»» Nội dung bài viết:
Dàn bài phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
* Dàn bài gợi ý:
I. Mở bài:
– Nhà thơ Quang Dũng:
+ Ông là một nghệ sĩ đa tài: Có tài làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…
+ Là một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
– Bài thơ Tây Tiến: là tác phẩm tiêu biểu của hồn thơ Quang Dũng và của nền văn học kháng chiến chống Pháp.
- Thân bài:
I. Khát quát:
1. Hoàn cảnh sáng tác: cuối 1948, ở Phù Lưu Chanh, khi rời xa đơn vị cũ. Bài thơ ra đời ở giai đoạn quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong khí thế hào hùng của toàn dân tộc – Quang Dũng, đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến – xa đơn vị cũ – nhớ → Tây Tiến.
2. Đoàn binh Tây Tiến:
+ Tên binh đoàn: Tây Tiến- là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở thượng Lào và Tây Bắc Bộ Việt Nam.
+ Tiến về phía Tây.
3. Ý nghĩa nhan đề: Nhớ Tây Tiến → Tây Tiến.
+ Nhớ Tây Tiến: hướng người đọc đến cảm xúc toàn bài, đó là nỗi nhớ.
+ Tây Tiến: cảm xúc lặn xuống chiều sâu, chỉ còn một niềm đau đáu, một ấn tượng bủa vây, ám ảnh: Tây Tiến.
II. Phân tích nội dung.
1. Nhớ về những chặng đường hành quân.
a. Thiên nhiên Tây Tiến:
– Núi rừng miền Tây xa xôi, hoang vu dữ dội và đầy hiểm trở đe doạ được gợi lên qua những câu thơ rắn rỏi:
+ Với những địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Lat, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu,..Mỗi nơi là một kỉ niệm, một ấn tượng đậm nét.
+ Hình ảnh:
- Dốc khúc khuỷu.
- Cồn mây, súng ngửi trời.
- Ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống.
- Sương lấp đoàn quân.
→ Hình ảnh thơ khiến cho người đọc hình dung rõ con đường hành quân vất vả, gian lao, đầy hiểm trở của người lính Tây Tiến.
+ Sử dụng từ láy: Khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút giàu giá trị tượng hình, thanh trắc liên tục: câu thơ gân guốc, giàu tính tạo hình.
+ Nhịp thơ: 4/3 như trở thành giao định rạch ròi hai hướng lên xuống của vô vàn con dốc tạo thành con đường hành quân
+ Thanh điệu: Trắc – bằng đan xen tạo nên sự cân bằng cảm giác: đang gập ghềnh trắc trở với những thanh trắc bỗng nhẹ nhàng thư thái bởi những thanh bằng.
– Thiên nhiên miền Tây không chỉ dữ dội mà còn rất trữ tình:
+ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
+ Hoa về trong đêm hơi.
– Ngoài ra Tây Tiến còn là một vùng đất thấm đẫm tình người: cơm lên khói, mùa em thơm nếp xôi.
b. Người lính Tây Tiến:
– Hồn nhiên, tinh nghịch: súng ngửi trời, cọp trêu người (chất lính ).
– Dãi dầu sương gió: gục lên súng mũ bỏ quên đời.
* Nhận xét: Sức hấp dẫn chủ yếu của đoạn thơ đầu là vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ của núi rừng Tây Bắc trải theo chặng đường hành quan của người lính Tây Tiến. Bút pháp lãng mạn ưa cực tả và thủ pháp đối lập đã tạo ra trng đoạn thơ bên cạnh những mảng vẽ đậm, bạo tay là những nét mảnh mai, hư thực.
2. Nỗi nhớ về những đêm liên hoan lửa trại và chiều sương Châu Mộc.
a. Những đêm hội đuốc hoa:
– Bừng lên:. Tưng bừng (không khí rộn ràng, náo nhiệt).
+ Bừng sáng (ánh sáng làm cả một vùng đất như được thắp sáng lên)
– Bừng tỉnh (không khí náo nhiệt làm cả núi rừng miền Tây vốn yên ắng như được tỉnh giấc)
– “Kìa em”: cảm xúc ngạc nhiên, thích thú như phát hiện ra một điều kì lạ.
– “Xiêm áo”, “khèn”: âm nhạc lạ, trang phục lạ, con người lạ…, những người lính như ngỡ ngàng, say đắm trong lễ hội → cảm xúc lãng mạn như được thăng hoa.
– Người lính Tây Tiến: say cảnh, say người → chan hoà màu sắc, âm thanh tha thiết.
b. Những chiều sương cao nguyên Châu Mộc:
– Đoạn thơ hiện lên với ấn tượng từ một bức tranh tuyệt đẹp với hình ảnh, đường nét,chi tiết, màu sắc và tạo nên sự cân đối hài hòa:
+ hồn lau: không gian thơ mộng, mang cả linh hồn
+ dáng người trên độc mộc: khỏe khoắn, trẻ trung.
+ hoa đong đưa: yểu điệu, làm duyên.
+ Thiên nhiên tựa hồ cũng tình tứ, cũng có linh hồn như con người.
+ Dường như thiên nhiên và con người có sự sóng đôi, tạo nên chất thơ đằm thắm.
→ Cảnh vừa thơ mộng, tĩnh lặng, vừa thoáng chút xao xác trong tâm hồn người qua những nét vẽ tinh tế, tài hoa.
+ Điệp từ: “có thấy”, “có nhớ”…tạo nên chiều sâu của nỗi nhớ
* Nhận xét: Tây Tiến của những buổi liên hoan văn nghệ quân dân, của những chiều sương mơ hồ bảng lảng đã để lại cảm giác nhung nhớ, bâng khuâng trong lòng người. Khác với đoạn thơ thứ nhất, ở đây Quang Dũng chủ yếu sử dụng những nét vẽ mềm mại, tinh tế. Cái “tinh tế toát ra từ cốt cách hào hoa, phong nhã và một thi tài hiếm có”
3. Nhớ về đồng đội – những chiến binh Tây Tiến:
a. Vẻ đẹp hào hùng:
– Hình vóc dáng vẻ >< nội lực bên trong – Khí thế dũng mãnh oai hùng: mắt trừng, dữ oai hùm → xây mộng chiến công, bảo vệ bình yên cho biên cương tổ Quốc. – Tinh thần hi sinh quên mình vì Tổ quốc:
+ Sử dụng từ Hán Việt trang trọng: biên cương, mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc hành → sự hi sinh, mất mát đau thương, giọng điệu trang trọng.
+ Chiến trường – chẳng tiếc đời xanh: quên mình, dâng hiến, tất cả vì lí tưởng đẹp đẽ.
+ anh về đất: sự hi sinh lặng lẽ hoá thân vào đất nước để trở thành bất tử.
+ Khúc độc hành của dòng sông Mã: thay mặt cho nhân dân đưa người lính về cõi vĩnh hằng.
b. Vẻ đẹp hào hoa:
– Tâm hồn mơ mộng, lãng mạn: gửi mộng, mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
– Đời sống tâm hồn phong phú.
– Tinh thần lạc quan, nhìn hiện thực gian khổ bằng cái nhìn lạc quan, hài hước.
c. “Vẻ đẹp tráng sĩ” của người lính Tây Tiến (vẻ đẹp của đấng trượng phu, giàu tính ước lệ):
– Dáng vẻ oai phong lẫm liệt, hào khí ngất trời. – Mang chí khí của người chinh phu .
– Sự hi sinh anh hùng. – Hình tượng người lính xuất hiện trong một không gian tiền sử, cổ xưa.
d. Vẻ đẹp hiện đại của những “anh bộ đội cụ Hồ”:
– Mang chất lính trẻ trung, tinh nghịch.
– Mang tâm hồn lãng mạn , mộng mơ.
– Nhạy cảm trước những vẻ đẹp phương xa, xứ lạ.
– Mang khát vọng lập chiến công hiển hách.
– Mang tinh thần Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh của thời đại.
– Sự gần gũi gắn bó với nhân dân => tình quân dân sâu đậm.
* Nhận xét: Hồi kí về đoàn binh Tây Tiến là những trang hào hùng và bi trâng. Quang Dũng đã không né tránh hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh, nhưng cái khốc liệt ấy vẫn mang âm hưởng hào hùng, bi tráng. Nó thôi thúc lòng người trong lời giục giã “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, trong âm hưởng dội vang hồn thiêng sông núi của “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Và tất cả hóa thành bất tử cùng với bức tượng đài về người lính Tây Tiến trong lời ước hẹn “Ai lên…..”
4. Lời thề gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây Bắc.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
– Cách nói khẳng định: “Tây Tiến người đi không hẹn ước” → tô đậm cái không khí chung của một thời Tây Tiến với lời thề kim cổ: ra đi không hẹn ngày về, một đi không trở lại (nhất khứ bất phục hoàn)
– Đường lên Tây Tiến: “thăm thẳm, chia phôi”: nỗi xót xa khi đã xa đồng đội, khi nghĩ đến đường lên Tây Tiến xa xôi, vời vợi.
– Nhà thơ khẳng định tâm hồn mình thuộc về Tây Tiến:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
+ Mùa xuân ấy: thời điểm lịch sử không bao giờ trở lại à mốc thương nhớ vĩnh viễn trong trái tim những người lính Tây Tiến một thời
+ Cách nói đối lập: Sầm Nứa >< về xuôi (tâm hồn) (thể xác) à Sự gắn bó sâu nặng với đoàn quân Tây Tiến: dù đã rời xa nhưng tâm hồn, tình cảm vẫn đi cùng đồng đội, vẫn gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi đã đi qua.
+ Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm buồn nhưng tinh thần chẳng về xuôi làm toát lên vẻ hào hùng của cả đoạn thơ.
III. Kết luận:
– Tây Tiến giống như một viên ngọc. Ngọc càng mài thì càng sáng, càng lấp lánh và hấp dẫn. Đó là một bài thơ kì diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng… Một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và trong kí ức mỗi người.
– Với bút pháp lãng mạn, cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc hoạ vào thơ ca dân tộc một bức tượng đài bất tử, bi tráng về người lính vệ quốc trong kháng chiến chống Pháp.
* Dàn bài chi tiết:
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
- Mở bài:
– Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Hồn thơ Quang Dũng : phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa – đặc biệt khi viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây ).
– Tây Tiến là một đơn vị bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, thành lập năm 1947; Quang Dũng làm đại đội trưởng. Khi Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ đơn vị cũ ông sáng tác bài thơ “Nhớ Tây Tiến” vào cuối năm 1948 à Bài thơ ra đời trong nỗi nhớ trung đoàn Tây Tiến và núi rừng Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.
– Ban đầu Quang Dũng đặt tên cho bài thơ là “Nhớ Tây Tiến”, sau đổi thành “Tây Tiến“ và in trong tập “Mây đầu ô”.
- Thân bài:
1. Đoạn 1: Nỗi nhớ của tác giả và con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
………….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
– Nhà thơ Quang Dũng gắn bó với trung đoàn Tây Tiến, gắn bó với núi rừng Tây Bắc trong những năm kháng chiến. Vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc – xa đơn vị bộ đội , xa vùng đất nhiều kỉ niệm kháng chiến tác giả nhớ nhung da diết:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
– Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết, ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị “Tây Tiến”, gọi tên con sông vùng Tây Bắc “sông Mã” mà thân thiết, dạt dào cảm tình như gọi tên những người thân thương trong cuộc đời mình.Phải chăng trung đoàn Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc gần gũi, thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến trở thành một “mảnh tâm hồn” của tác giả.
– Tác giả rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật điệp từ “nhớ” và từ láy “chơi vơi”, tác giả “nhớ chơi vơi” nỗi nhớ ấy không xác định được hết đối tượng, nhớ sông Mã, nhớ Tây Tiến, nhớ núi rừng Tây Bắc, … nhớ tất cả. Những nơi trung đoàn Tây Tiến đã đi qua, những đồng đội từng gắn bó,…tất cả đều trở thành kỉ niệm không thể nào quên. Chính vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc trong tâm hồn tác giả trào dâng nỗi nhớ da diết, mãnh liệt.
– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến: Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ, con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến nơi Tây Bắc hiện lên khá rõ nét.
– Trước hết là những vùng đất mà đoàn quân đã đi qua, gắn bó, mỗi vùng đất với một nét riêng không dễ gì quên:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
………..
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
+ Ở Sài Khao thì sương nhiều như muốn che lấp cả đoàn quân khiến cho đoàn quân mỏi mệt Đó cũng chính là những gian khổ mà chiến sĩ phải vượt qua.
+ Nếu như ở Sài Khao đoàn quân phải vất vả, mệt nhọc thì khi về Mường Lát thật ấm áp, lãng mạn bởi “hoa về trong đêm hơi”. “Hoa”, “ hơi” là hai hình ảnh làm cho bức tranh Mường Lát thêm gần gũi, trìu mến.
+ Về Pha Luông thì mưa rừng thật thú vị, vừa hành quân vừa ngắm cảnh vật dưới mưa thật lãng mạn, trữ tình.
+ Có lẽ “ấm lòng” nhất là khi hành quân về vùng Mai Châu , hương vị đặc sản “nếp xôi” của vùng đất ấy khiến các anh chiến sĩ dẫu có xa cũng không thể nào quên.
+ Còn ghê rợn nhất là khi về Mường Hịch, cái âm thanh phát ra từ núi rừng ấy thật là khiến cho con người cảm giác bất an: “cọp trêu người”.
Mỗi vùng đất trung đoàn Tây Tiến đi qua đều để lại dấu ấn trong tâm hồn, tuy có nhiều gian nan, vất vả nhưng cũng rất lãng mạn, trữ tình.
– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến được tác giả khái quát rõ nhất qua đoạn thơ:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
– Đoạn thơ ngắn nhưng thể hiện nét bút tài hoa của Quang Dũng. Ông thành công trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, bút pháp,…
+ Hàng loạt từ láy gợi hình ảnh, cảm xúc “Khúc khuỷu”, “Thăm thẳm”, “Heo hút”. Hình ảnh vừa hiện thực vừa táo bạo, phi thường như dốc cao khiến súng chạm trời – “súng ngửi trời”, dốc lên bao nhiêu thì xuống bấy nhiêu “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” .
+ Kết hợp hình ảnh với những âm thanh đặc sắc như “thác gầm thét”, “cọp trêu người”. Sử dụng nhiều thanh trắc.
+ Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
– Nét bút tài hoa của Quang Dũng đã vẽ lại con đường hành quân – chiến đấu của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp , con đường ấy thật gian khổ, hiểm nguy với đèo cao , dốc hiểm và thú rừng dữ tợn nhưng cũng thật lãng mạn, khó quên.
– Sau hàng loạt những câu thơ sử dụng thanh Trắc tác giả phóng bút một câu thơ toàn thanh Bằng khá độc đáo “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Phải chăng sau những đoạn đường hành quân, chiến đấu vất vả thì chiến sĩ Tây Tiến được thưởng thức nét lãng mạn của cơn mưa rừng, được thưởng thức nét đẹp của nhà ai thấp thoáng trong màn mưa. Những giây phút lãng mạn, thơ mộng trên con đường hành quân là ngọn nguồn sức mạnh để các chiến sĩ vượt qua gian lao, thử thách.
– Qua con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến ta cảm nhận được vẻ đẹp riêng của núi rừng Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến. Tây Bắc vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên thơ, trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến kiên cường, bất khuất, sẵn sàng vượt gian lao thử thách để thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
– Và trên con đường hành quân, chiến đấu, cũng có những chiến sĩ không còn đủ sức để tiếp tục nhiệm vụ, lí tưởng của mình:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
– Hai câu thơ gợi cái bi, sự mất mác, đau thương. Nhưng dẫu các anh “không bước nữa”, “bỏ quên đời” thì vẫn trong tư thế cầm súng. Một số chiến sĩ Tây Tiến không tiếp tục sự nghiệp , lí tưởng bởi lẽ sức đã kiệt. Các anh sống và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn thuốc men, lương thực, lại bị những cơn sốt rét rừng hoành hành nên không còn đủ sức để tiếp bước. Đây là hiện thực đau thương khó tránh khỏi trong những năm kháng chiến nên Quang Dũng cũng không ngần ngại khi nhắc đến. sự ra đi của đồng đội là mất mác không thể nào quên của đại đội trưởng Quang Dũng. Tác giả nhắc đến để tưởng nhớ, buồn thương , tự hào về đồng đội của mình và càng thôi thúc tinh thần chiến đấu để giành lấy sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự do.
→ Đoạn mở đầu bài thơ “Tây Tiến” da diết nỗi nhớ đồng đội , nhớ núi rừng Tây Bắc của tác giả Quang Dũng. Qua nỗi nhớ, con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến và bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện về khá rõ nét. Đó cũng chính là cái “tình” mà Quang Dũng dành cho Tây Tiến ,Tây Bắc: Yêu mến, gắn bó và tự hào;
“Khi ta ở , chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
2. Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
……….
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
– Kỉ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến. Đúng vậy, các chiến sĩ Tây Tiến cũng như chính tác giả cũng không thể nào quên những kỉ niệm trong những năm kháng chiến cùng đồng đội, quân dân. Kỷ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”
+ Đêm “hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào (Tây Bắc, Lào) . “Doanh trại bừng lên” – tác giả sử dụng từ “bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và tỏa hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “đuốc hoa”, có tiếng khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu , thướt tha , e ấp, dịu dàng. “Em” ở đây là cô gái, có thể là các cô gái miền núi Tây Bắc nước ta, có thể là các cô gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người.
+ Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình nên khi các cô gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến các anh ngạc nhiên , thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được tác giả diễn tả ở từ “Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có những “đóa hoa” say lòng người đến thế.
+ Say mê, thích thú trong đêm hội để về “xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với các cô gái Các chiến sĩ thật là lãng mạn.
+ Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh sáng,… Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp, lãng mạn. Và đó cũng chính là một trong những kỉ niệm không thể nào quên của trung đoàn Tây Tiến, minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây phút vui vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang của các chiến sĩ trên chiến trường ác liệt.
– Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến, Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ, vùng Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn ,… thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”
– Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1884 mét , nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm hồn của bao người.
+ “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947, sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng.
+ “Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối“nẻo bến bờ”. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “ hồn lau nẻo bến bờ”.
+ Điệp ngữ “có thấy”, “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Trong chia phôi còn có nhớ , nhớ cảnh rồi nhớ đến người. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ?
+ “Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và con người Tây Bắc thật tài hoa!
– Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao nguyên Châu Mộc. Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn, Quang Dũng vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người. Nhà thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá đến như thế.
– Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
→ Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng , tâm hồn và sự gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp.
3. Đoạn 3: chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn trong máu lửa chiến tranh.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
– Trên những nẻo đường hành quân, chiến đấu, vượt qua bao đèo cao dốc hiểm, đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực,…
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
– Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc liệt của chiến tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “xanh màu lá” tương phản với nét “dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ.
– “Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến, tuy các chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa bức chân dung lẫm liệt của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy, xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính cụ Hồ.
– Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật,… nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
– Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương,…
– Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt , “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt kẻ thù,bảo vệ biên cương, lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn quân Tây Tiến, của chiến sĩ cụ Hồ.
– Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội ,về “dáng kiều thơm”. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “Xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,… Làm sao các anh quên được những tà áo trắng, những cô gái thân thương,… những “dáng kiều thơm” đã từng hò hẹn,…?
+ Hình ảnh “dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị, ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc.
– Viết về “mộng” và “mơ” của trung đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến chống Pháp.
4. Đoạn 4: Bốn câu thơ tiếp theo tô đậm chân dung chiến sĩ Tây Tiến:
– Trong gian khổ chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ nằm lại nơi chân đèo góc núi :
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
……..
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
– Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” để lại trong lòng ta nhiều thương cảm , biết ơn, tự hào,…. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám lạnh, ảm đạm, hiu hắt ,…và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí, tinh thần của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân.
– “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do,… Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết trước mắt họ vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “quyết tử cho Tố quốc quyết sinh”.
– Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong những năm kháng chiến chống Pháp: ”chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
– Cảnh tượng bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai câu cuối của đoạn thơ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
– Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm áo bào bình dị ấy “về với đất”. Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống là “ về đất”, nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ “chết”, “hi sinh” mà dùng từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
– Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên” hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ.
– Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài. Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn , kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc:
“Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !”
(Tố Hữu)
– Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng, Quang Dũng khẳng định, ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng.
– Quang Dũng sử dụng lớp ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt; từ ngữ chỉ địa danh. Nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,.. đã được vận dụng triệt để. Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ, chất nhạc. Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp khác biệt của bài thơ Tây Tiến, khẳng định nét bút tài hoa của hồn thơ Quang Dũng.
- Kết bài:
– Bài thơ là bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc tổ quốc ta vừa tráng lệ, hùng vĩ vừa nên thơ, trữ tình. Qua nỗi nhớ Tây Tiến, Quang Dũng khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp đậm chất bi tráng về hình ảnh người lính Tây Tiến: tâm hồn lãng mạn, khí phách anh hùng, lí tưởng cao cả Vẻ đẹp của chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về trung đoàn Tây Tiến và quê hương Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.