sông, thành cốt cách, lối sống dân tộc “Và ở đâu … Chẳng mang một dáng hình, … một lối sống ông cha …. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta “.
* Nhìn từ thời gian lịch sử:
Khẳng định nhân dân làm nên Đất Nước: Họ đóng góp vào công cuộc bảo vệ non sông “Khi có giặc…đàn bà cũng đánh”. Họ là những con người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên”, đã sống và chết giản dị, nhưng họ đã hoá thân vào đất nước muôn đời.
* Nhìn từ bản sắc văn hoá:
Nhân dân đã sáng tạo, gìn giữ, truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị vật chất và tinh thần :
Về vật chất: Từ những hạt lúa ta trồng, đến ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng…là sự hoá thân của nhân dân.
Về tinh thần : Đó là ca dao, nơi kết đọng và lưu giữ bền nhất những giá trị tinh thần của nhân dân với ba đặc điểm, tạo nên bản sắc của văn hoá Việt Nam: Họ rất say đắm trong tình yêu “yêu em từ thuở trong nôi”. Họ hết sức quý trọng tình nghĩa “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Họ vô cùng quyết liệt trong căm thù và chiến đấu: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
Trong “Đất Nước”, Nguyễn Đình Thi lắng nghe được tiếng nói truyền thống bất khuất của cha ông:
“Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.
Tiếng nói của cha ông từ hào khí Đông A, Hào khí Đồng Nai, Hào khí Lam Sơn vọng về thúc giục chiến đấu:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”.
Những người anh hùng đã làm nên khuôn mặt của Đất Nước là những con người hồn hậu như “gốc lúa bờ tre”.
Bằng những giác quan nhạy cảm, những nhà thơ hiện đại đã khám phá, phát hiện những vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp trong tâm hồn con người. Và mỗi chúng ta khi đọc những vần thơ ấy sẽ phần nào hiểu hơn về Đất nước, con người Việt Nam, giúp ta thêm yêu, thêm trân quý cuộc sống và quê hương mình.
2. Đất nước gian khổ và đau thương.
Trong “Tây tiến” của Quang Dũng, những gian khổ, đau thương được thể hiện qua những khó khăn, gian khổ, khắc nghiệt mà người lính phải đối mặt trên đường hành quân:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Sương núi dày đặc, bao phủ cả núi rừng, che lấp cả đoàn quân. Người lính hành quân trong sương mù lạnh lẽo, mệt mỏi với cái lạnh tỏa ra từ đá núi, sương đêm.
Với địa hình: nhiều đèo dốc, núi non hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Với rừng núi thâm u nhiều thác ghềnh, thú dữ với biết bao hiểm nguy rình rập:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Những gian khổ đó có khi quá sức chịu đựng khiến người lính phải gục ngã trên đường hành quân:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Người lính phải chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Giữa chốn rừng thiêng nước độc, căn bệnh sốt rét rừng, đói ăn khiến họ xanh da, trụi tóc… Ngay cả khi ngã xuống, người lính không có lấy manh chiếu để bọc thây, họ được chôn cất trong chính bộ quân phục của mình; Có khi, họ nằm xuống nơi rừng hoang biên giới, di hài phiêu dạt nơi đất khách quê người:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Tuy nhiên, giọng điệu đoạn thơ không hề bi lụy bởi cách nói giảm và sử dụng từ Hán việt trang trọng đượm màu sắc cổ kính đã làm cho sự hi sinh tăng thêm phần thiêng liêng cao cả.
- Ở “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
Nỗi đau thương ấy được đúc kết lại trong gương mặt đất nước bị hủy diệt tàn bạo bởi bàn tay kẻ thù:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
Thủ pháp ngược sáng quen thuộc trong nhiếp ảnh được tác giả khéo léo lồng vào thơ cho ta một hình ảnh giàu sức gợi… Khung trời chiều ở làng quê yên bình nay đã thấm máu và bị dây thép gai đâm nát; nó như một biểu chứng hùng hồn cho tội ác của quân xâm lược.
Trong số phận cực nhục của người dân nô lệ:
“Bát cơm chan đầy nước mắt
Bây còn dằng khỏi miệng ta
Thằng giặc tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da”
Quả thật, không có gì đê hèn hơn lũ giặc giữ cướp phá và giết hại người vô tội để thỏa mãn lòng tham, mục đích bất chính của mình. Chẳng những bóc lột dân ta tàn bạo, chúng còn ra sức vơ vét và giết hại những người dân vô tội quanh năm một nắng hai sương, cần cù chất phát. Tội ác của chúng khiến: “Từng gốc lúa bờ tre hồn hậu – Cũng bật lên thành tiếng căm hờn”. Để rồi tất cả thốt lên: “Đã có đất này chép tội / Chúng ta không biết nguôi hờn” (Bên kia sông Đuống).
“Việt Bắc” không nói đến những nỗi đau như thế bởi bài thơ vừa là một khúc tình ca cách mạng, lại vừa là một bài ca chiến thắng của một thời kì lịch sử. Do đó, đau thương của đất nước chỉ được bộc lộ gián tiếp qua:
Nỗi gian khổ, khó khăn trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Niềm đau thương ấy ẩn hiện trong nỗi gian khó khi phải chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt của quê hương cách mạng thuở còn trong trứng nước. Nó hiện lên qua: Miếng cơm chấm muối, qua những hắt hiu lau xám nhưng đậm đà lòng son, qua Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng với những đắng cay ngọt bùi trong củ sắn lùi đơn sơ trong tình quân dân giản dị mà ấm áp. Quân dân ta phải sống trong điều kiện vật chất hết sức khó khăn, thiếu thốn và hậu phương của ta cũng gian khổ không kém: “Người mẹ nắng cháy lưng – Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.
Nỗi cơ cực thể hiện vừa mơ hồ lại vừa rõ nét trong thể thơ lục bát dung dị, gần gũi, trong giọng điệu tâm tình ngọt ngào – giọng của tình thương mến trong bài thơ.
Qua trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước đau thương tuy không thể hiện rõ nét nhưng ta vẫn cảm nhận được điều đó qua lịch sử đau thương mà hào hùng. Dù giọng văn không đau đớn xót xa như Bên kia sông Đuống, không căm phẫn như Đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng không nhiều minh chứng rõ ràng về khó khăn, gian khổ trong chiến đấu như Việt Bắc nhưng đâu đó ẩn chứa trong từng lời văn đầy tự hào ta vẫn thấy hiện hữu nỗi đau qua bốn nghìn năm thăng trầm lịch sử:
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”.
Đó đâu chỉ đơn thuần là nỗi gian khổ khi chống giặc bảo vệ Tổ quốc mà còn là đức hi sinh và những mất mát to lớn chưa gọi thành lời.
Mỗi nhà thơ, mỗi phong cách, mỗi cá tính sáng tạo với những vùng quê khác nhau và nỗi đau thương được khắc họa ở nhiều cung bậc nhưng đọng lại trong tất cả vẫn là nỗi đau xót khắc khỏai trước những gian khổ, hy sinh và cảnh quê hương bị tàn phá tan hoang dưới gót dày quân xâm lược. Qua đó bộc lộ niềm căm phẫn tột đỉnh với bọn giặc dữ đồng thời thể hiện tấm lòng yêu nước thiết tha của các tác giả.
3. Đất nước anh hùng và bất khuất.
Có thể nói, bốn bài thơ đã tạc nên bức tượng đài sừng sững về đất nước. Tuy phải chịu bao mất mát đau thương, gian khổ trong chiến tranh nhưng không vì thế mà ta tuyệt vọng buông xuôi; ngược lại lòng căm thù đã hóa thành sức mạnh, niềm tin chống lại lũ cướp nước đê hèn thể hiện qua những vần thơ hùng tráng, bi mà không lụy. Và những tháng ngày chiến đấu gian khổ đầy vất vả hi sinh ấy đã làm sáng ngời hình tượng một đất nước bất khuất – quật khởi – kiên cường.
Tinh thần anh dũng ấy trước hết thể hiện ở lòng căm thù giặc sục sôi và sự tự nguyện đứng lên chống lại kẻ thù hung bạo để giành lại từng tấc đất của quê hương.
Trong “Tây Tiến”, chân dung người lính hiện lên mang vẻ đẹp hào hùng, hào hoa. Nhưng trước hết là cái đẹp ở lí tưởng quên mình vì tổ quốc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Những chiến binh Tây Tiến đa phần là học sinh, sinh viên, những người đang còn ngồi trên ghế nhà trường. Theo tiếng gọi tổ quốc, họ xếp bút nghiên ra đi với tinh thần “nhất khứ bất phục hoàn”. Giọng thơ Quang Dũng có pha cách nói ngang tàng làm nổi bật vẻ kiêu hùng,
tô đậm lòng kiên định, ý chí sắt đá của chiến binh Tây Tiến: “bỏ quên đời”, “không mọc tóc”, “chẳng tiếc đời xanh”, “không hẹn ước”, “chẳng về xuôi”…
Ở “Việt Bắc” đó là mười lăm năm thiết tha mặn nồng gắn bó cùng núi rừng Việt Bắc, dù phải chịu bao thiếu thốn khổ ải ở chiến khu với: Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai. Là những Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. Là Bát cơm sẻ nữa chăn sui đắp cùng; tất cả là khốn khó cả về vật chất lẫn tinh thần mà dân ta phải gánh chịu, phải nếm mật nằm gai để trả nợ nước, báo thù nhà.
Nếu “Việt Bắc” là một khúc ca tâm tình ngọt ngào gợi nhắc những khó khăn gian khổ ở chiến khu thì Nguyễn Đình Thi lại thể hiện tinh thần hi sinh ấy trong “Đất nước” theo một khía cạnh mang tính khái quát cao mà không hề mất đi sức lay động gợi cảm:
“Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước, thương nhà”
Bất chấp hi sinh mất mát những người dân Việt dùng sức lực, vật chất tinh thần và cả mạng sống của mình để gìn giữ Tổ quốc như Nguyễn Khoa Điềm đã từng khái quát:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”.
Và không chỉ dừng lại ở đó, hình tượng đất nước kiên cường bất khuất còn thể hiện ở tinh thần đoàn kết chống giặc ngoại xâm, là niềm lạc quan yêu đời, không nao núng trước bao khó khăn gian khổ. Đó là những ngày tháng cơ quan: Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo hay dòng cảm xúc dạt dào khi: Những đêm dài hành quân nung nấu- Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu mà ta từng gặp trong thơ Nguyễn Đình Thi và Quang Dũng:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Tố Hữu đã dẫn ta về một thời oanh liệt, được cùng sát cánh bên nhau bảo vệ nước nhà:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Những động từ mạnh, nghệ thuật điệp từ, kết cấu trùng điệp tạo nên khuynh hướng sử thi đậm nét trong những dòng miêu tả về cuộc chiến không cân sức giữa ta với địch. Nhân dân ta đã tự giác đứng lên, đoàn kết cùng nhau chống lại kẻ thù hung bạo và chiến đấu oanh liệt. Hẳn ta vẫn còn nhớ rõ giọng điệu hào hùng phấn khởi của Tố Hữu:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang”.
Càng tự hào hơn khi sau bao khốn khó, gian khổ, bao mất mát hi sinh; nhân dân ta đã giành lại được độc lập nước nhà. Lời thơ âm vang đầy hứng khởi:
“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre bay phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Điệp khúc của chúng ta ngân vang khẳng định chủ quyền dân tộc xiết bao tự hào. Một lần nữa chúng ta được sống trong những năm tháng hào hùng của dân tộc. Sau bao hi sinh, đau thương chúng ta đã chứng minh được rằng:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất”.
Đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của nhân dân sẽ không bao giờ tàn lụi bởi những người Việt Nam ta bất khuất anh hùng.
Mỗi bài thơ mang một âm hưởng một giọng điệu riêng nhưng tất cả cùng thống nhất trong hình tượng một đất nước Việt Nam kiên cường bất khuất. Ở đó ta ta được sống trong lòng sục sôi căm hận, thấu hiểu được những mất mát hi sinh mà quân thù đã gây ra, đồng thời biểu tượng về tinh thần đoàn kết, lạc quan của nhân dân ta rạng ngời tỏa sáng.
4. Cảm hứng bao trùm đất nước là sự ngợi ca, khâm phục, đất nước được đặt ở vị trí cao nhất trong lịch sử dân tộc.
“Ôi tổ quốc giang sơn hùng vỹ
Đất anh hùng của thế kỷ 20”.
(Tố Hữu)
“Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời có vạn lần hơn”.
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Chế Lan Viên)
Tổ quốc Việt Nam, dáng đứng Việt Nam đã được tạc vào thế kỷ, vẻ đẹp tổ quốc được tạo nên bởi sự hy sinh thầm lặng của những người con đất Việt (người mẹ, người phụ nữ, người lính…). Tổ quốc Việt Nam là đất nước của tình thương và lòng nhân ái. Tổ quốc như tráng sĩ có tâm hồn của một thi nhân.
“Đứng vững chãi 4000 năm sừng sững
Lưng mang gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thực, sáng hai bờ tư tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”
(Huy Cận)
5. Nét riêng, độc đáo về hình tượng đất nước.
Bên cạnh xu thế chung là ngợi ca quê hương, bày tỏ tình yêu với non sông gấm vóc, mỗi nhà thơ lại khám phá quê hương ở những điểm nhìn khác nhau với cá tính sáng tạo riêng biệt nên hình ảnh quê hương hiện ra với những nét đẹp riêng rất đa dạng, góp phần làm cho diện mạo quê hương ở giai đoạn này càng thêm rõ nét.
Hình tượng Đất nước trong “Tây Tiến” của Quang Dũng.
Hình tượng Đất nước trong “Tây Tiến” được khắc họa qua hình tượng thiên nhiên miền Tây Bắc và hình tượng người lính Tây Tiến bằng cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng là nét đặc sắc bao trùm bài thơ, làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến. Đó là sự gặp gỡ, cộng hưởng giữa hồn thi nhân – nhân vật trữ tình trong tác phẩm, cái thời anh hùng rực lửa giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp và chiến trường miền tây dữ dội, ác liệt nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.
Quang Dũng là một hồn thơ hào hoa và lãng mạn. Lính Tây Tiến phần lớn là người Hà Nội, mang đậm chất hào hoa, lãng mạn của những chàng trai hà thành. Khung cảnh chiến trường Tây Tiến dữ dội, ác liệt nhưng rất thơ mộng, trữ tình. Cuộc Tây Tiến đánh giặc của họ lại càng đẹp theo phong vị lãng mạn của những tráng sĩ “vung gươm ra sa trường” thời ấy.
Cái Bi chính là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến: Chiến trường Tây Tiến ác liệt, hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống trên đường hành quân…. Quang Dũng không lẩn tránh cái bi, nhưng đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng để thành chất bi tráng: Quang Dũng và cả một lớp trai trẻ như ông thời ấy, mang trong lòng một bầu máu nóng “thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “một ra đi là không trở về” như hình mẫu những tráng sĩ anh hùng trong truyện cổ mà họ từng ôm ấp. Cái “tráng” ở đây được luồng gió yêu nước của thời anh hùng rực lửa của thời ấy thổi vào nên lại càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là “bài thơ này đã được khí phách của cả một thời đại ùa vào, chắp cánh” để cho cái chất bi tráng ấy bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời thơ.
Tinh thần bi tráng thể hiện ở chỗ nhà thơ không lẩn tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, lẫm liệt của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử. Bài thơ ba lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất có lẽ là cái chết sang trọng này:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Sang trọng vì được bọc trong những tấm chiến bào, được về với Đất Mẹ, và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để đưa tiễn hương hồn người chiến sĩ. Ở đây thủ pháp cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao của nó.
Chất bi tráng nổi rõ và in đậm dấu nhất ở đoạn thơ thứ ba khi Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến, đồng đội của ông, trong các cặp hình ảnh đối lập: giữa ngoại hình tiều tụy với thần thái “dữ oai hùm”, giữa “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” với “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, và nhất là hình ảnh của cái chết “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng của người chiến sĩ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”! Một tư thế ra đi như thế thì cái chết còn có nghĩa lí gì đối với họ? Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hào hùng rực lửa một đi không trở lại, nhưng tiếng thơ bi tráng của hồn thơ lãng mạn hào hoa Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ lại cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử và một “tượng đài bất tử về người lính vô danh”.
Cảm hứng về đất nước trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi.
– Hình tượng đất nước trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi mang tính sử thi – tổng hợp – khái quát, bắt nguồn từ truyền thống dân tộc, gắn bó với vận mệnh đất nước và phát triển theo diễn tiến của lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng này đã chín sau tám năm trời ấp ủ, nghiền ngẫm trải nghiệm trong cuộc kháng chiến của nhân dân để trào ra mãnh liệt trong những ngày chiến thắng giặc Pháp thành một tượng đài đất nước bằng thơ: một đất nước hiền hòa mà bất khuất, tình nghĩa mà anh hùng – một đất nước trưởng thành, tỏa sáng! Không giống như dung lượng sáng tác của các tác phẩm khác: chỉ trong một ngày, một buổi, thậm chí chỉ trong dăm ba tiếng đồng hồ (“Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Tây Tiến” của Quang Dũng), “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi là sự kết hợp của ba mảng thơ khác nhau, mảng nọ cách mảng kia tới bảy năm (1945-1975).
Mảng đầu tiên trong bài “Sáng mát trong như sáng năm xưa” mở đầu như ở bài thơ Đất nước sau này:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”.
Mảng thứ hai được lấy trong bài “Đêm mít tinh” với những cảnh thực của đêm míttinh ở rừng Phan Lương xen kẽ cảnh trong tâm tưởng nhớ về Hà Nội. Mảng thứ ba được tác giả viết cuối cùng vào năm 1955, là kết quả ghi nhận của ấn tượng trong một chiều Bắc Giang kháng chiến. Chính vì trải qua cuộc trường chinh vạn dặm của kháng chiến chống Pháp nên đất nước từ vất vả đau thương lại càng tươi thắm vô ngần. Từ nỗi nhớ của mùa thu Hà Nội đã xa tác giả reo lên với mùa thu chiến khu, mùa thu hào hùng trong lịch sử dân tộc. Nhà thơ đã ngắm nhìn, cảm nhận đất nước từ chỗ đứng, bằng tấm lòng của chúng ta – những con người vừa được Cách mạng giải phóng khỏi thân phận nô lệ khổ nhục đang đứng lên làm chủ non sông, đất nước mình. Bởi thế, đất nước đó là núi đồi, rừng tre phấp phới. Đất nước, đó là những cánh đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa, là gốc lúa bờ tre hồn hậu. Đất nước, đó là trời đầy chim và đất đầy hoa, là lòng dân ta yêu nước thương nhà…
– Bình dị, thân thương là thế, nhưng đất nước ấy đã phải trải qua cả một quá trình đấu tranh anh dũng những năm đau thương chiến đấu, những cánh đồng quê chảy máu – dây thép gai đâm nát trời chiều… để giờ đây đất nước
mang một tầm vóc mới, đất nước của thời đại dân chủ nhân dân. Trong khó khăn gian khổ, đất nước càng trưởng thành tỏa sáng, chính vì thế càng về cuối bài thơ cảm hứng lạc quan càng nồng đượm.
“Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”.
Chính những con người chân đất đã đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, làm nên thành những anh hùng. Để rồi khi đứng ở hiện tại chiến thắng vinh quang nhìn lại con đừơng lịch sử vừa qua của dân tộc Nguyễn Đình Thi tự hào khẳng định:
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh”
Gian khổ trong chiến đấu, hi sinh và rạng ngời trong chiến thắng, khổ thơ kết hợp hài hòa mặt cụ thể, gợi cảm với tính khái quát, biểu tượng (ngày nắng đốt theo đêm mưa dội, trán, lòng, trời đất mới, ánh bình minh) là sự tổng kết lịch sử sâu sắc của Nguyễn Đình Thi theo cách một nhà thơ trữ tình.
Từ niềm tự hào đất nước, Nguyễn Đình Thi hướng đến ngợi ca tầm vóc sử thi của đất nước
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Khổ thơ vừa là hình ảnh tả thực về trận đánh cuối cùng khi chiếm đồi A1 của trận Điện Biên Phủ rung chuyển năm châu – chấn động địa cầu, lại vừa là hình ảnh biểu tượng cho đất nước từ máu lửa đứng lên chiến đấu và chiến thắng. Tất cả tạo nên hình tượng đất nước từ trong màu lửa đau thương của chiến tranh, từ trong bùn lầy của lam lũ, đói nghèo, mà vươn mình đứng dậy. Hình tượng ấy khiến ta nhớ lại cái vươn vai kì diệu của chú bé Làng Gióng thuở nào, hay nhớ đến cái tư thế hiên ngang của người chiến sĩ giải phóng quân hi sinh trên đường bay Tân Sơn Nhất
“Từ dáng đứng của anh trên đường bay Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
Đúng là trong vất vả đau thương đất nước càng tươi thắm vô ngần như Nguyễn Đình Thi từng viết:
“Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”.
Thực vậy, trải qua một cuộc trường chinh vạn dặm của lịch sử dân tộc, Nguyễn Đình Thi đã thể hiện những chiêm nghiệm của mình suốt dặm dài đất nước. Để rồi giống như Tố Hữu đã nói:
“Việt Nam ôi Tổ quốc thương yêu
Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều”.
Nguyễn Đình Thi đã dựng nên hình tượng đất nước như bông sen vươn dậy từ bùn lầy, tăm tối, đói nghèo, mất mát, đứng lên chiến đấu và chiến thắng, từ trong vất vả đau thương càng tươi sáng rạng ngời. Cũng chính vì thế đã tạo nên nét riêng của: Đất nước.
Vẻ đẹp đất nước trong bài thơ “Việt Bắc” của tố Hữu.
Đối với Tố Hữu, “Việt Bắc” lại mang một nét đẹp riêng. Bài thơ sáng tác vào tháng mười năm 1945, lại viết về 15 năm Cách Mạng và kháng chiến vừa qua như một hoài niệm hào hùng, đó là một bản tổng kết bằng thơ những chặng đường lịch sử ấy. Ở đây nét lạ của thơ Tố Hữu là ở chỗ nhà thơ đã làm mới những gì đã cũ. Cuộc sống, thiên nhiên và con người Việt Bắc khi có ánh sáng Cách mạng soi vào, tất cả đã trở nên khác lạ hẳn. Thiên nhiên thì như một kho tàng chưa bao giờ khám phá hết. Còn con người giản dị, mộc mạc, nồng hậu và son sắt thủy chung. Ngay ở cách thể hiện nghệ thuật cũng vậy.
Lục bát vốn bắt nguồn từ ca dao. Nhưng đến Việt Bắc hình thức ca dao ấy nâng lên một trình độ mới. Đó là thơ. Thơ lục bát được Tố Hữu vận dụng trong một bài thơ dài tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng, linh hoạt. Câu thơ lúc thì dung dị, dân giã gần với ca dao lúc thì cân xứng nhịp nhàng trau chuốt mà trong sáng nhuần nhị đến cổ điển. Có thể nói đến với Việt Bắc, ca dao đã đạt đến một điệu thức mới mà ca dao cổ truyền chưa có. Song tính dân tộc của bài thơ – không thể không kể đến – chính là ở chỗ nó đã bắt trúng hai cội nguồn: đạo lí dân tộc và mạch văn dân tộc. Về đạo lí dân tộc thì rõ nhất là truyền thông dân tộc uống nước nhớ nguồn. Từ giã Việt Bắc mà lưu luyến, nhớ thương chính là truyền thống đó, ta với mình – mình với ta – lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đạo lí dân tộc không chỉ là tình nghĩa mà cò là ân nghĩa – nghĩa nặng ơn sâu thủy chung son sắt.
Mạch văn dân tộc ở bài thơ trước hết là mạch văn của tình thương. Lòng thương người trong văn học Việt Nam đã xuất hiện từ lâu, từ văn học dân gian đến văn học bác học, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và đến cả Tố Hữu nữa: Thương nhau, chia củ sắn lùi- Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng. Người cán bộ Cách mạng được đồng bào Việt Bắc đùm bọc, chở che, gọi là Người thương – biểu hiện cao quí nhất của sự gắn bó keo sơn, tình nghĩa. Một chữ nhớ “dìu dặt”, “thiết tha” cũng vì tình thương mà biến hóa. Nhớ ở đây có khi thuộc về trí nhớ như: “nhớ từng bản khói cùng sương”, “nhớ khi giặc đến giặc lùng” nghĩa là nó gắn với chiều không gian, thời gian cụ thể. Còn nhớ gì, nhớ sao lại nằm trong một phạm trù khác, phạm trù của xúc cảm tâm hồn: nhớ sao ngày tháng cơ quan, nhớ sao tiếng mõ rừng chiều. Tần số xuất hiện của chữ nhớ khi chậm rãi làm tiền đề cho người, cho cảnh hiện ra.
Bức tranh tứ bình khơi nguồn từ chữ nhớ ấy: “Ta về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Hai đại từ “mình” và “ta” được sử dụng sáng tạo. Trong tiếng Việt, mình dùng để chỉ bản thân tức ngôi thứ nhất, nhưng cũng còn để chỉ đối tượng giao tiếp thân thiết, gần gũi – chỉ những người bạn đời, tức ngôi thứ hai. Điều đó tạo nên quan hệ gắn bó của hai nhân vật đối đáp. Cách biến hóa, chuyển biến linh hoạt, đa nghĩa vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, hòa nhập làm một mình đi mình có nhớ mình, mình đi mình lại nhớ mình tạo nét uyển chuyển cho câu thơ.
Nói đến mạch văn dân tộc còn phải nói đến chất liệu văn học và văn hóa dân gian vận dụng phong phú, cùng với những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tượng trưng được sử dụng thích hợp tạo nên phong vị dân gian và chất cổ điển cho bài thơ. Cũng cần phải kể đến những liên tưởng đa chiều, những sức gợi từ nhịp điệu. Riêng về nhịp điệu nhà thơ thường sử dụng nhịp 4/4/ trong câu bát và nhịp 2/4 trong câu lục. Nhịp 4/4 trong câu bát thường là những tiểu đối cân xứng khoan hòa. Còn nhịp 2/4 trong câu lục phù hợp với phương thức đối đáp và giọng kể.
Như vậy tính dân tộc của Việt Bắc không phải chỉ ở hình thức nghệ thuật mà còn ở chiều sâu tư tưởng – cảm xúc thống nhất hài hòa với nghệ thuật biểu hiện. Bài thơ là khúc ca vừa hào hùng bất khuất và cũng là khúc ca thắm thiết ân tình. Với đặc điểm hài hòa thống nhất chặt chẽ của hai yếu tố, hai nguồn mạch Cách mạng và dân tộc Việt Bắc xứng đáng là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và của nền thơ Cách mạng Việt Nam.
Hình tượng đất nước trong đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Tiếp nối khúc tráng ca về Đất nước đau thương mà quật khởi thời kì chống Pháp: Đất nước – Nguyễn Đình Thi, là khúc tráng ca về đất nước thời kì chống Mĩ: Đất nước – (trích Trường ca Mặt đường khát vọng) – Nguyễn Khoa Điềm với những khám phá mới mẻ, độc đáo.
Trong chương V – Đất nước (trích “Trường ca Mặt đường khát vọng”), Nguyễn Khoa Điềm lại muốn dành tâm huyết và bút lực để khám phá, khẳng định vai trò lớn lao cùng sức mạnh kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp kiến quốc cũng như vệ quốc suốt bốn ngàn năm lịch sử dân tộc như một cách cắt nghĩa bằng con đường nghệ thuật cho câu hỏi lớn: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước là gì? Đất nước do ai tạo dựng? Từ đó nhà thơ đã đi đến khái quát, khẳng định, tự hào, xúc động và làm nổi bật lên tư tưởng: Đất nước của Nhân dân.
Nhìn chung, toàn bộ chương V của Trường ca Mặt đường khát vọng được triển khai từ tư tưởng Đất nước của nhân dân… Đất nước của nhân dân đã thực sự vang lên bằng tiếng nói của nghệ thuật, của thơ, và đó chính là thành công lớn của chương Đất nước. Hình tượng Đất nước của Nhân dân với Nguyễn Khoa Điềm là một hoài thai, ấp ủ, là cách nói khái quát, cô đọng thể hiện sự khám phá mới mẽ và đầy trân trọng, tự hào của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò vĩ đại cũng như sức mạnh kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Nếu ta đã tiếp xúc với Đất nước của Nguyễn Đình Thi ta sẽ bất ngờ với lời định nghĩa đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Khái niệm đất nước là gì được tác giả khái quát từ những điều quen thuộc nhưng không theo lối mòn xưa cũ nào mà ngược lại thật lạ, thật hấp dẫn. Đất nước không phải là cái gì cao siêu, xa lạ mà gần gũi, thân thuộc biết bao nhiêu:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Những cái ngày xửa ngày xưa có riêng gì của ai, ai chẳng lớn lên từ ca dao, từ huyền thoại, cổ tích ngàn đời. Người mẹ ấy là đại diện là hiện thân cho Đất nước chứ đâu chỉ những tên tuổi đã in dấu son chiến công trong sử sách. Miếng trầu bây giờ bà ăn cũng giản dị lớn lao như thế. Sự tích trầu cau có người Việt nào chưa biết? Nó thoang thoảng một thứ hương vị đồng quê, nương dâu, bãi mía. Tục ăn trầu song hành với lịch sử từ thị thành đến nơi thôn cùng xóm vắng. Nó quy tụ bao trìu mến, thương yêu. Cây tre đánh giặc, miếng trầu bà ăn, những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể tạo dựng một không gian đặc biệt chỉ nông thôn người Việt mới có. Hơi ấm từ không gian bình dị ấy lan tỏa khắp nơi, sưởi ấm hồn người…
Tiếp đó là những cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất của các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia thành hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian Thời gian đằng đẵng – không gian mênh mông. Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, đó là chiều dài lịch sử của đất nước. Về không gian địa lí, đất nước là không gian sinh tồn gần gũi, máu thịt với cuộc sống mỗi con. Không chỉ gần gũi thân quen là vậy mà đất nước còn hiện lên thiêng liêng cao cả. Đất nước là núi sông, rừng và bể con chim phượng hoàng, con cá ngư ông móng nước biển khơi hay những phát hiện độc đáo về những thắng cảnh thiên nhiên của đất nước. Trên chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử, đất nước được thể hiện tập trung trong các bình diện văn hóa – phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc, trong đời sống hằng ngày và trong những biến cố lịch sử, trong đời sống mỗi cá nhân và trong cuộc sống cả cộng đồng. Đây chính là cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp nhiều chiều của nhà thơ về đất nước. Và tác giả đã dẫn tới một khái quát sâu sắc:
“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Cái bề thế của một nền văn hiến bốn nghìn năm mà nhà thơ tiếp nhận được đã biến thành một dòng chảy tâm hồn. Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà trước hết nhắc đến vô vàn những lớp người không biết mặt đặt tên:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Gian dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”
Những con người vô danh và bình dị đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của dân tộc từ hạt lúa, ngọn lửa đến tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cho đến cả tên làng, tên xã… Họ cũng là người khi có ngoại xâm thì chống ngoại xâm – có nội thù thì vùng lên đánh bại.
Trong thời gian, trong không gian, sức sống của Đất nước, nhân dân suốt bốn nghìn năm trải rộng khắp vùng miền lãnh thổ. Dài rộng thì đến vô cùng nhưng có một điểm mấu chốt thiêng liêng đoàn tụ:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”.
Đó là nếp nghĩ, là truyền thống tinh thần của dân tộc. Còn dân tộc Việt, tình cảm ấy, ý chỉ ấy vẫn còn. Và hơn nữa, còn là một lời nhắc nhủ thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước, lời nhắn gửi chân thành, giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, dốc ra từ tận đáy lòng:
“Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời”
Mỗi cuộc đời đều thừa hưởng được biết bao giá trị cả về vật chất và tinh thần của dân tộc; vì vậy, chúng ta phải có trách nhiệm gắn bó san sẻ gìn giữ xây đắp Làm nên Đất nước muôn đời.
Hình tượng Đất nước của Nhân dân đã thấm vào máu thịt của thơ, của cảm hứng thơ. Ngay từ những đại từ nói về người mẹ, người bà, người yêu, đứa con tưởng là chỉ những con người cụ thể, nhưng thử hỏi có ai không thấy mình trong đó? Người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con là những ai nếu không phải là khuôn mặt chung của tất cả mọi người, những con người không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã góp phần làm ra đất nước. Góp nên hòn Trống Mái, những núi Vọng Phu đâu chỉ là tình yêu, là nỗi nhớ của một con người, một cá nhân. Nó thao thức một nỗi niềm dân tộc. Chính những câu thơ với đại từ chung chỉ người như thế đã tạo nên những xúc động vì một lẽ giản đơn: Làm ra đất nước nhưng không cần lưu giữ tuổi tên, giản dị và bình tâm trong cái sống, cái chết đời thường, cách nghĩ ấy, cách sống ấy thật vô cùng vĩ đại. Họ là nhân dân, không một cách gọi nào cao quí hơn.
Chủ nghĩa nhân văn từ cội nguồn dân tộc qua trường kì lịch sử đã bồi đắp một tâm hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm, ấy là do đất nước từ nhân dân mà có. Ở chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử, đất nước được cảm nhận dưới sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống, phong tục, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cộng đồng. Kết hợp với một không gian nghệ thuật riêng, mở ra một thế giới nghệ thuật quen thuộc gần gũi mà mĩ lệ, bay bổng văn hóa dân gian, kết tinh tâm hồn, trí tuệ của nhân dân. Việc vận dụng văn hóa dân gian ở đây không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật, mà là sự thấm sâu quan niệm đất nước nhân dân vào trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.
Với mỗi bài thơ hình tượng đất nước lại mang những nét đẹp riêng. Nếu với Tây Tiến, đất nước gắn liền với miền Tây Bắc hoang sơ, thơ mộng và người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa, Tố Hữu với Việt Bắc ân nghĩa thì Nguyễn Đình Thi lại khắc họa hình tượng đất nước từ đau thương hiện lên tươi thắm vô ngần và Nguyễn Khoa Điềm với tư tưởng Đất nước của nhân dân. Nhưng dù thế nào thì tựu chung lại vẫn là những tình cảm yêu mến, tự hào về một đất nước giàu đẹp, một dân tộc anh hùng- tình nghĩa, và càng tự hào bao nhiêu lại càng đau xót, căm phẫn khi đất nước rơi vào tình cảnh đau thương, mất mát. Để rồi từ đó cất cao tiếng hát ngợi ca về một đất nước anh dũng trong chiến đấu, tỏa sáng, rạng ngời và vẹn tròn to lớn: từ mái tóc xanh đầu nguồn Pắc Bó, tới gót chân hồng mũi Cà Mau.
- Kết bài:
Bốn bài thơ là bốn gương mặt đẹp về đất nước: giàu đẹp, đau thương trong chiến tranh và kiên cường, bất khuất trong chiến đấu, cụ thể qua hình ảnh một vùng đất Tây Bắc hùng vĩ, nên thơ, một quê hương cách mạng Việt Bắc tình nghĩa- anh hùng, một đất nước trưởng thành tỏa sáng theo chiều dài lịch sử dân tộc và một đất nước của nhân dân với những giá trị lâu bền. Hình tượng đất nước ấy bắt nguồn từ truyền thống yêu nước cao đẹp được hun đúc suốt mấy ngàn năm lịch sử dân tộc và còn được khơi nguồn từ những thử thách ác liệt của lịch sử 30 năm đấu tranh 1945-1975. Thế nên chính những trang thơ đó đã bộc lộ thấm thía, cảm động tấm lòng yêu nước của con người Việt Nam, khơi dậy trong lòng mỗi công dân Việt niềm tự hào dân tộc, tình yêu, sự gắn bó cũng như trách nhiệm đối với đất nước trong hiện tại và tương lai.