phan-tich-dan-ghi-ta-cua-lor-ca-cua-nha-tho-thanh-thao

Dàn bài phân tích ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA của nhà thơ Thanh Thảo

Dàn bài phân tích ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA của nhà thơ Thanh Thảo

  • Mở bài:

– Thanh Thảo là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Thanh Thảo là sự lên tiếng của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại. Thanh Thảo thể hiện sự cách tân thơ Việt: Đào sâu cái tôi nội cảm; cách biểu đạt mới với câu thơ tự do, xoá bỏ ràng buộc khuôn sáo bằng nhịp điệu, cách gieo vần. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca rút trong tập “Khối vuông ru-bích” (thơ – 1985), là tác phẩm tiêu biểu của hồn thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực.

  • Thân bài:

– Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca viết về cái chết của Lor-ca, nhà thơ, họa sĩ, nhà viết kịch, nhà hoạt động sân khấu thiên tài người Tây Ba Nha. Qua bài thơ Thanh Thảo muốn bộc lộ sự thương xót, tiếc nuối với cái chết của Lor-ca và những cách tân nghệ thuật của ông. Bài thơ là sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình, giữa nhạc và thơ, giữa màu sắc thơ viếng phương Đông và chất bi tráng trong nhạc giao hưởng ở phương Tây…

1. Ý nghĩa nhan đề: Đàn ghi-ta của Lor-ca.

– Đàn ghi-ta: là biểu tượng cho nghệ thuật, là tượng trưng cho đất nước Tây Ban Nha.

– Lor-ca (1898 -1936), là một tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha. Nghệ thuật của ông có ảnh rất lớn hưởng đến tinh thần của nhân dân Tây Ban Nha nói riêng và Tây Âu nói chung. Lor-ca còn là một chiến sĩ kiên cường chống lại chủ nghĩa phát xít cực đoan vì nền tự do ở Tây Ban Nha, với khát vọng tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật mãnh liệt. Hoảng sợ trước ảnh hưởng to lớn của ông, bọn Phăng-cô thân phát-xít đã bí mật sát hại
ông.

– Cái chết bất ngờ và đầy bí ẩn của Lor-ca đã dấy lên một làn sóng phẫn nộ với bè lũ phát xít Phăng-cô. Tên tuổi của Lor-ca từ đó đã trở thành biểu tượng, là ngọn cờ tập hợp các nhà văn hoá Tây Ban Nha và thế giới chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại.

→ Đặt đàn ghi-ta với Lor-ca tác giả muốn ta cho thấy sự gắn bó của Lor-ca với nghệ thuật của đất nước Tây Ban Nha. Đồng thời cho thấy ảnh hưởng của Lor-ca với nghệ thuật của đất nước ông.

2. Ý nghĩa lời đề từ: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”.

– Câu nói trích trong bài thơ “Ghi nhớ” của Lor-ca. Là câu nói nổi tiếng của ông trước khi từ biệt cõi đời và được xem như một di chúc để lại hậu thế.

– Lời đề từ thể hiện một tình yêu say đắm mãnh liệt của ông với nghệ thuật và với đất nước Tây Ban Nha. Lor-ca là một nghệ sĩ, một nhà cách tân nghệ thuật có ảnh hưởng đến nghệ thuật của đất nước Tây Ban Nha. Ông nghĩ một ngày nào đó ông sẽ là vật cản cho những người sáng tạo đến sau. Vậy có thể xem đó là một lời dặn “Hãy chôn nghệ thuật của ông cùng với ông để người sau có thể bước tiếp”.

3. Vẻ đẹp của hình tượng nghệ sĩ Lor-ca.

a. Lor-ca – nhà nghệ sĩ mang khát vọng đổi mới nhưng đơn độc (6 dòng thơ đầu):

– Hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ với vẽ đẹp kì vĩ: “áo choàng đỏ”: Hình ảnh gợi bản sắc văn hoá Tây Ban Nha. Hình ảnh Lor-ca như một đấu sĩ với khát vọng dân chủ trước nền chính trị Tây Ban Nha. độc tài lúc bấy giờ.

– Tiếng đàn “những tiếng đàn bọt nước” đó là thứ âm thanh có hình khối dường như tròn trịa, trẻ trung, mỏng manh nhưng không thể bị tiêu diệt (lúc hiện, lúc tan). Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” đã thể hiện một cách tinh tế sự mong manh của tiếng đàn mang khát vọng đổi mới nghệ thuật Tây Ban Nha, rộng hơn là khát vọng đổi mới đất nước Tây Ban Nha.

– Hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” mang ý nghĩa biểu tượng cho một trong những đặc điểm văn hoá của đất nước Tây Ban Nha: lễ hội, phong tục đấu bò tót có từ lâu đời (Trong lễ hội đấu bò tót, những dũng sĩ, những đấu sĩ anh hùng khoác tấm áo choàng đỏ thắm để quyết đấu với con vật).

– Hình ảnh người nghệ sĩ một mình một ngựa đi về nơi cô đơn thể hiện sự đơn độc của con người đi trước thời đại (Trong cơn say chếnh choáng của khát vọng đổi mới, nhà thơ – nhà nhạc sĩ đã có những sáng tạo vượt thoát khỏi nền nghệ thuật già nua đương thời nhưng đơn độc).

b. Lor-ca – người chiến sĩ, người anh hùng đấu tranh cho tự do (12 dòng thơ tiếp):

– Cái chết của người nghệ sĩ thật bất ngờ, đau đớn. Đó là cái chết đầy bi phẫn, cái chết bi hùng: “bỗng kinh hoàng/ áo choàng bê bết đỏ”. Từ hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” ở dòng thơ thứ hai đã chuyển thành “áo choàng bê bết đỏ” để nói về cái chết của người nghệ sĩ: Lor-ca bị nhà cầm quyền, bọn phát xít sát hại.

– Lor-ca đi ra bãi bắn như người mộng du trong âm thanh vang vọng của tiếng đàn (Tác giả có cách thể hiện mới, rất độc đáo, rất ấn tượng khi nói về tiếng đàn của Lor-ca: “tiếng ghi ta nâu/ bầu trời cô gái ấy” là tiếng đàn của tình yêu, gợi nhớ về người con gái Di-gan da màu từng làm say đắm lòng người nghệ sĩ lãng mạn. Tiếng ghi ta lá xanh là tiếng đàn của khao khát, hi vọng. Tiếng ghi ta “tròn bọt nước vỡ tan” là tiếng đàn của khát vọng và sự đổ vỡ. Tiếng ghi ta “ròng ròng máu chảy” là tiếng đàn của đau thương. Thời khắc bi thương, bi hùng của người chiến sĩ hi sinh cho tự do, cho khát vọng đổi mới được thể hiện qua tiếng đàn ghi ta với rất nhiều âm sắc).

→ Âm nhạc đã thành thân phận, tiếng đàn thành linh hồn, sinh thể. Thể hiện sự kiện thảm khốc theo lối tượng trưng.

– Biện pháp nghệ thuật:

+ Đối lập: Hát nghêu ngao ><  áo choàng bê bết đỏ; khát vọng >< hiện thực phũ phàng; giữa tiếng hát yêu đời vô tư, giữa tình yêu cái Đẹp và hành động tàn ác, dã man.

+ Nhân hoá: “Tiếng ghi ta… máu chảy”.

+ Hoán dụ: “Áo choàng”, “tiếng ghi ta” → Lor-ca.

+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: Tiếng ghi ta vỡ ra thành màu sắc, hình khối, hành động…

* Với việc sử dụng biện pháp nghệ thuật tài tình, tác giả đã khắc hoạ thật ấn tượng về cái chết đầy bi phẫn của người nghệ sĩ Lor-ca.

→ Thể hiện tấm lòng đau xót, tiếc thương trân trọng của tác giả.

c. Lor-ca – người nghệ sĩ mang khát vọng đổi mới sẽ trở thành bất tử (13 dòng thơ cuối):

– Những khát vọng đổi mới là bất diệt:

+ Dòng thơ “không ai chôn cất tiếng đàn” vừa mang nghĩa thực: không gì chôn nổi tiếng đàn vì tiếng đàn là âm thanh, mà có ai chôn nổi âm thanh; vừa mang nghĩa nghệ thuật: tiếng đàn ghi ta mang những đổi mới, những sáng tạo của người nghệ sĩ, mang khát vọng cách tân của Lor-ca sẽ không bao giờ mai một trong lòng nhân dân Tây Ban Nha.

+ Dòng thơ “không ai chôn cất tiếng đàn” gợi lại câu thơ đề từ, gợi lại lời của chính Lorca: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Mong ước của nhà thơ – nhạc sĩ ấy nói lên sự gắn bó trọn đời của Lor-ca với nghệ thuật, với đất nước Tây Ban Nha. Tuy nhiên lời của Lor-ca: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” còn bao hàm ý nghĩa: nghệ thuật của Lor-ca nhất định sẽ được phát triển và được thay thế bằng nghệ thuật mới của lớp trẻ, hiện đại hơn, hay hơn, giá trị hơn.

+ Hình ảnh “tiếng đàn như cỏ mọc hoang” diễn tả sức sống mãnh liệt của nghệ thuật mang khát vọng đổi mới: cỏ mọc hoang vì bộn bề những cách tân, cái mới đang vươn lên, tuy hoang sơ nhưng táo bạo và vô cùng mạnh mẽ.

– Nhà thơ gợi lên cái chết bi phẫn của Lor-ca nhưng cũng để bất tử hoá người nghệ sĩ thiên tài:

+ Hình ảnh “giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh trong đáy giếng” gợi lên sự kiện sau khi sát hại Lor-ca, bọn phát xít tàn bạo và đê hèn, muốn phi tang, đã ném xác người nghệ sĩ xuống giếng. Hình ảnh này gợi lên nhiều cách hiểu, nhiều ý nghĩa: giọt nước mắt (và) vầng trăng, giọt nước mắt (với) vầng trăng, giọt nước mắt (như) vầng trăng, giọt nước mắt (của) vầng trăng, giọt nước mắt (là) vầng trăng. Dù hiểu theo cách nào thì giọt nước mắt cũng gợi lên sự đau thương, vầng trăng gợi lên sự lung linh, huyền ảo, vĩnh hằng.

+ Hình ảnh “dòng sông rộng vô cùng/ Lor-ca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc” gợi lên chuyến đi linh thiêng vào cõi vĩnh hằng của người nghệ sĩ thiên tài. Dòng sông rộng vô cùng hay là dòng thời gian? Lor-ca trên chiếc ghi ta màu bạc sang ngang hay âm nhạc của Lorca vượt dòng thời gian để bất tử?

– Kết thúc bài thơ vẫn là âm thanh vang vọng của tiếng đàn: “li-la li-la li-la…”. Li-la còn là tên một loài hoa – hoa li-la (tử đinh hương). Chuỗi âm thanh kế tiếp “li-la li-la li-la” gợi hình ảnh những tràng hoa, chuỗi hoa bật tím liên tiếp giăng hàng (những đoá hoa người đời thầm kính viếng hương hồn Lor-ca hay ngàn muôn đoá hoa của sự sống đang nảy nở từ cái chết bi hùng của Lor-ca, những đoá hoa mang giá trị bất diệt của sự sống, của nghệ thuật? Dù hiểu theo nghĩa nào thì đó cũng là những đoá hoa bất tử).

→ Biểu tượng về cái chết bi thảm nhưng cũng đầy tính chất bi tráng, dũng mãnh. Tiếng lòng tri âm sâu sắc đối với người nghệ sĩ, thiên tài Lor-ca.

4. Đặc sắc nghệ thuật.

– Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là tính hiện đại được thể hiện qua các phương diện: kết cấu, hình ảnh, nhịp điệu và nhạc điệu.

+ Kết cấu: Sự liên kết giữa các dòng thơ không có dấu ngắt câu, các chữ đầu dòng không viết hoa, thể hiện quan niệm: Cảm xúc liền mạch, không mở đầu, không kết thúc như chính cuộc sống bất tận. Lor-ca và nghệ thuật của Lor-ca là bất tử.

+ Hình ảnh: Hình ảnh thể hiện đặc điểm, tâm hồn, văn hoá Tây Ban Nha (cây đàn, chiếc áo choàng đỏ). Hình ảnh lạ hoá (các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tượng trưng: tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn bọt nước, tiếng đàn như cỏ mọc hoang, giọt nước mắt vầng trăng-, li-la gợi hình ảnh hoa tử đinh hương).

+ Nhịp điệu, nhạc điệu: Nhịp điệu thơ tự do, phù hợp với cảm xúc tự do, lòng yêu tự do phóng khoáng, phù hợp
lời bài hát tự nhiên, nhiều khi ngẫu hứng. Điệp khúc “li-la-li-la-li-la”: âm thanh tiếng đàn, lời bài hát rộn ràng, du dương, ngân vang trong ngưỡng vọng và tiếc nuối.

+ Xây dựng các biểu tượng thơ đa diện, giàu ý nghĩa, có sức chứa lớn về nội dung.

+ Thể thơ tự do, không dấu câu, không dấu hiệu mở đầu, kết thúc.

Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình, giữa nhạc và thơ, giữa màu sắc thơ phương Đông và chất bi tráng trong nhạc giao hưởng ở phương Tây mang phong cách tượng trưng pha màu sắc siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca; hình ảnh thơ phong phú, ngôn từ mới mẻ góp phần làm nên diện mạo phong phú của thơ ca Việt Nam sau 1975.

  • Kết bài:

– Bài thơ đã thể hiện nỗi đau xót sâu sắc trước cái chết bi thảm của Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca, nhà thơ thiên tài của Tây Ban Nha, của Thanh Thảo. Đồng thời, bài thơ cũng đã thể hiện thái độ ngưỡng mộ người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX bị giết hại một cách phũ phàng được biểu đạt bằng một hình thức độc đáo: kết hợp hài hòa hai yếu tố thơ và nhạc về cấu tứ; sức gợi mở đa dạng, phong phú về hình ảnh và sự mới mẻ về ngôn từ. Con người ấy đã mang tài năng của mình để đấu tranh cho sự phát triển, tiến bộ của nền văn hóa, nghệ thuật của Tây Ban Nha. Nền nghệ thuật già cỗi, lỗi thời với những điều luật hà khắc dưới chế độ phát xít độc tài đã giết chết sự sáng tạo của người nghệ sĩ.


* Tham khảo:

Phân tích chi tiết bài thơ ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA của nhà thơ Thanh Thảo

  • Mở bài:

Thanh Thảo không chỉ là tác giả của những bài thơ và trường ca mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh như Những người đi tới biển (1977), Dấu chân qua trảng cỏ (1978), Trẻ con ở Sơn Mĩ (1978) mà còn là một trong số những cây bút đi đầu trong việc cách tân thơ Việt với xu hướng đào sâu vào cái tôi nội cảm và tìm kiếm các hình thức diễn đạt mới, tiêu biểu là tập “Khối vuông ru bích” (1985). “Đàn ghi ta của Lor-ca” được rút ra từ tập thơ “Khối vuông ru-bích” – tập thơ thể hiện quan niệm sâu sắc, độc đáo của Thanh Thảo về thơ và cấu trúc thơ. Lấy cảm hứng từ cuộc đời rực rỡ và số phận bi thảm của Gar-xi-a Lor-ca, một nhà thơ, nhà soạn kịch, một họa sĩ và một nhạc sĩ của xứ sở Tây Ban Nha, với niềm đồng cảm, xót thương, trân trọng và ngưỡng mộ tài năng nhân cách của Lor-ca Thanh Thảo đi khắc họa thành công hình tượng Lor-ca từ nhiều góc độ: hào hùng mà mềm mại, đa tình mà bi tráng. Thanh Thảo đã dựng lại tượng đài nhà thơ, nhạc sĩ thiên tài Tây Ban Nha bằng tiếng Việt.

“Đàn ghi ta của Lor-ca” được coi là biểu tượng cho nghệ thuật của Lor-ca, cho những cách tân nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật của người nghệ sĩ tài danh này. Và trên hết, nó chính là hiện thân của Lor-ca. Nhưng nhan đề là một phần của sinh thể tác phẩm – sản phẩm tinh thần của người nghệ sĩ. Cùng với tác phẩm, nó bộc lộ tưởng nghệ thuật của người viết. “Đàn ghi ta của Lor-ca”, do đó, không chỉ là dòng tưởng niệm mà Thanh Thảo muốn dành cho Lor-ca với tất cả lòng kính trọng mà còn cách phát biểu quan niệm nghệ thuật của nhà thơ : nghệ thuật phải sáng tạo, nghệ thuật phải không ngừng đổi mới.

  • Thân bài:

Lời đề từ của bài thơ cũng là di chúc của Lor-ca “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Đây là câu nói nổi tiếng của Lor-ca trước khi từ biệt cõi đời. Câu nói trước hết thể hiện tình yêu say đắm với nghệ thuật, với quê hương xứ sở của nhà thơ. Tuy nhiên, Lor-ca không phải là người nghệ sĩ sinh ra để nói những điều đơn giản và một nhà thơ như Thanh Thảo (luôn khước từ lối biểu đạt dễ dãi) cũng không chấp nhận những cách nói giản đơn. Cho nên, câu nói của Lor-ca còn có một thâm ý khác. Với tư cách là một nhà cách tân nghệ thuật, Lor-ca nghĩ rằng đến một ngày nào đó thơ ca của ông cũng sẽ án ngữ, ngăn cản sự sáng tạo nghệ thuật của những người đến sau. Vì thế, nhà thơ đã căn dặn các thế hệ sau : hãy “chôn” nghệ thuật của ông (cùng với ông) để bước tiếp. Đây có lẽ là ý nghĩa sâu xa trong lời đề từ của bài thơ.

Lor-ca là người nghệ sĩ và người chiến sĩ đấu tranh cho tự do, công lí. Hình ảnh Lor-ca được xuất hiện qua các hình ảnh tượng trưng siêu thực:

“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la“.

Đó là hình ảnh những tiếng đàn bọt nước không phải ngẫu nhiên Thanh Thảo lấy lại hình ảnh những tiếng đàn để gợi tả Lor-ca. Đàn ghi ta gắn bó mật thiết với Lor-ca trên những nẻo đường ca hát và sáng tạo, Lor-ca đã viết về cây đàn ghi ta:

“cây đàn ghi ta cất tiếng thở than
như cốc rượu ban mai sóng sánh đổ tràn
cây ghi ta bắt đầu lời ai oán
dỗ nó nín đi phỏng có ích gì
chẳng thể nào làm cây đàn im tiếng
nó van vỉ như dòng nước sâu
thổn thức như gió thở dài trên đỉnh tuyết lạnh băng.
ơi ghi ta!
trái tim người tư thương dưới năm ngọn kiếm sắc”

Vì thế đàn ghi ta trở thành biểu tượng cho con đường nghệ thuật, cho khát vọng nghệ thuật cao cả mà ông nguyện phấn đấu suốt đời. Với Lor-ca đàn ghi ta là sự quyến rũ kì lạ của âm nhạc mà người nghệ sĩ này đã dùng tiếng đàn ghi ta cất lên lời tranh đấu chống lại chủ nghĩa phát xít.

Đàn ghi ta còn là tâm hồn Lor-ca, là khí phách kiên cường của người nghệ sĩ yêu tự do, hòa nhịp trái tim mình với quần chúng nhân dân, là biểu tượng cho tình yêu của ông với đất nước của cây Tây Ban cầm. Đàn ghi ta còn là định mệnh, là linh hồn của người nghệ sĩ. Cho nên ngay từ khi còn trẻ Lor-ca đã linh cảm: “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta.”

Hình ảnh “bọt nước đã gắn liền với hình ảnh đàn ghi ta. Hình ảnh “bọt nước” gợi sự nhỏ bé mong manh, chìm nổi, phù du. Sự kết hợp những tiếng đàn với bọt nước gợi liên tưởng cho người đọc về cuộc đời của Lor-ca. Cuộc đời của Lor-ca cũng mỏng manh, ngắn ngủi tựa như những bọt nước nổi lên rồi nó lại vỡ tan. Sinh mệnh người nghệ sĩ trong xã hội cũ vô cùng ngắn ngủi.

Lor-ca còn được gợi tả qua hình ảnh “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”. Hình ảnh này gợi liên tưởng tới đấu trường bò tót – một nét đặc trưng của văn hóa Tây Ban Nha. Nhưng ở đây Thanh Thảo không muốn nói tới một đấu trường bò tót mà là một đấu trường chính trị, trong đó Lor-ca là người chiến sĩ đấu tranh cho tự do công lí, là người nghệ sĩ có khát vọng đổi mới nền nghệ thuật già nua Tây Ban Nha.

Thanh Thảo đã chọn hai hình ảnh này khởi đầu cho thi phẩm giống như kiểu tạo âm chữ cho một nhạc phẩm. Chúng là những tương phản kín đáo mà gay gắt đó là sự tương phản giữa âm thanh hồn nhiên với màu sắc chói gắt, tương phản giữa tiếng đàn thảo dân với áo choàng đấu sĩ, tương phản giữa vẻ khiêm nhường với sự ngạo nghễ, giữa niềm hân hoan với nỗi kinh hoàng, giữa nghệ thuật và bạo lực, giữa thân phận bọt bèo với thực tại tàn khốc. Sự đối chọi ấy đã miêu tả đầy sức ám gợi về cả sinh mệnh và sứ mệnh của Lor-ca. Sinh mệnh của Lor-ca rất ngắn ngủi nhưng sứ mệnh của chàng vô cùng cao cả. Và trên cái nền hiện thực tranh chấp đối chọi ấy nổi lên chân dung Lor-ca.

“đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn”.

Các từ láy “lang thang” “đơn độc” “chếch choáng” “mỏi mòn” đã tạo nên bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại biến động đầy bão táp. Trong không khí ngột ngạt của nền chính trị độc tài trên đất nước Tây Ban Nha, trong sự già nua của nền nghệ thuật đang cần sự cách tân, đổi mới. Chàng trai trẻ Lor-ca một mình một ngựa đi lang thang về miền đơn độc, về những vùng đất làng quê hẻo lánh của đất nước Tây Ban Nha. Với cây đàn ghi ta chàng hát những khúc ca tư tình mang đậm màu sắc dân gian Tây Ban Nha bày tỏ tình yêu quên hương xứ sở và cổ vũ tinh thần, khát vọng tự do của nhân dân Tây Ban Nha trên hành trình đấu tranh cho công lí, chỉ có tiếng đàn ghi ta với âm thanh dìu dặt tha thiết:“li la li la li la”

Vẻ đẹp của văn hóa Tây Ban Nha “áo choàng đỏ gắt”, sắc tím dìu dịu của hoa từ đinh hương trên mọi nẻo đường Tây Ban Nha và vầng trăng chếnh choáng cùng chàng trai trẻ phiêu du đơn độc mỏi mòn. Phải chăng những hình ảnh âm thanh sắc màu ấy là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật. Vượt lên trên sự đe dọa của các thế lực bạo tàn là vẻ đẹp lãng du của Lor-ca trên con đường đấu tranh cho tự do và công lí. Nhìn theo góc độ nào cũng vẫn chỉ thấy hành trình của con người tự do và nhà cách tân nghệ thuật mong manh và đơn độc.

Như vậy trong khổ thơ đầu, bằng những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng siêu thực, mang tính biểu tượng đối lập kín đáo kết hợp những từ láy, Thanh Thảo đã phác họa chân dung Lor-ca người chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp công lí, người nghệ sĩ cô đơn trên hành trình. Tuy nhiên có một điều đáng nói là Lor-ca luôn xuất hiện trên nền của cái đẹp của nghệ thuật, của văn hóa Tây Ban Nha. Một vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng.

Từ những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng siêu thực nhưng ẩn chứa những dự cảm về dòng đời mong manh ngắn ngủi của một nghệ sĩ thiên tài. Trong hai khổ thơ tiếp theo Thanh Thảo đã miêu tả cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca và khát vọng cách tân nghệ thuật đầy dang dở.

“Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du”

Cái chết của Lor-ca được miêu tả qua những hình ảnh tả thực đó là hình ảnh áo choàng bê bết đỏ, hình ảnh này có khả năng gợi tả cái chết bi thảm và đẫm máu của Lor-ca vì thế mà tấm áo choàng của chàng ướt đẫm một màu máu. Bọn phát xít Frăng-cô đi bắn hàng loạt súng vào người nghệ sĩ thiên tài, người chiến sĩ đấu tranh cho tự do công lí. Cho nên từ áo choàng đỏ gắt đầy kiêu hãnh chuyển thành áo choàng bê bết đỏ vô cùng đau thương.

Cùng với hình ảnh tả thực ở khổ thơ này ngôn từ trong các dòng thơ này cũng được tình lược đến mức tối đa: Tây Ban Nha (một từ), hát nghêu ngao (hai từ), bóng kinh hoàng (hai từ)…. Câu thơ gọn nhưng nỗi đau thương thì đậm đặc, nhà thơ nhạc sĩ thiên tài Lor-ca đã ngã xuống ngay trên quê hương mình khi mới 38 tuổi, ngã xuống cùng cây đàn ghi ta huyền thoại của anh. Cái chết của Lor-ca làm chấn động cả đất nước Tây Ban Nha và làm chấn động cả tâm hồn người nghệ sĩ trẻ tuổi Lor-ca bị giết vào lúc không ngờ nhất, khi cả đất nước Tây Ban Nha đang hát vang những khúc ca lãng du phóng khoáng tự do của người nghệ sĩ thiên tài. Và khi Lor-ca đang hát ngêu ngao những bài ca tranh đấu, bọn phát xít đã điệu chàng về bãi bắn, họng súng bạo tàn của bọn phát xít hướng về chàng, tấm áo đẫm ướt một màu máu mà Lor-ca đi như người mộng du như không biết mình bị giết chết hay chàng không để ý tới cái chết.

Đặc biệt trong cấu trúc dòng thơ cả bài thơ có hai lần tên Lor-ca xuất hiện, trong lần thứ hai Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc – hình ảnh Lor-ca xuất hiện trong những câu thơ siêu thực. Còn trong lần xuất hiện đầu tiên, Lor-ca bị điệu về báo bắn, hình ảnh Lor-ca xuất hiện trong những câu thơ tả thực, so với phần lớn những câu thơ trong bài đây là câu thơ có chủ thể, để cho Lor-ca xuất hiện nhà thơ muốn nhấn mạnh một sự thật buồn đau của quá khứ bạo tàn và hình tượng nhà thơ Tây Ban Nha đấu tranh vì tự do công lí hiện ra rất thực và đầy chất bi tráng.

Như vậy với hình ảnh tả thực, sự tình lược tối đa về mặt ngôn ngữ và để Lor-ca xuất hiện trực tiếp người đọc hình dung rất chân thực về thời điểm bi phân nhất trong cuộc đời Lor-ca. Cái chết của chàng đã tạo nên một niềm đồng cảm xót thương cho cuộc đời người nghệ sĩ trẻ tuổi. Đồng thời gợi lên người đọc lòng căm thù với chế độ phát xít độc tài.

Nhưng ngày sau hình ảnh tả thực là những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng siêu thực

“tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy”

Những hình ảnh này gợi cho ta rất nhiều liên tưởng. Từ những tiếng đàn bọt nước đã trở thành tiếng ghi ta nâu. Màu nâu gợi liên tưởng tới những làn da rám nắng của những cô gái Tây Ban Nha. Nhưng màu nâu còn gợi liên tưởng tới màu của đất đai màu mỡ của quê hương xứ sở.

Cùng với hình ảnh ghi ta nâu là hình ảnh bầu trời cô gái ấy. Bầu trời gợi không gian bao la và cao rộng, nó biểu tượng cho khát vọng tự do. Còn cô gái ấy chính là Mariana, là người yêu của Lor-ca. Trong thời khắc Lor-ca bị bắn chết hướng về tình yêu của mình. Bên cạnh hình ảnh “bầu trời cô gái ấy” còn là “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”. Lúc sinh thời Lor-ca đã viết trong bài “ghi nhớ”:

“bao giờ tôi chết
hãy chôn tôi giữa những cây cam và cây bạc hà tốt lành”

Vậy phải chăng màu lá xanh chính là màu của sự sống bất tận. Cái chết của Lor-ca còn tạo một phản ứng dây chuyền, từ âm thanh trở thành màu sắc, từ âm thanh trở thành hình khối “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” và cuối cùng thành sự chuyển động “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”

Việc kết hợp các danh từ liên kết tiếp bên cạnh nhau qua thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã có khả năng diễn tả cái chết đầy bi tráng của Lor-ca. Mặc dù bị bọn phát xít Frăng có giết hại một cách tàn nhẫn nhưng khi ngã xuống trên quê hương Tây Ban Nha, Lor-ca vẫn hướng về con người, quê hương, tình yêu, sự sống và khát vọng tự do. Điều đó chứng tỏ, bọn phát xít có thể giết chết được Lor-ca những không thể giết chết được tình yêu quê hương xứ sở, tình yêu đối với con người và sự sống của chàng. Và chúng càng không thể tiêu diệt được khát vọng tự do công lí và nghệ thuật của Lor-ca. Vì thế tiếng đàn ròng ròng máu chảy vỡ ra như nước mắt khóc thương người nghệ sĩ thiên tài. Như vậy cái chết của Lor-ca từ sự bi thảm đã được nâng lên từ màu sắc trữ tình và bi tráng.

Niềm sót thương Lor-ca khi những tiếng đàn không được ai tiếp tục.

“không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng”

Để diễn tả niềm xót thương Lor-ca Thanh Thảo đã sử dụng nghệ thuật so sánh tiếng đàn với cỏ mọc hoang. Nói tới tiếng đàn là nói đến nghệ thuật Lor-ca, cỏ mọc hoang tượng trưng cho sự sống mãnh liệt và bất diệt. Thủ pháp nghệ thuật so sánh đã diễn tả sâu sắc niềm sót thương trước cái chết của Lor-ca. Sự ra đi của Lor-ca là một tổn thất lớn đối với quá trình cách tân nghệ thuật của đất nước Tây Ban Nha. Khi Lor-ca ra đi quá trình cách tân nghệ thuật ấy đã trở thành dang dở, nền nghệ thuật của Tây Ban Nha đã trở nên loạn nhịp vì thiếu một người nhạc trưởng chỉ huy, dẫn đầu. Vì vậy nghệ thuật của Tây Ban Nha sẽ ra sao. Sự ra đi của Lor-ca để lại một niềm tiếc thương vô bờ bến bởi khi còn sống Lor-ca đã viết: “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”.

Cây đàn là sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của Tây Ban Nha vì thế cây đàn còn có tên gọi khác là Tây Ban Nha cầm. Biết bao thế hệ người dân Tây Ban Nha đã sống và chết với cây đàn ấy. Lor-ca cũng tha thiết yêu quê hương xứ sở, chàng cũng muốn được chôn cùng cây đàn ghi ta để khi về còn lặng yêu chàng vẫn được hát những giai điệu dân ca của dân tộc mình. Nhưng khi Lor-ca bị giết chết, sự thực là chàng đã không được chôn cùng với cây đàn. Điều đó có nghĩa người ta đã không hiểu được tình yêu quê hương xứ sở của chàng. Với người nghệ sĩ đây là một nỗi đau lớn. Hơn nữa Lor-ca là một người nghệ sĩ thiên tài, là con chim họa mi của xứ sở Tây Ban Nha vì thế Lor-ca muốn người dân Tây Ban Nha hãy chôn vùi tên tuổi của Lor-ca, chôn vùi những khám phá, sáng tạo nghệ thuật của ông để sáng tạo ra một nền nghệ thuật thực sự và vượt lên trên tên tuổi của Lor-ca. Nhưng rất tiếc người ta cũng không hiểu di nguyện của chàng. Vì quá ngưỡng mộ Lor-ca người ta đã đặt chàng lên bệ thờ tên tuổi và sự nghiệp của Lor-ca đã trở thành vật cản đối với những cách tân khám phá sáng tạo của người đời sau. Đó là nỗi đau lớn nhất của người nghệ sĩ chân chính.

Hai câu thơ sau nhà thơ Thanh Thảo đã cụ thể hóa niềm xót thương Lor-ca:

“giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng”

Câu thơ có sự giao hòa của ánh sáng và màu sắc gợi lên suy tư và liên tưởng nhiều chiều. Có thể hiểu vầng trăng sáng lung linh là giọt nước mắt khổng lồ và giọt nước mắt ấy long lanh tựa như trăng ở đáy giếng. Ta đã từng gặp cách liên tưởng này trong “Nguyệt cầm” của Xuân Diệu.

“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần
Đàn buồn đàn lặng ôi đàn chậm
Môi giọt nơi tàn như lệ ngân”.

(Nguyệt cầm – Xuân Diệu)

Trong “Nguyệt cầm”, Xuân Diệu” đã vận dụng thuyết tương giao của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực để cảm nhận sự giao hòa của thiên nhiên mà ở đó trăng hóa thành đàn, ánh sáng của trăng thành sợi dây đàn và giọt âm thanh cũng đồng thời là giọt ánh sáng và giọt lệ. Sự cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu về sự tương giao của vạn vật trong trời đất nhằm diễn tả sự cô đơn đến rợn ngợp trong tâm hồn người nghệ sĩ. Còn Thanh Thảo lại cảm nhận sự tương giao màu sắc và ánh sáng để làm nổi bật lên sự xót thương. Vì thế trước cái chết của người nghệ sĩ thiên tài, ánh trăng đã hóa thánh nước mắt.

Tuy nhiên câu thơ cũng có thể hiểu theo cách thứ hai: ánh sáng của trăng chiếu xuống nơi đáy giếng tạo nên một vẻ đẹp lung linh với niềm xót thương cho cái chết của người nghệ sĩ thiên tài. Thanh Thảo đã tưởng tượng làn nước ấy là những giọt nước mắt mà người đời đã khóc thương Lor-ca. Dù hiểu theo cách nào người đọc có thể cảm nhận được cái chết của Lor-ca đã chạm thấu cả đất trời,  để lại niềm tiếc thương vô hạn cho thiên nhiên, con người, sự sống và niềm tiếc thương ấy là vĩnh cửu.

Suy tư về cuộc giải thoát và giã từ của Lor-ca.

“đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi-ta màu bạc”

Cái chết của Lor-ca để lại một niềm thương tiếc nhưng với Lor-ca đó lại là một sự giải thoát. Thanh Thảo đã suy tư về cuộc giải thoát và giã từ của Lor-ca Thanh Thảo đã sử dụng yếu tố có tính chất tâm linh để chỉ số phận và cái chết bi thảm của Lor-ca “đường chỉ tay đã đứt”. Đường chỉ tay là đường sinh mệnh của con người nhưng đường chỉ tay đã đứt diễn tả số mệnh của Lor-ca vô cùng ngắn ngủi trong dòng sông cuộc đời bao la. Lor-ca đã ra đi rất thanh thản:

Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi-ta màu bạc

Lần thứ hai tên Lor-ca lại xuất hiện nhưng không phải trong đời thường mà trong thế giới siêu thực. Để tên Lor-ca xuất hiện lần này nhà thơ muốn khẳng định rằng thế lực bạo tàn không thể tiêu diệt được anh. Câu thơ có sự xuất hiện của chủ thể nhưng hình tượng Lor-ca bắt đầu nhòe và mờ dần. Nhà thơ ảo hóa hình tượng nhân vật để khẳng định sự bất tử của Lor-ca. Ta có thể hình dung Lor-ca hiện ra trên chiếc ghi ta lấp lánh sắc bạc của tình yêu đã hòa quyện làm nên sắc thái đa dạng tâm hồn. Những thế lực bạo tàn đã giết chết Lor-ca, người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do công lí, cho sự cách tân nghệ thuật nhưng không một thế lực bạo tàn nào có thể tiêu diệt được tiếng đàn Lor-ca. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng Lor-ca đã:

“chàng ném lá bùa cô gái di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt

li-la li-la li-la…”

Lá bùa của cô gái Di-gan cho chàng để làm vật hộ mệnh nhưng bây giờ “đường chỉ tay đã đứt” lá bùa đâu còn ý nghĩa gì. Chàng ném cả trái tim mình vào lặng yên bất chợt. Những câu thơ siêu thực ấy diễn tả sự ra đi dứt khoát dã từ của Lor-ca. Chàng muốn tự mình giải thoát khỏi những hệ lụy của trần gian để về với cõi vĩnh hằng. Nhưng tiếng đàn ghi ta bất chợt lại ngân lên “li la li la li la”. Tiếng đàn ấy đã hòa nhập với non sông đất nước Tây Ban Nha, vượt qua biên giới và vang vọng trong tim mọi người. Thanh Thảo đã nhiều lần viết về tình yêu cái chết và sự bất tử. Thật đặc sắc qua âm thanh và giai điệu của tiếng đàn:

“anh rung giữa những sợi dây đàn
giữa những dây đàn dòng sông bỗng chảy xiết
và cô gái hiện lên đột ngột
cuốn ta về dòng sông.”

(Những người đi tới biển)

Một lần nữa dư âm của tiếng đàn ghi ta kéo dài sự sống của Lor-ca. Bài thơ khép lại bằng những âm vô nghĩa nhưng chiếm một dòng thơ. Đây là khổ thơ duy nhất chỉ có một dòng: “li la li la li la” đưa Lor-ca vào cõi yên lặng vĩnh hằng.

Như vậy qua tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” nhà thơ Thanh Thảo đã xây dưng rất thành công hình tượng Lor-ca , một người nghệ sĩ mang khát vọng đổi mới, cách tân nghệ thuật. Một người chiến sĩ khao khát đấu tranh cho tự do công lí nhưng cuộc đời đầy ngang trái bi phẫn. Đó là cuộc đời của con người “nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”. Cái chết của Lor-ca là một tổn thất lớn với nền nghệ thuật của Tây Ban Nha và để lại niềm tiếc thương muôn đời cho hậu thế. Tuy nhiên người nghệ sĩ ấy sẽ mãi mãi bất tử với những âm thanh giai điệu của tiếng đàn ghi ta.

Để xây dưng thành công hình tượng Lor-ca Thanh Thảo đã sử dụng những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng siêu thực gợi chiều sâu của suy tư liên tưởng. Đồng thời đó cũng là những thi liệu rất ám ảnh trong thế giới nghệ thuật của chính Lor-ca như đàn ghi ta, bài ca mộng du, con ngựa đen,vầng trăng đỏ, chàng kị sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu trường, cô gái Di-gan, lá bùa hộ mệnh, hoa từ đinh hương. Chính những thi liệu ấy đã tạo nên tính chân thật của Lor-ca.

  • Kết bài:

Bài thơ thể hiện nỗi đau xót sâu sắc trước cái chết bi thảm của Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca, nhà thơ thiên tài Tây Ban Nha. Thái độ ngưỡng mộ người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX bị giết hại một cách phũ phàng được biểu đạt bằng một hình thức độc đáo: kết hợp hài hòa hai yếu tố thơ và nhạc về cấu tứ; sức gợi mở đa dạng, phong phú về hình ảnh và sự mới mẻ về ngôn từ. Thanh Thảo có lối diễn đạt câu thơ không viết hoa đầu dòng tạo mạch thơ liên tục xâu chuỗi với nhau để nối kết các biểu tượng đầy sức ám ảnh. Bài thơ còn có sự kết hợp giữa chất tự sự và chất nhạc. Có thể xem bài thơ như một câu chuyện kể về cuộc đời của một con người. Câu chuyện ấy được kể trên cái nền của âm nhạc. Vì thế có thể xem bài thơ như một bản giao hưởng bi hùng.


Đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.

Theo lí thuyết văn học liên văn bản, bất cứ văn bản nào cũng là một liên văn bản, không phụ thuộc vào việc tác giả của văn bản có ý thức được điều đó hay không. Đọc “Đàn ghi ta của Lor-ca”, có thể thấy, mỗi từ, mỗi chi tiết, hình ảnh và cả hình tượng trung tâm trong đó đều là đầu mối của một quan hệ giao tiếp nghệ thuật rộng lớn, mà nếu thiếu tri thức về các văn bản (hiểu theo nghĩa rộng) có trước đó thì độc giả không thể cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của chúng. Lor-ca là nhà thơ như thế nào ? Đàn ghi ta của ông có cái gì đặc biệt ? Vầng trăng, yên ngựa, bước chân lang thang, tiếng hát nghêu ngao, bãi bắn, tấm áo choàng bê bết đỏ, giọt nước mắt vầng trăng trong đáy giếng, lá bùa cô gái Di-gan,… là những cái gì đây ? Đó có thể là những câu hỏi thầm vang lên trong tâm trí độc giả bình thường khi tiếp nhận bài thơ.

Nếu không chịu bỏ cuộc trên hành trình giải mã văn bản này và quyết tìm tới những văn bản khác đã làm nền cho nó (theo sự chỉ dẫn của các câu thơ trong bài), độc giả sẽ thực sự được đền bù. Trước mắt chúng ta lúc đó sẽ là một thế giới thi ca chói loà của thiên tài Lor-ca, là bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật vượt lên trên mọi sự đe doạ của các thế lực bạo tàn, hung hiểm. Từ những điều vừa thấy, nhìn ngược lại văn bản thơ đã tạo cơ hội mở rộng chân trời hiểu biết cho mình – bài “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo – ta sẽ nhận ra từ đây một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lor-ca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp.

Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc : những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn … tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? – Trước hết là nhờ “Đàn ghi ta của Lor-ca”.

Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,…

Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu- xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là “một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi” do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta – âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)…

Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự “trích dẫn”. Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo “nguồn gốc”, vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca – người mê dân ca, “chàng hát rong thời trung cổ”, “con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a”. Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng “song trùng” với hình tượng Lor-ca.

Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một “văn bản” khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 – cái “văn bản” đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý: Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du … tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó.

Trên thực tế, “Đàn ghi ta của Lor-ca” có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor- ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan vàtiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn.

Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị – xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng bê bết đỏ – tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này).

Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu- xi-a) như hình ảnhngười kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành “vấn đề” trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế.

Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li- la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?…

Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng ! ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ : không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc chàng ném lá bùa cô gái Di-gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la… Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ – lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ “chân dung” hay “ai điệu”, nhằm làm nổi bật những tứ thơ “mới” mang tính chất “ăn theo”.

Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca – một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở – đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí : không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được ! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được ! Đến lượt độc giả,giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết. Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm(tạm quy về phạm trù “nội dung”) mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,…

Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã “khôn dần lên”, sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại…

Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, “nhẹ nhõm” và “mênh mang” (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó “chìm lỉm” (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt – cái lặng yên của sự “đốn ngộ”, cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình.

Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê- su trên núi Sọ. Lại thêm một “văn bản” nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo !…

Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều “văn bản” khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được “tắm” trong một “dung môi” cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ?

Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la… Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, “lời” vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc – cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan – để thấu nhập bề sâu, “bề xa” của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy “Đàn ghi ta của Lor-ca” vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch

Tưởng cũng là điều thú vị nếu biết thêm rằng : trong bức tranh Cái chết của Lor- ca (1979, Viện bảo tàng tranh Trê-ti-a-kov, Mát-xcơ-va), hoạ sĩ người Nga A. Min-ni- kov đã xây dựng hình tượng Lor-ca giống như một cây thập giá với hai tay giăng ngang, mặt ngửa lên trời và lồng ngực vỡtoang, nổi bật lên giữa nền tranh nhuộm một sắc xanh xám tang thương, bi đát ; phía trước Lor-ca có một bụi gai.

* MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP.

Đề 1: Về hình tượng Lor-ca trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo, có ý kiến cho rằng: “Đó là mẫu nghệ sĩ – chiến sĩ, vì dấn thân tranh đấu cho dân chủ và tự do nên bị bọn phát-xít hành hình”. Ý kiến khác thì khẳng định: Đó là mẫu nghệ sĩ thuần túy, chỉ đam mê cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật, nhưng bị giết hại oan khuất. Từ cảm nhận của mình về hình tượng Lor-ca, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

Đề 2. Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây tiến và hình tượng Lorca qua hai đoạn thơ sau :

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Và:

“những tiếng đàn bọt nước

chàng đi như người mộng du”.

Đề 3: Cảm nhận về hai khổ thơ sau đây trích trong bài “Đàn ghi-ta của Lor-ca” của nhà thơ Thanh Thảo:

“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li la li la li la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếch choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Tây Ban Nha hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du…”

Đề 4: Cảm nhận về hai khổ thơ sau đây trích trong bài “Đàn ghi-ta của Lor-ca” của nhà thơ Thanh Thảo:

“Tây Ban Nha hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi-ta nâu bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy”.

Phân tích bài thơ Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang