Dàn bài phân tích tùy bút NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ của nhà văn Nguyễn Tuân.

dan-bai-phan-tich-tuy-but-nguoi-lai-do-song-da-cua-nha-van-nguyen-tuan

Phân tích tùy bút NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ của nhà văn Nguyễn Tuân.

  • Mở bài:

Nguyễn Tuân (1910-1987), được xem là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng Tiếng Việt. Các tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ, giàu có, điêu luyện.

– Tùy bút Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm (1958). Vẻ đẹp con sông Đà và cuộc vượt thác của ông lái đò trên sông Đà. Tác phẩm thể hiện sâu sắc phong cách của Nguyễn Tuân: trí tuệ, tài hoa, uyên bác.

  • Thân bài:

– Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc không phải để thể hiện niềm khao khát “xê dịch” mà đi tìm “chất vàng mười” của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Tác phẩm đã cho ta nhận ra diện mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao được hòa nhập với đất nước và cuộc đời (không giống với Nguyễn Tuân trước CMT8, con người chỉ muốn xê dịch cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”).

– Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một con người với hai tính cách:

1. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một con người với hai tính cách: vừa hung bạo, dữ dằn, vừa thơ mộng, trữ tình.

a. Sông Đà – con sông hung bạo, nham hiểm:

– Quan sát công phu, tìm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trên nhiều dạng vẻ. Những gì thuộc về sông Đà đều dữ dội: từ đá, cát đến nước, gió,…

+ Trong phạm vi một lòng sông hẹp, như chiếc yết hầu bị đá bờ sông chẹt cứng.

+ Trong khung cảnh mênh mông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè, đá giăng đến chân trời và sóng bọt tung trắng xóa.

+ Những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu.

+ Những trùng vi thạch trận sẵn sàng nuốt chết con thuyền và người lái.

+ Âm thanh luôn thay đổi: “oán trách nỉ non” → “khiêu khích, chế nhạo” → “rống lên”.

– Mượn ở các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên hàng loạt so sánh liên tưởng, tưởng tượng kì lạ, bất ngờ.

+ Hình dung một cảnh tượng rất đỗi hoang sơ bằng cách liên tưởng đến hình ảnh của chốn thị thành, có hè phố, có khung cửa sổ trên “cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

+ Tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát:

  • “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
  • “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.

+ Lấy hình ảnh “ô tô sang số nhấn ga” trên “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” để ví von với cách chèo thuyền…

+ Tưởng tượng về cú lia ngược của chiếc máy quay từ đáy cái hút nước → Cảm thấy có một cái thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày.

+ Dùng lửa để tả nước.

  • Biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
  • Bậc kì tài trong lĩnh vực sử dụng ngôn từ (Sự phá cách mà ngoại trừ các tay bút thực sự tài hoa, không ai làm nổi).

→ Sông Đà như hung thần, như loài thuỷ quái khổng lồ, khôn ngoan, mưu trí mà nham hiểm, hung ác. Con sông mang “tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người trên sông nước.

b. Sông Đà – một dòng chảy thơ mộng, trữ tình:

– Qua dáng vẻ, dòng sông như người con gái kiều diễm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”.

– Sông Đà dịu dàng, trong sáng, gợi cảm và đầy chất thơ, từ mặt nước đến đôi bờ dòng sông. Nhà văn dụng công tạo ra một không khí mơ màng, khiến người đọc có cảm giác như được lạc vào một thế giới kì ảo.

+ Con sông giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại với biết bao hào hứng.

+ Nắng cũng “giòn tan” và cứ hoe hoe vàng mãi cái sắc Đường thi “Yên hoa tam nguyệt”.

+ Mũi thuyền lặng lẽ trôi trên dòng nước lững lờ như thương như nhớ.

+ Con hươu thơ ngộ trên áng cỏ sương như biết cất lên câu hỏi không lời.

+ Bờ sông hoang dại và hồn nhiên như một bờ tiền sử, phảng phất nỗi niềm cổ tích.

  • Sự tài hoa đã đem lại cho áng văn những trang tuyệt bút.
  • Tạo dựng nên cả một không gian trữ tình đủ sức khiến người đọc say đắm, ngất ngây.

c. Ý nghĩa của hình tượng sông Đà:

– Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của tác giả: yêu thiên nhiên Tây Bắc, yêu dòng sông Đà quê hương với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa trữ tình, thơ mộng.

– Góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân:

+ Nguyễn Tuân hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt, đẹp phải tới mức tuyệt mĩ, dữ dội phải tới mức khủng khiếp. Sông Đà là một dòng sông độc lạ, đẹp cũng tới mức tuyệt mĩ và dữ dội cũng đến mức khủng khiếp.

+ Nhà văn thường vận dụng tri thức của nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau để tiếp cận và miêu tả đối tượng: Trong Người lái đò Sông Đà, tác giả sử dụng các tri thức về địa lí, lịch sử, quân sự, văn hoá, nghệ thuật – trong đó có văn học, điện ảnh – để miêu tả sông Đà.

2. Hình tượng ông lái đò:

a. Một người thông minh, tài trí, quả cảm (để chế ngự, chiến thắng dòng sông hung bạo).

– Cuộc vượt thác của ông lái đò như một trận thuỷ chiến giữa người và nước:

+ Dòng sông với sức mạnh của tự nhiên, khôn ngoan mà hiểm ác (đá bày thạch trận, mai phục dưới lòng sông, dụ và lừa con thuyền đi vào cửa tử, sóng nước như thể quân liều mạng…).

+ Ông lái đò bằng sự thông minh, tài trí, quả cảm đã chiến thắng dòng sông hung bạo (cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt cuống lái, vượt qua nhiều vòng vây thạch trận, tránh cửa tử, tìm hướng cửa sinh, túm lấy bờm sóng, cưỡi lên dòng thác hùm beo…).

b. Một người tài hoa, điêu luyện trong nghề.

– Ông lái đò hiểu rõ dòng sông, nắm chắc “binh pháp của thần sông, thần đá”, “nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà”.

– Tài điều khiển con đò, tài vượt thác tới mức thiện nghệ; nghề lái đò được đẩy lên tới mức xuất chúng, siêu việt, như một thứ nghệ thuật.

c. Cuộc vượt thác: một cuộc chiến không cân sức.

– Sông Đà: Sóng nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền; thạch trận với đủ 3 lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham hiểm → Dữ dội, hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh.

– Con người: Nhỏ bé, không hề có phép màu, vũ khí trong tay chỉ là chiếc cán chèo trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi → Hoàn toàn yếu thế trước thiên nhiên.

– Diễn biến:

+ Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi thạch trận; đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông.

+ Những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng qua bộ mặt xanh lè.

– Kết quả: Thác dữ đã không chặn bắt được con thuyền; con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên.

– Nguyên nhân làm nên chiến thắng: Sự ngoan cường, dũng cảm, tài trí, chí quyết tâm và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh. Con người được ví với khối vàng mười quý giá lại chỉ là những ông lái, nhà đò nghèo khổ, làm lụng âm thầm, giản dị, vô danh. Những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà trở nên lớn lao, kì vĩ, hiện lên như đại diện của Con Người.

→ Ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đó chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.

d. Ý nghĩa của hình tượng người lái đò.

– Thể hiện lòng yêu nước của tác giả: yêu mến, tự hào trước vẻ đẹp thông minh, dũng cảm và rất mực tài hoa của con người Việt Nam.

– Thể hiện một quan niệm mới về chủ nghĩa anh hùng: Anh hùng có ở những con người bình dị, có trong cuộc sống lao động sản xuất hằng ngày (Một ông lão đã bảy mươi tuổi có những hành động phi thường, sau hàng trăm lần chở hàng chiến thắng dòng sông “hung bạo” lập nên những kì tích, lại trở về với cuộc sống đời thường mà không hề nghĩ mình đã có những hành động anh hùng). Ông lái đò là hình tượng đẹp về người lao động mới.

– Góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân:

+ Nguyễn Tuân hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt, tài phải tới mức siêu phàm. Với Người lái đò Sông Đà, tài của ông đò trong nghề sông nước đã đạt tới mức siêu phàm.

+ Nhà văn thường tìm hiểu, miêu tả vẻ đẹp con người từ phương diện tài hoa nghệ sĩ (khái niệm tài hoa nghệ sĩ hiểu theo nghĩa rộng: làm bất cứ nghề gì cũng đẩy tới mức xuất chúng, siêu việt). Trong nghề lái đò, ông đò như người nghệ sĩ của sông nước.

3. Nghệ thuật biểu hiện:

– Tác phẩm thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân:

+ Tài hoa trong sử dụng từ ngữ, hình ảnh, câu văn:

  • Từ ngữ: Tác giả sáng tạo từ mới lạ, độc đáo, chính xác và tinh tế: áng tóc trữ tình, mặt méo bệch, đám tảng đám hòn, nước ặc ặc lên, đòi ăn chết cái thuyền…
  •  Hình ảnh: Tác giả sáng tạo hình ảnh mới lạ, độc đáo: so sánh dòng sông như “áng tóc trữ tình”, tiếng thác nước sông Đà như tiếng một ngàn con trâu mộng da bùng bùng cháy, đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…
  •  Câu văn: biến hoá linh hoạt, khi tầng tầng lớp lớp, khi ngắn gọn đột ngột. Lúc cần thiết, nhà văn phá vỡ những quy tắc ngữ pháp thông thường để thể hiện cảm xúc, diễn tả đối tượng. LỜi văn giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
  • Biện pháp nghệ thuật: Nhà văn dùng các biện pháp nhân hoá, so sánh, biến hoá trong cách đặt câu, dùng từ là cho ngôn ngữ trong tác phẩm vừa có giá trị tạo hình vừa gợi cảm phong phú.

+ Uyên bác ở kiến thức đời sống:

  • Nguyễn Tuân thường vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật khác nhau để tiếp cận và miêu tả đối tượng (tri thức về địa lí, lịch sử, văn hoá, điện ảnh để miêu tả sông Đà; tri thức về võ thuật, quân sự để miêu tả cuộc vượt thác của người lái đò như một trận thuỷ chiến).
  • Tác phẩm của Nguyễn Tuân không những có giá trị văn học mà còn có giá trị văn hoá. Hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt: đẹp phải tới mức tuyệt mĩ, dữ dội phải tới mức khủng khiếp (hình tượng sông Đà), tài phải tới mức siêu phàm (hình tượng người lái đò). Thường tìm hiểu, miêu tả vẻ đẹp con người từ phương diện tài hoa, nghệ sĩ (hình tượng người lái đò)

– Tác phẩm khẳng định sở trường ở thể tuỳ bút của nhà văn:

+ Phong cách tài hoa, uyên bác, độc đáo của Nguyễn Tuân đưa tác giả tới thể tuỳ bút như một điều tất nhiên. Vì ở thể tuỳ bút, tác giả có thể tự do, thoải mái bộc lộ hết cái tôi của mình.

+ Tuỳ bút pha bút kí không chỉ “hướng nội” để thể hiện cảm xúc, suy tư, diễn tả thế giới nội tâm của tác giả mà còn “hướng ngoại” để phản ánh hiện thực cuộc sống, ghi chép thành tích xây dựng, chiến đấu của nhân dân ta.

+ Nét độc đáo trong việc miêu tả con sông Đà là vừa có khi vừa thể hiện mặt hung dữ, vừa gợi lên khía cạnh thơ mộng của đối tượng miêu tả, vừa lại như ném ra những chi tiết rất tự nhiên, không trau chuốt (con sông đánh đòn hiểm độc nhất với con đò) vừa chắt lọc những chi tiết, những hình ảnh rất trữ tình, rất thơ (ven Sông Đà lặng tờ).

  • Kết bài:

Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người.


* Tham khảo:

Phân tích chi tiết tùy bút NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ của nhà văn Nguyễn Tuân.

  • Mở bài:

Nguyễn tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam thể kỉ 20. Là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường quan sát, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ; quan sát, khám phá, diễn tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ông dặc biệt có cảm hứng đặc biệt với những tính cách phi thường, những phong cảnh tuyệt mĩ, những gió bão, thác ghềnh dữ dội… Thiên nhiên, con người trong văn Nguyễn Tuân luôn phi thường, xuất chúng, gây cảm giác mãnh liệt, tất cả đều có xu hướng vươn tới cái tuyệt vời, tuyệt đích. Bút kí Người lái đò Sông Đà là minh chứng rất rõ ràng cho ngòi bút tài hoa ấy.

Người lái đò Sông Đà là bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà năm 1960. Sông Đà là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 – 1960, chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống hằng ngày của họ. Tác phẩm đã thể hiện nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

  • Thân bài:

1. Ý nghĩa lời đề từ.

Lời đề từ của tùy bút “Người lái đò Sông Đà” mở đầu cho dòng chảy vĩnh cửu vẻ đẹp sông Đà: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông!” (Wladyslaw Broniewski – Ba Lan). Nhà văn đã mượn câu thơ mang cấu trúc cảm thán để bộc lộ những xúc cảm đang trào dâng mãnh liệt trong lòng. Tiếng hát trên dòng sông có thể là tiếng hát của người chèo đò, kéo thuyền, vượt thác, tiếng hát thể hiện tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động của con người Tây Bắc; cũng có thể hiểu là tiếng hát say mê, phấn khích đầy ngưỡng mộ của nhà văn trước vẻ đẹp của dòng sông. Lời đề từ do đó đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của tùy bút, đó là tình yêu đắm say, tha thiết của nhà văn với thiên nhiên và con người trên dòng sông Đà.

Nguyễn Tuân tiếp tục mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích để khẳng định rõ ràng hơn cái tính cách của con sông Đà: “Chúng thủy giai đông tầu – Đà Giang độc bắc lưu”. Hai câu thơ chữ Hán đã đề cập tới một nét độc đáo của sông Đà khi mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà một mình chảy theo hướng Bắc – đó cũng là đặc điểm khơi gợi hứng thú khám phá và chiêm ngưỡng của một nhà văn suốt đời tìm kiếm cái Đẹp và sự độc đáo. Nhưng khi mượn câu thơ xưa làm lời đề từ, có lẽ tác giả “Người lái đò Sông Đà” không chỉ muốn nhắc đến sự ngược ngạo của dòng sông mà còn nhằm khẳng định cá tính độc đáo của mình trong dòng sông văn chương, đó là văn phong đầy sáng tạo của một nhà văn có y thức sâu sắc về cái Tôi cá nhân, về Bản Ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật.

Qua ngòi bút của một nhà văn luôn khám phá thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, dòng sông Đà đã hiện lên như một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hóa với hai ấn tượng sâu đậm: dữ dằn, hung bạo và thơ mộng, trữ tình.

2. Hình tượng con sông Đà.

Con sông Đà rõ ràng là một dòng sông hung bạo. Là nhà văn của những cảm giác mãnh liệt luôn có hứng thú đặc biệt với núi cao, rừng thiêng, với gió bão và thách ghềnh dữ dội, ngòi bút của Nguyễn Tuân tung hoành sảng khoái giữa dòng thác ngôn từ. Nhà văn tài hoa đã khiến ngôn từ dựng lên ghềnh thác, khiến nhịp điệu tạo thành sóng gió, dùng những thao tác so sánh, nhân hóa dẫn dắt người đọc tới trùng điệp những hình dung, liên tưởng khiến cho sự hung bạo của sông Đà hiện lên đặc biệt sống động và truyền cảm.

Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi lên sự hùng vĩ sông Đà chính là cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh vách thành đã phần nào thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của sông Đà với vách đá như thành cao, vực thẳm như hào sâu. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của lòng sông, độ cao của vách đá, như chi tiết mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời đến việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá sang bên kia vách …

Độ hẹp của lòng sông Đà khi bị những vách đá lớn bên bờ sông chèn ép tới nghẹt thở còn được tái hiện một cách tài hoa khi nhà văn sử dụng động từ chẹt trong một hình ảnh so sánh rất ấn tượng về cái yết hầu: vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản cảu xúc giác với chi tiết ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, tạo ra ấn tượng đặc biệt cho thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông, lấy nhà cao gợi ra vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối, lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền trôi từ ngoài vào khúc sông có đá dựng vách thành. Những hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp với cấu trúc trùng điệp của kiểu ngôn từ không xác định như nào, mấy … trong so sánh về một khung cửa sổ trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt điện đã làm tăng thêm cảm giác về độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá qua cái nhìn chới với rợn ngợp của người quan sát.

Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh mặt ghềnh Hát Loóng. Nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện dày đặc các thanh sắc, những hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ nhau trong cụm từ ngữ hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió… đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá sông Đà. Động từ xô điệp lại trong cả ba vế câu gây ấn tượng về những chyển động vĩnh hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác; kết cấu ngôn ngữ đặc sắc như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, trùng điệp ghê rợn trên măt ghềnh. Từ láy gùn ghè và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng như đòi nợ xúyt bất cứ người lái đò nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người.

Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của sông Đà là hình ảnh những cái hút nước trên sông. Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước hiện ra trong hình ảnh cái giếng bê tông … xoáy tít, trong âm thanh ghê sợ của cửa cống cái bị sặc …, hoặc trong cả hình ảnh và âm thanh khi tưởng tượng ra mặt nước đang bị rót dầu sôi – đó là những hình ảnh và âm thanh cho thấy cả sức mạnh và sự hung bảo của hút nước. Từ láy tượng hình lừ lừ, từ láy tượng thanh tăng nghĩa ặc ặc cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu như cửa cống cái…, tất cả đều góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ đến ghê người. Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi truyền men gần hút nước đáng sợ. Nhà văn đã phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hùng dung ra những bè gỗ to lớn, nghênh ngang bị lôi tuột xuống đáy hút nước hay chiếc thuyền bị hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi và tan xác ở khuỷnh sông dưới …

Đó là những hình ảnh chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về những sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà. Không dừng lại trong hình dung, tưởng tượng về những cái bè hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, nhà văn còn tạo ra tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông nước xanh ve, thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan và bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp vào người.

Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất trong diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người phải là thác đá sông Đà. Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người: khi oán trách … van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… khi rống lên … Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua cách nhà văn dùng một hệ thống những từ ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung hãn của dòng sông, vừa gợi tả khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát với thác đá sông Đà; mặt khác, đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp đầy hứng thú cho người đọc.

Đặc sắc nhất là những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội với hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng nhà văn đã thể hiện tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, khi đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị: lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông… Qua so sánh, tiếng thác đá sông Đà được hiện lên như những âm thanh man dại, bản năng của một loài động vật hung dữ đang cuồng loạn tìm lối thoát thân, lại kết hợp với âm thanh của những thân cây vầu, tre khô, rỗng, nổ dữ dội trong lửa, cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn được gợi tả qua những ấn tượng đặc biệt sống động của thị giác, xúc giác.

Khi thác hiện ra, sau câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: Tới cái thác rồi!, nhà văn đã đồng tời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh: sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời vách đá. Tính từ trắng xóa lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên mặt sóng, trên một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh chân trời đá, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngay trong những ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt. Đá sông Đà cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công uy hiếp con người đã được nhà văn miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc: đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục… mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện… một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.

Một loạt những thuật ngữ của quân sự, thể thao, võ thuật như thạch trận, cuộc giáp lá cà, hàng tiền vệ, boong ke, pháo đài…, một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa đặt trong những nhịp câu ngắn, nhanh, dồn đập: mặt sông rung tít, nước thác reo hò… hò là… ùa vào… bẻ gãy… thúc gối… đội thuyền… đánh miếng đòn độc hiểm… bám lấy thuyền … dánh khúyp quật vu hồi… khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên. Sự ác liệt còn được tô đậm hơn bởi những âm thanh cuồng loạn của một trận nước vang trời thanh la não bạt…

Có lúc thác đá còn được động vật háo để tăng thêm sự hung hãn hoang dại như trong hình ảnh: dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Thậm chí sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá sông Đà còn được nhà văn đẩy lên mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần sông thần đá. Tùy theo hình dạng, kích thước của đá và góc nhìn của nhà văn mà đã sông Đà được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì ngỗ ngược… nhăn nhúm méo mó bởi sự gồ ghề; lúc to lớn qua một dáng vẻ bệ vệ oai phong lẫm liệt; khi này là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự xấc xược trong cái hất hàm thách thức; lúc khác lại là tảng đá lớn nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh nhân hóa về thằng đá tướng… tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng…

Thác đá sông Đà còn vô cùng xảo quyệt khi dụ thuyền đối phương, khi dàn sắn trận địa và nhất là khi bày thạch trận mai phục và tấn công con người: Vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn, vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử… cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn, vòng ba bên phải, bên trái đều là luồng chết… luồng sống… lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.

Nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm và nhất là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc của con người đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp của sông Đà, đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng gió, với nước thác, đá sông Đà không im lìm và bất động như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà thét gào sống động; không vô tri mà ác hiểm, dữ dằn, đá sông Đà đã không chỉ lộ diện mạo mà cả tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người.

Tuy nhiên, đó lại là hứng thú vô tận của Nguyễn Tuân. Ngay khi miêu tả một sông Đà hung bạo, hiểm ác, làm hiện lên tất cả diện mạo và tâm của địa của kẻ thù số một của con người, nhà văn của những cảm giác mãnh liệt, những phong cảnh phi thường tuyệt mĩ, những gió bão, thách ghềnh dữ dội, những núi cao, vực sâu vẫn luôn truyền cho người đọc niềm say mê khao khát muốn được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên.

Khi miêu tả sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân không giấu được niềm say mê, phấn khích đối với những hình ảnh, âm thanh, hay những hoạt động của dòng sông. Nhà văn đã say sưa trước khúc tráng ca mãnh liệt của hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè…, là âm thanh man dại tới cuồng loạn của nước thác trong sự so sánh với lửa, với rừng, với đàn trâu da cháy bùng bùng, đó cũng là sự hùng vĩ mênh mông của thác đá sông Đà với sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá…, là sự ghê rợn sảng khoái của một trân nước vang trời thanh la não bạt… tất cả đã tạo thành một tập hợp hoành tráng của những sức mạnh thiên nhiên hung dữ, một cảnh trí có sức hấp dẫn kì lạ bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê. Thậm chí khi miêu tả dòng sông Đà ở khúc hạ lưu êm ả, câu văn của Nguyễn Tuân vẫn bâng khuâng trong cảm giác dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Từ láy xa xôi gợi nỗi tiếc, nhớ nhung của chính nhà văn với khúc thượng nguồn với những sức mạnh hoang dại, với những cuồn cuộn thét gào sóng gió, với vẻ đẹp dữ dội hào hùng.

Thông qua sự quan sát tinh tế, cách diễn tả tài hoa, những tri thức uyên bác, nhà văn của những cảm giác mạnh, những cảnh trí dữ dội, phi thường đã làm hiện lên hình ảnh dòng sông Đà hung bạo, hiểm ác không chỉ như một con thủy quái, kẻ thù số một của con người mà còn trở thành một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hóa, khơi gợi cảm giác hãi hùng đầy ngưỡng mộ, mê đắm.

Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ bởi sự tương phản. Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, sự tương phản hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả bởi làm nên dòng sông Đà thực sự, ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị, trữ tình, đằm thắm. Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông vặn mình vào một cái bến cát, khi chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn xèo xèo tan trên cát, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã bất ngờ dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích.

Làm nên nét trữ tình đầu tiên là hình ảnh con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Chính nhịp câu, lời văn và nghĩa chữ đã góp phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn rất dài chỉ có một dấu ngắt duy nhất kết hợp với điệp ngữ tuôn dài, tuôn dài… Hình ảnh vừa gợi tả sinh động độ dài của dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của vùng biên giới Tây Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển. Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc hạ nguồn.

Khi so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình, nhà văn đã đem đến cho sông Đà nét mềm mại, đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính, nhưng lại không làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ, lớn lao của dòng sông. Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của Nguyễn Tuân, có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương xuân. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của đất nước Tổ quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó gần gũi thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng, xa xôi, cái đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc đời thường của những người lao động bình thường.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn hiện ra qua những màu sắc đầy biến ảo khi vì niềm yêu và sự say mê, Nguyễn Tuân đã quan sát dòng sông một cách công phu và tinh tế trong những thời điểm khác nhau, với những sắc thái khác nhau. Đó là dòng xanh ngọc bích trong sáng, qúy giá và êm nhẹ của sông Đà mùa xuân; việc so sánh màu xanh bích ngọc của sông Đà với màu xanh cách hến của sông Gâm, sông Lô không chỉ là biểu hiện khá quen thuộc của một nhà văn thì tài, thích khoe tài hoa, khoe uyên bác mà còn là sự thiên vị của một niềm yêu! Đó còn là dòng sông Đà lừ lừ chính đỏ vào mùa thu – những từ ngữ tượng hình đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điệm dạm và chậm rãi của con sông đầy nặng phù sa thượng nguồn. Hình ảnh so sánh nước sông Đà mùa thu như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của nước sông Đà trong mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa những đe dọa của một dòng sông vẫn năm năm báo oán, đời đời đánh ghen với con người. Vậy là, ngay khi dừng lại miêu tả thơ mộng, trữ tình của dòng sông, hình ảnh của một dòng sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm nhận của nhà văn luôn say mê những cảm giác mạnh.

Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà gợi cảm như một cố nhân. Để thể hiện sự gợi cảm của một dòng sông gần thương xa nhớ, nhà văn đã tạo ra một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ, niềm yêu, cho những bồn chồn, khát khao, vồ vập… Đó là tình huống đi rừng lâu ngày, bắt đầu thèm chỗ thoáng, thèm một không gian phóng khoáng mênh mông, và nhất là thèm được gặp lại sông Đà – cố nhân! Hai chữ cố nhân vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn cổ kính, xưa cũ của Đường thi. Đoạn văn sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc miêu tả dòng sông Đà gợi cảm thông qua việc bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy loáng loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy là cái nhìn của người chưa ra đến cửa rừng, mới chỉ thấy từng miếng sáng của dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát.

Khi liên tưởng mặt sông giống như cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung trong câu thơ được coi là thiên cổ lệ cú của Lí Bạch: “Yên hóa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng của nhà văn làm xao xuyến những tâm hồn luôn nhớ phong vị Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian mà như còn trôi chảy trong dòng thời gian miên viễn, xa xăm của thế giới Đường thi. Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà.” Hai chữ Sông Đà điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, thậm chí không kịp bình tĩnh để quan sát bằng lí trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi theo những xúc cảm dồn dập, gấp gáp, cuốn đi theo những khao khát, say mê…

Cảm xúc gặp lại sông Đà cũng được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: “Chao ôi! Trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể thấy hình ảnh sông Đà gợi cảm vô cùng trong tâm hồn nhà văn qua so sánh trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm. Nắng tuy hữu hình nhưng lại vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt. Giòn tan lại là tính từ dùng để chỉ đặc điểm của những vật thể mỏng manh, dễ vỡ. Nắng giòn tan là một ẩn dụ đẹp để gợi ra cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa qúy giá, nó hoàn toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày mưa dầm; cách so sánh ấy đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác trìu mến nâng niu cùng niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp lại dòng sông. Sông Đà càng qúy giá hơn với nhà văn khi ông so sánh niềm vui tái ngộ với dòng sông cố nhân… như niềm vui khi nối lại chiêm bao đứt quãng – một việc gần như không thể có trong đời người. Và sự nối lại giấc mơ càng hi hữu hiếm qúy bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao xê dịch đã sung sướng thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao xê dịch đã nhiều lần tới sông Đà, và bất cứ lúc nào, nếu muốn, ông cũng có thể tới với cố nhân của mình; vậy mà qua so sánh, có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới, kì diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, như vừa được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần gặp nào cũng như đó là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy nhất.

Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, người tri âm với bao kỉ niệm bắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao hẹn hò chung thủy trong tương lai, với sự gợi cảm của mình, sông Đà đã thực sự trở thành một cố nhân, một tình nhân, dẫu trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn, mê hoặc lòng người đến kì lạ.

Có lẽ nét trữ tình thi vị nhất của sông Đà chính là ở sắc thái lặng tờ hoang dại của nó. Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh bằng: Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn và cả người đọc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như chưa từng có dấu vết của con người. Tính từ lặng tờ lặp lại tới hai lần cùng câu văn mang y nghĩa khẳng định: Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi khiến cho sự êm đềm, tĩnh lặng của dòng sông dày thêm không chỉ vì cái yên ả trong không gian mà như còn vì cái thăm thẳm xa xăm của thời gian. Tính chất ước lệ của cụm từ đời Lí đời Trần đời Lê đưa đến cảm giác cuộc sống như ngưng lại nơi đây, để bờ bãi sông Đà cũng ngưng lại trong một không gian nguyên sơ, thuần khiết, an lành…, một không gian nằm ngoài sự trôi chảy vận động, đổi thay của cuộc sống văn minh. Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh so sánh độc đáo: bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.

Cách so sánh của Nguyễn Tuân đã không hề làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng mà thậm chí chỉ càng đẩy dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng ảo, phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoạc của tuổi thơ, và chính trong thế giới ấy mà người đọc cảm nhận rõ hơn sự lặng lờ, hoang dại của một dòng sông trong trẻo, êm đềm. Sự yên ả êm đềm đến mức mơ hồ của sông Đà khúc hạ nguồn tiếp tục được nhà văn tô đậm hơn bởi những hình ảnh thật mong manh, nhỏ bé, những hình ảnh chỉ có thể nhận ra trong một không gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết với mấy lá ngô non đầu mùa mới nhú, mấy nõn búp cỏ gianh đẫm sương đêm và nhất là được gợi tả qua âm thanh khẽ khàng, dịu nhẹ của tiếng cá dầm xanh quẫy nước…

Đặc biệt nhất là hình ảnh con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, cất tiếng hỏi nhà văn bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành… Chi tiết này làm tăng thêm ảo giác như nhà văn bước lạc vào một cõi trong trẻo, an lành, thuần hậu, và không có thực của thế giới cổ tích. Ảo giác mãnh liệt đến mức nhà bỗng thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa, niềm khao khát này không chỉ là ước mơ hiện đại hóa miền Tây Bắc mà còn là cách để âm thanh của cuộc sống hiện tại giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới thực của hiện tại, vẫn là con người trong nền văn minh hiện đại. Không một sự miêu tả trực tiếp nào khiến sự lặng tờ, hoang dại của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế như trong lời ao ước của Nguyễn Tuân khi đứng bên một dòng sông rất đỗi êm đềm.

Trong đoạn văn miêu tả dòng sông trữ tình, cái tôi trữ tình của nhà văn đã trực tiếp xuất hiện qua lời kể hào hứng: tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân … tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu…; trong những lời cảm thán nồng nàn: Chao ôi, trông con sông vui như…; chao ôi, thấy thèm được giật mình… Vậy là bên cạnh một Nguyễn Tuân sắc sảo, tài hoa và uyên bác còn có một Nguyễn Tuân đam mê, dạt dào cảm xúc, khi xao xuyến nỗi nhớ nhung như một tình nhân, như một cố nhân…; khi bồng bột như trẻ nhỏ trước mênh mông phóng khoáng của bờ sông Đà, bãi sông Đà, khi lại say đắm muốn tan hòa vào thế giới êm đềm bát ngát của dòng sông; và nhất là luôn lai láng niềm mong ước của một thi nhân muốn được đề thơ vào sông ngước.

Với việc phối hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như ẩn dụ, nhân hóa, so sánh…, với lối hành văn đầy biến hóa, độc đáo, giàu sức gợi tả và gợi cảm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau để quan sát, miêu tả hoặc bộc lộ cảm xúc, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng dòng sông Đà trong hai sắc thái: hung bạo và trữ tình. Ông đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của mình trong những trang viết tài hoa, uyên bác khi miêu tả dòng sông, trong cách tô đậm những sắc thái phi thường tuyệt mĩ trong việc soi chiếu dòng sông từ góc độ văn hóa, thẩm mĩ, và nhất là trong cách khắc họa dòng sông Đà như một công trình mĩ thuật kì vĩ tuyệt vời của tạo hóa, để từ đó người đọc nhận ra tình yêu say đắm của nhà văn với quê hương, đất nước.

3. Hình tượng người lái đò sông Đà.

Trước 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con người đặc tuyển, xuất chúng, vì thế, cái đẹp và người tài thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, và trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam những năm đầu XX, đó là những vẻ đẹp vang bóng một thời thường đem đến sự ngưỡng mộ ngậm ngùi, nuối tiếc. Sau 1945, quan niệm thẩm mĩ của nhà văn đã có những thay đổi cơ bản. Vẫn nhìn con người từ phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng bây giờ, Nguyễn Tuân cho rằng bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Trong những sáng tác sau 1945, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường, qua đó mà bộc lộ tấm lòng trân trọng, yêu mến đối với họ. Người lái đò sông Đà trong tùy bút cùng tên cũng là một nhân vật được nhà văn khám phá và thể hiện không chỉ ở vẻ đẹp tài hoa mà còn trí dũng.

Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm. Nhưng mười năm người lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn.

Ngay khi miêu tả dòng sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân đã có y thức tạo dựng một nền thiên nhiên dữ dội kì vĩ, một không gian hào tráng, lớn lao xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông nước. Đó là một không gian của thác ghềnh hiểm trở, của sóng gió cuồn cuộn thét gào với hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió…, một không gian của những hút nước ghê rợn, những thác đá dữ dằn, hiểm ác, của đá dựng vách thành bí ẩn thâm nghiêm.

Và để khắc họa vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả một cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục trong đó nổi bật sự tương phản giữa một thiên nhiên ác hiểm, hung bạo với con người trí dũng ngoan cường,  đó cũng là trận thủy chiến dữ dội giữa một bên là những trùng vi thạch trân của đá thác, nước thác cùng sóng gió với một bên là chiến thuyền then đuôi én mỏng manh và những người lái đò nhỏ bé, đơn độc. Đối thủ ghê gớm của ông đò trong cuộc vượt thác là cả một đoàn quân đá hung bạo, dữ dằn. Những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như dàn sẵn trận địa… dụ thuyền đối phương… đánh khúyp quật vu hồi … đã nhân cách hóa dòng sông khiến cho thiên nhiên sông Đà với sóng dữ, thác dữ, đá dữ trở nên hung hãn, hiểm ác như một thứ kẻ thù số một của con người.

Tác giả còn sử dụng một loạt các từ láy miêu tả diện mạo gớm ghiếc của đám đá sông Đà khi thì ngỗ ngược, nhăm nhúm, méo mó, xấc xược thách thức, khi tiu nghỉu cái mặt xanh Lỡ… một loạt những động từ đặt trong các nhịp câu ngắt ngắt, nhanh, dồn dập: nước thác reo hò… hò la… ùa vào… bẻ gẫy… đá trái… thúc gối… đội thuyền… bám lấy thuyền…, rồi sử dụng cấu trúc điệp để tả nước xô đá, đá xô sóng… hay sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tủa, đánh đòn âm… – tất cả đã làm hiện lên sự hung bạo vô cùng của sông Đà khi cùng một lúc các sức mạnh thiên nhiên kết hợp với nhau tấn công những con thuyền đơn độc và con người nhỏ bé. Thiên nhiên sông Đà còn vô cùng xảo quyệt trong việc dàn trận tấn công con người. Để đưa con thuyền vượt thác sông Đà khúc thượng nguồn, những người lái đò phải đối đầu với cả một trùng vi thạch trận trên dòng dông, trong đó, vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn… vòng hai tăng thêm nhiều cửa tử… cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn… vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết… luồn sống… lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác…

Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên sông Đà chính là những tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của mình khi người lái đò luôn phải tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo, càng phải ngoan cường, dũng cảm mới có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông.

Trận thủy chiến với sóng thác sông Đà đã bộc lộ hết vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò. Ở vòng vây thứ nhất của thạch trận, khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò mặt méo bệch đi – cách sử dụng từ độc đáo đã giúp nhà văn làm hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thì giác và xúc giác : mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng – đây vẫn là cách miêu tả thông qua cảm giác quen thuộc của Nguyễn Tuân – vết thương đau đớn của ông đò đã dược thể hiện bởi cảm giác tóe đom đóm và rát bỏng như lửa cháy. Trong trận hỗn chiến gian lao khi tương quan lực lượng quá chênh lệch với sóng thác sông Đà, ông đò đã dũng cảm, cố nén vết thương đau đớn, ngoan cường khéo léo đưa con thuyền vượt vòng vây thứ nhất của thạch trận trên sông Đà. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.

Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, người đã thuộc quy định của dòng sông, thác đá … Ông được miêu tả như một dũng tướng tài ba đang điều khiển, thuần phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà khi nắm chắc bờm sóng … ghì cương … phóng nhanh vào cửa sinh; kinh nghiệm dày dặn và trí nhớ siêu phàm của ông đò được thể hiện trong chi tiết ông nhớ mặt từng đứa trong bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước để có cách ứng phó phù hợp. Những động tác linh hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi lái miết một đường chéo, khi tránh mà rảo bơi chèo, khi đè sấn lên mà chặt đôi… cho thấy những biện pháp kì diều của một tay lái ra hoa – trí tuệ và tài hoa con người thậm chí đã chiến thắng cả thần sông thần đá.

Ở vòng vây cuối, sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cách mở cách khép – đó là cả một mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngưng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảng khắc cánh cổng đá mở giữa những đợt sóng thác dữ dội. Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ và danh từ nối tiếp: vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng … đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ thể hiện qua những động từ giàu sắc thái gợi hình và biểu cảm: vút … vút…, qua hình ảnh so sánh về một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua – bởi với cách so sánh về một mũi tên tre xuyên qua hơi nước, con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu.

Ông lái đò là biểu tượng của những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị. Giỏi giang, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ và trí dũng phi thường khi cùng thuyền vượt qua ghềnh thác, khi bao giờ cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một cửa sinh duy nhất giữa bát ngát trận đồ cửa tử của những trùng vi thạch trận hiểm ác, dữ dằn; khi không bao giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm dẫu chỉ trong khoảnh khắc; khi luôn có thể trình diễn nghệ thuật lái đò điêu luyện của một tay lái ra hoa. Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, những người lái đò lại đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn. Thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bịn dịn khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà dữ dội, hiểm ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của ghềnh thác sông Đà chỉ là chuyện thường ngày.

  • Kết bài:

“Người lái đò Sông Đà” là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn quan sát, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ; miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Với việc thể hiện nhuần nhuyễn những nét phong cách ấy, tác phẩm đã thực sự thành công khi phát hiện và miêu tả chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cùng chất vàng nười qúy giá trong tâm hồn, tính cách những người lao động bình dị miền Tây Bắc. Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” đã trở thành một thiên anh hùng ca ca ngợi vẻ đẹp hào tráng của con người trong cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Với quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, tích cực của Nguyễn Tuân, người lái đò nơi thượng nguồn Tây Bắc thực sự là một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng sông nước khi hàng ngày phải chiến đấu và luôn phải chiến thắng thiên nhiên bằng trí tuệ, sự khéo léo, sức mạnh và lòng can đảm của mình.

* MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP.

Đề 1. Cảm nhận của anh (chị) về cái tài cái tâm của Nguyễn Tuân thể hiện qua hai kiệt tác của hai chặng đường sáng tạo: truyện ngắn Chữ người tử tù và tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.

Đề 2. Phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.

Đề 3. Trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những đặc điểm nào của sông Đà? Những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc nào được Nguyễn Tuân vận dụng để làm nổi bật những phát hiện ấy?

Đề 4. Cảm nhận về đoạn văn sau trong bài “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà(…) nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên” (Trang 191, 192 SGK cơ bản Ngữ Văn 12)

Đề 5. Trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân tự coi mình là người “đi tìm cái thứ vàng của màu sắc núi sông Tây Bắc và  nhất là thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”

Cảm nhận của anh/ chị về chất vàng quý báu của cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc được nhà văn phát hiện qua áng văn xuôi này.

Đề 6. Cái tôi của Nguyễn Tuân qua “Người lái đò Sông Đà”..

Đề 7. Sông Đà nói chung và “Người lái đò Sông Đà” nói riêng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: Uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động lòng người đọc nhất.” (SGK Ngữ văn 12, NXB GD 2008, trang 185)

Em hãy phân tích tùy bút “Người lái đò Sông Đà” để làm sáng tỏ nhận định trên.

Đề 8. “Phong cảnh sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời thơ mộng”(Sách ngữ văn 12, tập 1, NXBGD 2000, trang 168 ). Anh/ chị hãy phân tích hình tượng dòng sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” để làm sáng tỏ nhận định trên.

Đề 9. Có ý kiến cho rằng: trong sáng tác văn chương Nguyễn Tuân thường “tiếp cận con người thiên về phương diện tài hoa nghệ sĩ” (Nguyễn Tuân, trích theo văn học 12, tập 1, NXB GD, 2000, trang 167)

Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào?

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” và người lái đò trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân để làm sáng tỏ nhận xét đó.

Đề 10. Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù và ông lái đò trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân để làm rõ những nét ổn định và khác biệt trong cảm hứng thẩm mĩ và giá trị tư tưởng của nhà văn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.