dan-y-cam-nhan-bai-tho-voi-vang-cua-xuan-dieu

Cảm nhận bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Cảm nhận bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu

* Hướng dẫn làm bài:

  • Mở bài:

– Xuân Diệu là nhà thơ trữ tình xuất sắc trong phong trào Thơ mới 1930 – 1945. Bài thơ “Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ”, tập thơ đầu trong sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938

– Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết cùng với tinh thần lạc quan, niềm tin và khát vọng cuồng nhiệt của Xuân Diệu.

  • Thân bài:

1. Sự sống ban tặng cho con người, cảm nhận mùa xuân – thiên đường trên mặt đất 13 cau thơ đầu)

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

– Khổ thơ đầu tiên diễn tả những ý tưởng của nhân vật “tôi” trữ tình: tắt nắng và buộc gió, thể hiện ước muốn kì lạ của nhà thơ trẻ muốn đoạt quyền của tạo hoá, ngăn thời gian, chặn sự già nua, tàn tạ; muốn níu giữ lại hương sắc của mùa xuân trần thế. Vạn vật đều căng đầy sức sống, giao hòa sung sướng.

– Tác giả say mê với mùa xuân, tận hưởng mùa xuân, bởi với tác giả, mùa xuân như là tuổi trẻ, mà cuộc đời đẹp nhất chính là tuổi trẻ, cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân, mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng.

– Xuân Diệu đã giãi bày một ước muốn có phần ngông cuồng của mình, đó là ước muốn ngự trị thiên nhiên, đất trời, muốn dòng thời gian ngừng trôi chảy để tạo hóa và vạn vật không thay đổi. Chính từ niềm say mê và tình yêu thiên nhiên tha thiết, tác giả đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tràn đầy nhựa sống, ngập tràn sắc xuân, hương xuân và cả tình xuân.

– Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện lên với vẻ đẹp hữu tình, lãng mạn. Vạn vật trong tiết trời xuân hiện lên rất rõ nét, từ các loài ong, bướm, yến anh, rồi hoa lá và cả ánh bình minh rực rỡ, tất cả đều đang độ sung mãn, căng tràn nhựa sống. Mọi vật được nhà thơ nhắc đến đều có đôi có cặp: Tuần tháng mật của ong bướm, hoa của đồng nội, lá của cành, khúc tình si của yến anh và ánh bình minh của mặt trời. Điều này cho thấy sự đắm say, lãng mạn và ngây ngất trong con mắt của nhà thơ trước thiên nhiên mùa xuân. Cảnh vật quen thuộc của cuộc sống, thiên nhiên qua con mắt yêu đời của nhà thơ đã biến thành chốn thiên đường, thần tiên.

– Ý tưởng đoạt lấy sự sống, chạy đua với thời gian đã xuất hiện ở ngay những câu thơ.

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

2. Sự nuối tiếc về kiếp người và thời gian:

“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”

– Thời gian cướp đi tuổi trẻ, bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.

– Thời gian đem đến chia lìa “rớm vị chia phôi”, “than thầm tiễn biệt”. Sự sống bị chia cắt phũ phàng.

– Thời gian đem đến tàn phai: cơn gió, lá biếc, tiếng chim – những vẻ đẹp mùa xuân cũng câm lặng, tàn phai theo năm tháng.

– Nhà thơ đang sống trong bàn tiệc xuân mà đã lo sợ nghĩ rằng rồi tất cả sẽ bị bàn tay thô bạo của thời gian cướp đoạt hết. Các hình ảnh thơ thật đẹp, càng nuối tiếc nên càng đẹp:Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc …. Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi…

– Thời gian của tự nhiên thì luôn tuân thủ theo quy luật vận động bất biến. Nhưng quan niệm về thời gian, sự cảm nhận vể thời gian thì ở mỗi thời đại và ở mỗi cá nhân lại có thể có những nét khác nhau:

+ Thơ Xuân Diệu và nhất là trong Vội vàng, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới, một cảm nhận mới về thời gian. Nếu các nhà thơ trung đại quan niệm thời gian là tuần hoàn, là vĩnh cửu thì Xuân Diệu, nhờ tri thức khoa học của thời đại và ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đã nhận ra thời gian vận động tuyến tính, một đi không trở lại.

+ Thời gian thật sự khắc nghiệt, đời người có hạn và tuổi xuân ngắn ngủi.

+ Thực ra thì từ xa xưa, nhiều thi nhân đã từng than thở về sự ngắn ngủi của đời người. Người ta gọi kiếp người là “áng phù vân” là “bóng câu qua cửa sổ”,… Nhưng do xuất phát từ cái nhìn tĩnh tại, có tính siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian nên quan niệm thời gian là tuần hoàn. Thời ấy, cá nhân chưa tách khỏi cộng đồng, con người còn gắn làm một với vũ trụ, cho nên người ta vẫn đinh ninh người chết chưa hẳn là hư vô, vẫn có thể cùng với cộng đồng và trời đất tuần hoàn. Vì thế nhân vật trữ tình trong thơ ca trung đại thường ở tư thế ung dung, tự tại, bình tĩnh, ít thấy có sự vội vàng, cuống quýt để “sống gấp”.

+ Đến thế hệ các nhà thơ mới, khi ý thức cá nhân đã trỗi dậy mạnh mẽ, quan niệm vể thời gian như trên đã hoàn toàn đổ vỡ. Xuân Diệu đưa ra một quan niệm mới, chống đối lại quan niệm thời gian tuần hoàn của người xưa. Với ông hoàng Xuân Diệu, thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại. Vũ trụ không ngừng vận động, thời gian luôn luôn chảy trôi, mỗi giây phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ và thời gian:

“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,”

+ Nhà thơ đã lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của đời người, thậm chí lấy khoảng thời gian quý giá nhất của mỗi cá nhân là tuổi trẻ để làm thước đo thời gian. Lời thơ được cấu trúc thành một cuộc tranh biện, theo đó nhà thơ khẳng định dẫu vũ trụ có thể vĩnh viễn, thời gian có thể tuần hoàn, nhưng “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”:

“Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”

+ Nhìn thấu sự trôi chảy quá nhanh chóng, một đi không trở lại của thời gian nên cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát, mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, chia lìa: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi – Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Mỗi sự vật trong vũ trụ đang từng giây, từng phút ngậm ngùi chia li, tiễn biệt một phần của đời mình:

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

– Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu, xét đến cùng là do ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời, nâng niu trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Trong hoàn cảnh bình thường của đất nước, đây là một quan niệm và thái độ sống tích cực, thấm đượm tư tưởng nhân văn.

3. Lời kêu gọi hãy tận hưởng sự sống:

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

– Chủ thể trữ tình đổi cách xưng hô: từ Tôi sang Ta. Do muốn đoạt lấy sự sống trong mọi chiều (mây, gió, non nước, cây, cỏ, cánh bướm, tình yêu), nên cái Tôi bỗng trở nên chật chội, hạn hẹp, không tương ứng. Chủ thể phải là Ta, nghĩa là cái Tôi được mở rộng, vụt lớn, trở thành cái Ta kiêu hãnh, tự tin, được quyền đòi hỏi, được quyền khẳng định một cách dõng dạc.

– Các câu thơ lặp lại cú pháp, điệp từ ta, và, cho đã tạo nên nhịp hối hả, gấp gáp, cuống quýt, vồ vập.

– Các động từ mạnh: ôm, riết, say, thâu, cắn thể hiện khát vọng tận hưởng thiên nhiên cuồng nhiệt của thi sĩ

– Các hình ảnh thiên nhiên : mây đưa, gió lượn, cánh bướm,non nước, cây, cỏ rạng…

– Các tính từ thể hiện sự thỏa mãn: chếnh choáng, no nê, đã đầy…

– Câu thơ : Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi: tiếp tục lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp, làm hệ quy chiếu với thiên nhiên.

– Cả khổ thơ dồn dập, tràn đầy nhiệt huyết như thể cuộc quyết đấu giữa con người tuổi trẻ với thời gian, tạo hóa

4. Đặc sắc nghệ thuật

– Thể thơ 5 tiếng kết hợp thể tự do.

– Hình ảnh thơ: gần gũi mà tươi mới.

– Giọng điệu thơ: lúc hối hả, cuống quýt, lúc suy tư, triết lí. Nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.

– Các biện pháp tu từ: liệt kê, nhân hóa, so sánh…

– Sự kết hợp giữa, mạch cảm xúc và, mạch luận lí.

– Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ.

  • Kết bài:

Bài thơ với hình ảnh táo bạo, khơi gợi cảm giác, bút pháp trữ tình tâm trạng và cảm xúc, tứ thơ hăm hở cuống quýt, cú pháp Tây phương, lối qua hàng hết sức thoải mái… xứng đáng được xem là tiếng gọi đàn, là lời tập hợp, là tiếng thức tỉnh con người: hãy sống và tận hưởng đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống trong mọi chiều kích của thời gian, không gian một cách tuyệt đích, vĩnh viễn. Đó thật sự là một quan niệm nhân sinh mới mẻ hiện đại của nhà thơ “mới nhất trong phong trào Thơ mới”.


Tham khảo:

Cảm nhận bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

  • Mở bài:
Xuân Diệu là nhà nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn có sức sáng tạo mãnh liệt, bền bỉ và sự nghiệp văn học phong phú. Ông mang đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Bài thơ Vội vàng là một thi phẩm hay nhất của nhà thơ Xuân Diệu in trong tập: “Thơ thơ” xuất bản năm 1938. Tác phẩm thể hiện một quan niệm nhân sinh hết sức mới mẻ hiện đại của ông. Vội vàng là tiếng nói yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy là một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.
  • Thân bài:

Xuân Diệu với một tình yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt đã mang đến một luồng gió mới cho nền thi ca vốn đã rất già nua, cũ kĩ. Xuân Diệu không lẩn trốn thực tại mà quấn quýt lấy cõi trần:

Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất

(Thanh niên)

Kẻ đựng trái tim trìu màu đất
Hai tay chín móng bám vào đời

(Hư vô)

Xuân Diệu luôn có ý thức về sự trôi chảy của thời gian. Trong thơ ông chịu ảnh hưởng nhiều của trường phái thơ tượng trưng Pháp. Khi còn trẻ ông đã nghe Baudelaire rên xiết: Ôi đau đớn !Ôi đau đớn !Thời gian ăn cuộc đời”. Xuân Diệu sợ thời gian, ghét thời gian:

Gấp lên em anh rất sợ ngay mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn

(Giục giã)

Ông là nhà thơ của tình yêu – tuổi trẻ. Quan niệm tình yêu của ông thiên về khao khát thoả mãn cuộc sống vĩnh viễn, vô cùng “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ. Mà vạn vật là muôn đá nam châm”.

“Đây là quán tha hồ muôn khách đến”. Ông mở rộng tâm hồn và chào mời tất cả và muốn lòng mình như phấn thông trên bãi biển bay vàng cả trời đất mênh mông đem tình yêu đi khắp thế gian.

Xuân Diệu cũng vội vàng, cuống quýt lo sợ cuộc sống tàn phai:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi, tình non sắp già rồi

(Giục giã)

Nhà thơ yêu đời nhưng cũng rất bi quan tạo nên nét biện chứng trong thơ ông trước cách mạng:

Hiu hắt nhỉ bốn phương trời vò võ
Lạnh lùng chăng sầu một đỉnh chon von

(Hy Mã Lạp Sơn)

Lòng anh là một cơn mưa lũ
Bắt gặp lòng em là lá khoai

(Nước đổ lá khoai)

ống vội vàng chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của cái Tôi cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “ biện luận” rất riêng của tác giả.

Mở đầu, Ông nói lên một khao khát kì lạ. Từ phát hiện mới: cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất. Bước vào bài thơ, độc giả ngạc nhiên trước những lời tuyên bố lạ lùng của thi sĩ:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Nắng, gió là là thuộc về thiên nhiên vĩnh hằng, vậy mà ông muốn níu giữ lại quy luật cuộc sống để “màu đừng nhạt, hương đừng bay đi”. Màu sắc, hương thơm là tinh hoa của trời đất vũ trụ dâng tặng. Đó là vẻ đẹp của cuộc sống. Tác giả muốn lưu giữ vẻ đẹp ấy thành vĩnh cửu, đó là một ước muốn táo bạo.

Những lời tuyên bố đó chỉ có vẻ kì dị, ngông cuồng bề ngoài, thực chất bên trong chứa đựng một khát vọng rất đẹp: chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hoá vẻ đẹp của cuộc đời. Nhưng lý do nào khiến nhà thơ nảy sinh niềm khao khát đoạt quyền tạo hoá để chặn lại dòng chảy của thời gian?

Trong quan niệm của người xưa, đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lý do vì sao lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách thế sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ trương vẫy gọi con người trên hành trình đi tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi niết bàn, cõi Tây Phương cực lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Nam đều đề cao tâm lý hoài cổ, phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về với những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm một thiên đường đã mất. Xuân Diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi nổi, họ không coi lánh đời là một xử thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không ngần ngại lao vào đời.

Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chẳng phải là cái bể khổ đầy đọa con người bằng sinh, lão, bệnh, tử… những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại, là cả một thế giới tinh khôi, quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời thực và trong tầm tay với:

Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tác giả nêu cảm nhận của mình về cuộc sống thông qua mùa xuân. Đó là một bức tranh về cuộc sống sinh sôi, đang phát triển, đang dâng đầy màu sắc, âm thanh, ánh sáng. Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhân vồn vã liệt kê bao vẻ đẹp của cuộc đời bằng hàng loạt đại từ chỉ trỏ này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống động. Hơn thế, cõi sống đầy quyến rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ ngọt ngào, trẻ trung và đang như vẫn có ý để dành cho những ai đang ở lứa tuổi trẻ trung, ngọt ngào : đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng nội (đang) “xanh rì, đây là lá của cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi. Với đôi mắt xanh non của người trẻ tuổi, qua cái nhìn bằng ánh sáng chớp hàng mi, thi nhân còn phát hiện ra điều tuyệt vời hơn: Tháng Giêng, mùa Xuân sao ngon như một cặp môi gần!

Nghệ thuật điệp ngữ để liệt kê, để khái quát một bức tranh sinh động tươi mới về mùa xuân được cảm nhận từ sự phát triển, sự nảy lộc đâm chòi đầy sức sống của muôn loài. Cuộc sống được vẽ ra như một thiên đàng ngay trên mặt đất mà mỗi sáng sớm “Thần Vui hằng gõ cửa”. Dư vị thời gian mùa xuân được cảm nhận “ngon như một cặp môi gần”. Tác giả tự hào hãnh diện say mê vì độ sung mãn của mùa xuân. Tác giả như đang nhập vào nhịp sống của mùa xuân để cảm nhận vẻ đẹp, sức sống và làm bừng thức dậy ánh sáng của sức sống ấy, truyền đến mọi người vẻ đẹp dâng trào của mùa xuân. Và, làm bừng sáng những vẻ đẹp của cuộc sống mà chưa mấy ai thấy.

Ý thức về sự trôi chảy của thời gian và quy luật khắc nghiệt của tạo hoá đến nỗi ám ảnh về số phận mong manh của những giá trị đời sống và sự tồn tại ngắn ngủi của tuổi xuân. Nhịp thơ đang hân hoan bỗng thay đổi đột ngột:

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Dấu chấm giữa dòng tách thành hai câu thơ diễn tả hai nét tâm trạng: Vui và bi quan thất vọng. Tác giả đang háo hức mê say bỗng đột nhiên thay đổi vì tận thấy quy luật nghiệt ngã của thời gian. Trong ý thức mới của con người thời đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi, mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là vĩnh viễn? Niềm ám ảnh đó khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi khác, tất cả đều nhuốm màu của âu lo, bàng hoàng, thảng thốt:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất .

Mùa xuân hay là sức xuân, tuổi trẻ, cuộc sống cá nhân của con người hữu hạn còn thời gian thì vô hạn. Chính mâu thuẫn này gây nên cảm giác lo sợ, hốt hoảng, niềm vui không trọn vẹn:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Bằng cách lý giải, hình ảnh cái tôi tác giả hiện lên thật tội nghiệp, lo sợ, tiếc nuối và cảm nhận sâu xa sự chia li tiễn biệt về sự trôi đi của thời gian. Tác giả cảm giác hoá về thời gian, cảm nhận dược cái dư vị đắng chát của sự tách vỡ, chia lìa trong vạn vật do thời gian thay đổi. Cũng từ đây thiên nhiên chuyển hoá từ hợp thành tan:

Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Cuộc sống là dòng chảy của sự vận động vì vậy tác giả nhớ mùa xuân ngay cả khi mùa xuân đang tồn tại. Dường như tất cả đều hoảng sợ bởi những chảy trôi của thời gian, bởi thời gian trôi đe doạ sẽ mang theo tất cả, thời gian trôi dự báo cái phai tàn sắp sửa của tạo vật. Thế là từ đây, thời gian không còn là một đại lượng vô ảnh, vô hình nữa, người ta nhận ra nó trong hương vị đau xót của chia phôi, người ta phát hiện nó tựa một vết thương rớm máu trong tâm hồn. Sự tiếc nuối vô cùng tham lam, ôm trọn cả không gian, trời đất vô thuỷ vô chung. Ông giục giã mình, giục giã người vội vàng tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống “Mau đi thôi” – vội vàng, cuống quýt:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

Đại từ “Ta” thay cho đại từ “Tôi”: Cá nhân tự hoá thành rộng lớn để ôm trọn bao trùm cuộc sống, thống lĩnh cuộc sống. Tác giả dùng một loạt động từ mạnh: Ôm, riết, say, thâu, cắn, diễn tả cảm giác nắm bắt, chiếm lĩnh cuộc sống ở mức giao hoà tuyệt đích vĩnh viễn.

Xuân Diệu yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt, đến vội vàng cuống quýt là bởi ông muốn cảm nhận cuộc sống trong mọi chiều kích của thời gian, không gian. Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công đã trở thành một quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật đó được triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa : lòng người rộng” mà lượng trời chật; Xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn” mà tuổi trẻ của con người thì chẳng hai lần thắm lại. Cõi vô thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà con người, sinh thể sống đầy xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “bất công” này thôi thúc cái tôi cá nhân đi tìm sức mạnh hoá giải.

Từ nỗi ám ảnh về số phận mong manh chóng tàn lụi của tuổi xuân, tác giả đề ra một giải pháp táo bạo. Con người không thể chặn đứng được bước đi của thời gian, con người chỉ có thể phải chạy đua với nó bằng một nhịp sống mới mà nhà thơ gọi là vội vàng. Con người hiện đại không sống bằng số lượng thời gian mà phải sống bằng chất lượng cuộc sống – sống tận hưởng phần đời có giá trị và ý nghĩa nhất bằng một tốc độ thật lớn và một cường độ thật lớn:

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Vội vàng không phải là sóng gấp sống vội để tận hưởng về vật chất. Ở đây Xuân Diệu ham hố cuồng nhiệt là chiếm lĩnh cuộc sóng trong chiều sâu tình thần, trong tâm hồn tình cảm.Vội vàng hoàn toàn không hiểu theo nghĩa “Đi đâu mà vội mà vàng. Mà vấp phải đá, mà quàng phải dây”.

Xuân Diệu yêu cuộc sống mãnh liệt, vội vàng nhưng không rơi vào rồ dại, thác loạn. Đằng sau thái độ vội vàng lo sợ kia chính là một cái tôi cô đơn: Ta là MỘT, là RIÊNG, là THỨ NHẤT. Xuân Diệu “vội vàng” vì ông hiểu và trân trọng giá tri của cuộc sống. Nó là phần tinh tuý mà trời đất ban tặng, nhưng cuộc đời con người thì hữu hạn.  Yêu cuộc sống, Xuân Diệu nhìn cuộc sống dù ở góc độ nào cũng thấy nó thật đẹp và đáng quý trọng. Ông đã từng quan niệm buổi chiều thu là một bài thơ duyên mà ở đó con người và tạo vật, con người và con người gắn bó với nhau như một cặp vần. Đó phải là một cái nhìn về cuộc sống hết sức tài hoa và nhạy cảm, tinh tế, với một tầm văn hoá cao.

Xuân Diệu cảm nhận được cả những mối liên hệ mong manh nhưng vô cùng bền vững của cuộc sống ở chiều sâu tinh vi nhất:

Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu

(Chiều)

Bởi vì vậy ông cảm thấy luôn lo sợ cuộc sống trôi chảy, tàn phai. Ông chạy đua với thời gian với vạn vật. Ông hối hả vồ vập trước cuộc sống để sống tốt, sống đẹp hơn.

Đoạn thơ cuối trong bài gây ấn tượng đặc biệt trước hết bởi nó tựa như những lời giục giã chính mình lại như lời kêu gọi tha thiết đối với thế nhân được diễn đạt bằng một nhịp thơ gấp gáp bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, cuồng nhiệt yêu đời và yêu sống. Rõ ràng, lẽ sống vội vàng bộc lộ một khát vọng chính đáng của con người. Như đã nói, đây không phải là sự tuyên truyền cho triết lý sống gấp mà là ý thức sâu sắc về cuộc sống của con người khi anh ta đang ở lứa tuổi trẻ trung, sung sức nhấ
  • Kết bài:

Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. “Vội vàng” thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ “Vội vàng” ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống “Vội vàng” như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ “Vội vàng” cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. “Vội vàng” tiêu biểu nhất cho “Thơ mới”, thơ lãng mạn 1932-1941.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang