Đọc hiểu văn bản “Vội vàng” (Xuân Diệu)

doc-hieu-van-ban-voi-vang-xuan-dieu

Đọc – hiểu văn bản:

Vội vàng
(Xuân Diệu)

I. Tìm hiểu chung.

1. Tác giả :

– Xuân Diệu đến với cách mạng sớm, sau cách mạng tháng Tám, nhập cuộc ngay với cách mạng và thơ ông gắn liền với cuộc sống cách mạng của nhân dân.

– Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.

– Là cây bút có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ.

– Tác phẩm tiêu biểu: sgk.

Một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn.

2. Tác phẩm :

– Xuất xứ : Tập Thơ thơ (1938)

– Thể loại:    thơ trữ tình,  tự do

– Cấu trúc văn bản: 2 đoạn

+ Đoạn 1: Niềm ngây ngất trước cánh sắc trần gian và nêu những lý lẽ vì sao phải sống vội vàng.

-13 câu đầu: Phát hiện và say sưa ca ngợi một thiên đường ngay trên mặt đất với bao nguồn hạnh phúc, kỳ thú và qua đó thể hiện quan niệm mới: trong thế giới này đẹp nhất, quyến rũ nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.

– 14 đến câu 29: Nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người, trôi qua của thời gian.

+ Đoạn 2 : Còn lại : Vội vàng là chạy đua với thời gian, sống mạnh mẽ, đủ đầy với từng phút giây của sự sống.

II. Đọc hiểu văn bản .

* Nội dung:

1. Phần đầu (13 câu thơ đầu):

 Ước muốn mãnh liệt của nhà thơ (4 câu đầu):

+ Thơ ngũ ngôn ngắn gọn – dồn nén cảm xúc.

+ Nghệ thuật điệp từ + cấu trúc cú phápà Ứơc muốn táo bạo, muốn can thiệp vào qui luật của tự nhiên, không tưởng xuất phát từ tâm hồn yêu đời

– Bức tranh cuộc sống đẹp tươi, tràn trề sức sống (7 câu tiếp):

+ Thơ 8 tiếng để dễ dàng vẽ Bức tranh cuộc sống

+ Nhịp nhanh , điệp từ : này đây, của

Âm điệu dồn dập.

+ Từ ngữ, hình ảnh: đẹp đẽ, trẻ trung- cảnh thật của cuộc sống và thiên nhiên như một chốn thiên đường, hạnh phúcàTình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.

+ Câu “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ”: So sánh mới mẻ độc đáo, táo bạo, rất Xuân Diệu.

– Thái độ cuống quýt, vỗi vàng (2 câu tiếp):

– Dấu chấm giữa dòng thơ là cách diễn đạt mứ mẻ, chịu ảnh hưởng của thơ Pháp.

→ Tâm trạng đầy mâu thuẫn nhưng thống nhất của tác giả: sung sướng nhưng vội vàng, muốn sống nhanh, sống gấp, tranh thủ thời gian .

2. Câu 14 – câu 29:

– Quan niệm về thời gian và cuộc đời:

+  Điệp từ + ngữ à Thời gian luôn chảy trôi, mỗi giây phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn →Cái nhìn động, biện chứng về thời gian.(Người xưa quan niệm: Thời gian tuần hoàn)

– Quan niệm cũ: Thời gian tuần hoàn, vĩnh cửu. Vòng lặp thời gian nên con người không lo âu, sợ hãi

– Quan niệm của Xuân Diệu: Thời gian tuyến tính, mỗi giây phút trôi qua, không bao giờ trở lại. Vũ trụ vĩnh viễn còn cuộc đời con người thì hữu hạn, tuổi xuân trôi qua nhanh chóng.

→ Tâm trạng buồn, xót xa, luyến tiếc.

– Hình ảnh thiên nhiên, sự sống:

+ Chuyển đổi cảm giác(mùi tháng năm, vị chia phôi). Nhuốm màu chia li, mất mát.

→ Từ sự cảm nhận về thời gian – sự thức tỉnh của cái tôi cá nhân về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời , nâng niu trân trọng từng giây từng phút của cuộc đời mà nhất là những năm tháng tuổi trẻ .

3. Cách “thực hành”, lời giục giã, sống vội vàng:

– Vội vàng là chạy đua với thời gian, sống mạnh mẽ, đủ đầy với từng phút giây của sự sống và thể hiện sự mãnh liệt của cái “Tôi” đầy ham muốn.

– Hình ảnh: gần gũi, quen thuộc, tươi mới, sức sống, quyến rũ, tình tứ và cũng nhuốm màu chia ly, mất mát

–  Quan niệm mới về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc tuổi trẻ, tình yêu: Nhận thức về bi kịch của cuộc sống đã dẫn đến một ứng xử tích cực trước cuộc đời. Thời gian quí nhất của con người là tuổi trẻ, mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ là tình yêu. Biết hưởng thụ, sống mãnh liệt, hết mình. Đây là lời đáp trọn vẹn cho câu hỏi: Vội vàng là gì? Và đề xuất một lối sông mới mẻ, tích cực; bộc lộ quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống → quan niệm sống tích cực, mang tính nhân văn.

– Giọng thơ giục giã, vội vàng, gấp gáp.

– Điệp từ, ngữ, cấu trúc cú pháp.

– Ngôn từ: Động từ mạnh…

→ Đoạn thơ là lời giục giã mọi người tận hưởng tất cả những gì đẹp nhất trên trần gian bằng những t/cảm đắm say, tha thiết đến cuồng nhiệt đối với sự sống .

* Nghệ thuật:

– Hình ảnh thơ độc đáo, mới lạ

– Giọng thơ sôi nổi, dâng trào, lôi cuốn, hấp dẫn .

– Các biện pháp tu từ được sử dụng đặc sắc .

* Ý nghĩa văn bản: Quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu- nghệ sĩ của niềm khát khao giao cảm với đời.

BÀI TẬP VẬN DỤNG.

1/  Bài thơ có tên là “Vội Vàng”. Vậy quan niệm sống nhanh, sống gấp ở đây phải được hiểu như thế nào ?

2/ Đọc hai văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Văn bản 1:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
        ………..

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

(Trích Vội vàng, Xuân Diệu,  SGK Ngữ văn 11,Tập II, NXBGD 2007)

Văn bản 2:

Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang! 

(Trích Xuân, Chế Lan Viên)

a/ Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt của văn bản ( 1) và (2)?

b/ Xác định nghĩa sự việc và nghĩa tình thái trong câu thơ Của ong bướm này đây tuần tháng mật thuộc văn bản (1)

c/ Chỉ ra sự khác nhau quan niệm về thời gian qua từ xuân của 2 văn bản trên.

d/ Viết đoạn văn ngắn  bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng một bộ phận giới trẻ có lối sống gấp, sống ích kỉ trong cuộc sống hôm nay.


Dàn bài phân tích bài thơ Vội vàng.

  • Mở bài:

– Xuân Diệu (1916 – 1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, bút danh là Trảo Nha, quê cha ở Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bình Định, lớn lên ở Quy Nhơn. Mỗi miền đất có những ảnh hưởng nhất định đến hồn thơ ông. Trước cách mạng, Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và rất giàu tính thời sự. Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.

– Bài thơ “Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ”, xuất bản năm 1938. Vội vàng là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Tư tưởng đó được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật điêu luyện: sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc và mạch chân lý, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.

  • Thân bài:

1. Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ (13 câu thơ đầu):

– Khát vọng kì lạ đến ngông cuồng: “Tắt nắng ; buộc gió” + điệp ngữ “tôi muốn”: khao khát đoạt quyền tạo hóa, cưỡng lại quy luật tự nhiên, những vận động của đất trời → Cái tôi cá nhân đầy khao khát đồng thời cũng là tuyên ngôn hành động với thời gian.

→ Khẳng định một ước muốn táo bạo, mãnh liệt: muốn ngự trị thiên nhiên, muốn đoạt quyền tạo hóa, muôn ngăn thời gian, chặn sự già nua, tàn tạ để giữ mãi hương sắc cho cuộc đời, gói gọn cảm xúc và ý tưởng chủ đạo của cả bài thơ

– Vẻ đẹp của “vườn trần”: đầy sinh lực, nguồn ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình xuân. Bức tranh mùa xuân hiện ra như một khu vườn tràn ngập hương sắc thần tiên, như một cõi xa lạ: Bướm ong dập dìu, chim chóc ca hót, lá non phơ phất trên cành, hoa nở trên đồng nội:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
…………………
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

– Bức tranh thiên nhiên có đủ hình ảnh quen thuộc: ong bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ. Tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất. Tất cả hiện hữu có đôi, có lứa, có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.

– Âm thanh “khúc tình si”: khúc nhạc tình yêu say đắm của chim yến, chim anh. Vạn vật đều căng đầy sức sống, giao hòa sung sướng. Cảnh vật quen thuộc của cuộc sống, thiên nhiên qua con mắt yêu đời của nhà thơ đã biến thành chốn thiên đường, thần tiên.

– Điệp từ “của”, điệp ngữ “này đây” kết hợp với nhịp thơ nhanh, phép liệt kê như bày ra sự phong phú bất tận cảu thiên nhiên, như mời gọi tác giả ngắm nhìn, say đắm:

+ Tuần tháng mật → ngọt ngào.
+ Hoa … xanh rì → nồng thắm.
+ Lá cành tơ … → tươi trẻ.
+ Yến anh … khúc tình si → đắm say.
+ Ánh sáng chớp hàng mi → gợi cảm.

– Tác giả đã “đốt cháy cảnh bồng lai đưa chúng ta về hạ giới” với vườn trần xinh đẹp, non tơ, trần đầy sức sống.

– Thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng “cặp mắt xanh non” của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất:

– Tác giả khao khát tận hưởng hết vị ngọt ngào, hấp dẫn cảu mùa xuân: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” → Lối diễn đạt độc đáo, táo bạo. Tác giả dường như đã sử dụng hết tất cả các giác quan để đón nhận mùa xuân.

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”: câu thơ có dấu chấm ở giữa, mạch cảm xúc như đột ngột bị gãy làm đôi: nhà thơ đang “sung sướng” bỗng “vội vàng”, bỗng “hoài xuân” – nhớ “xuân”, tiếc xuân khi mà xuân mới bắt đầu. Xuân Diệu cảm nhận rất rõ những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời, và cùng thời gian, những gì đẹp nhất của thời gian, những gì đẹp nhất của mùa xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu rồi sẽ ra đi không trở lại.

– So sánh: tháng giêng ngon như cặp môi gần: táo bạo. Nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và thổi vào đó một tình yêu rạo rực, đắm say ngây ngất. Sự phong phú bất tận của thiên nhiên, đã bày ra một khu địa đàng ngay giữa trần gian – “một thiên đàng trần thế”.

– Tâm trạng đầy mâu thuẫn nhưng thống nhất: Sung sướng >< vội vàng: Muốn sống gấp, sống nhanh, sống vội tranh thủ thời gian.

– Điệp từ ngữ, điệp cấu trúc câu. Dùng từ mệnh lệnh: tắt nắng, buộc gió → Khẳng định cái tôi táo bạo, mãnh liệt: muốn đoạt quyền tạo hoá, ngăn thời gian, chặn sự già nua, tàn tạ để giữ mãi hương sắc cho cuộc đời.

– Câu thơ kéo dài 8 chữ dễ dàng vẽ bức tranh cuộc sống thiên đường trên mặt đất. Nhịp thơ nhanh, dồn dập thể hiện niềm sung sướng, rạo rực, hân hoan, hạnh phúc.

– So sánh: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” độc đáo, mới lạ ảnh hưởng từ phương Tây

– Nhân hóa: ánh sáng chớp hàng mi, thần vui hằng gõ cửa, khúc tình si của chim yến anh… → Cảm giác sung sướng, ngây ngất, đắm say.

– Hình ảnh thiên nhiên: hoa đồng nội xanh rì, lá cành tơ, khúc tình si của chim yến anh, ong bướm, ánh sáng …

Thiên nhiên đất trời tràn đầy sinh lực, ngồn ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình xuân, vừa gần gũi, thân quen, vừa quyến rũ, đầy tình tứ. Thiên nhiên được nhìn qua lăng kính của tình yêu, qua “cặp mắt xanh non” của tuổi trẻ. Đó là cái nhìn lấy con người làm chuẩn mực cho thiên nhiên, quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của giai nhân (hàng mi, tháng giêng ngon).

* Bình luận:

– Tắt nắng, buộc gió đó đều là những ước muốn không thể thực hiện được ⇒ tác giả muốn níu giữ thời gian,níu giữ những gì đẹp đẽ nhất của cuộc sống, muốn bất tử hóa hương sắc mùa xuân trần thế. Thể thơ ngũ ngôn cùng điệp từ “Tôi” muốn được sử dụng hiệu quả

– Câu thơ bất ngờ kéo dài mở rộng tám chữ để dễ dàng vẽ bức tranh cuộc sống, nhịp thơ nhanh hơn, đồn dập hơn, gợi niềm háo hức say mê. Điệp từ “này đây” chỉ sự phong phú, giàu có, đầy đủ, gần gũi muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên. Hình ảnh đẹp đẽ, tươi non tràn đầy xuân sắc, gắn với tình yêu tuổi trẻ: những thảm cỏ xanh non, lá non cành tơ phơ phất, hoa đua nhau khoe sắc dâng mật ngọt, ong bướm đắm say, ái ân tuần tự,….

– Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “Tháng riêng ngon như một cặp môi gần” đầy sáng tạo mới mẻ, thú vị. Tất cả hài hòa cộng hưởng cùng vẽ nên mùa xuân – thiên đường trên mặt đất, thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc đời tha thiết và mê đắm, nồng nàn của thi sĩ. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến mọi người: sự đẹp đẽ, tinh túy nhất không phải tìm đâu xa mà nó là cuộc sống xung quanh chúng ta, hãy yêu mến gắn bó hết mình với cuộc sống

2. Nỗi băn khoăn về thời gian, tuổi trẻ, mùa xuân, hạnh phúc và cuộc đời (16 câu tiếp theo):

– Nhà thơ băn khoăn, hoài nghi, nuối tiếc khi nghĩ đến quy luật khắc nghiệt của thời gian. Xuân Diệu có một quan niệm mới mẻ về sự trôi chảy của thời gian:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
………….
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

– Những từ “xuân”, “tôi”, “tuổi trẻ” cứ trở đi, trở lại, hàng loạt những mâu thuẫn: “đương tới” – “đương qua”; “còn non” – “sẽ già”; “lòng tổ rộng” – “lượng trời cứ chật”; “vẫn hoài xuân” – “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, tạo thành nỗi day dứt, ám ảnh, tiếc nuối khôn nguôi. Thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại. Xuân Diệu lấy quỹ thời gian hữu hạn của đời người, thậm chí lấy thời gian quý giá nhất của con người là tuổi trẻ để làm thước đo.

– Nỗi tiếc nuối thấm vào cảnh vật, tạo nên cái nhìn sầu não:

Mùi tháng năm đều rớm vị chi phôi,
………………
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

– Hình ảnh thiên nhiên thay đổi, thấm đẫm vị chia phôi, ly biệt. Các tiếng “chẳng còn”, “rớm vị chia phôi”, “than thầm”, “tiễn biệt”, “phải bay đi”, “bỗng đứt tiếng”, “độ phai tàn”. Như day dứa vào trái tim vốn rất nhạy cảm với đời, yêu đời, không thể không suy nghĩ cái hữu hạn của đời người.

– Đoạn thơ sử dụng các phụ từ, và quan hệ từ: nghĩa là, mà, nhưng, làm chi,… có giá trị biểu đạt “lý luận của trái tim” tự đặt điều kiện, giả thiết, tự biện luận để rồi tự kết luận. Cuối cùng là lời than thở như tuyệt vọng: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”.

– Nhận thấy thời gian là vĩnh hằng còn đời người là hữu hạn, Xuân Diệu cuống quýt vồn vã sống nhanh, sống vội vàng: “Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm”

– Xuân Diệu là thế đấy. Ông vừa khát khao đến cháy bỏng, giao cảm đến nồng nàn nhưng lại luôn cảm thấy bơ vơ và hoảng sợ, tuyệt vọng. Xuân Diệu không làm cho người ta tuyệt vọng mà bằng một con đường riêng: Xuân Diệu đã thốt lên tình yêu cuộc sống cho con người.

– Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu là thời gian tuyến tính, một đi không bao giờ trở lại. Nếu các nhà thơ trung đại, quan niệm thời gian là tuần hoàn, là vĩnh cửu thì với Xuân Diệu mỗi phút giây trôi qua là mất đi vĩnh viễn: Xuân đương tới – đương qua / Xuân còn non – sẽ già. Thời gian trôi qua nhanh chóng, một đi không trở lại, mỗi giây phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Xuân Diệu thể hiện cái nhìn biện chứng về vũ trụ, thời gian.

– Xuân Diêu cảm nhận sự mất mát ngay chính sinh mệnh mình. Xuân Diệu lấy tuổi trẻ của mỗi người làm thước đo của thời gian. Theo nhà thơ, thời gian vũ trụ tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì trôi qua rất nhanh, không bao giờ trở lại: Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất… Nếu tuổi trẻ chẳng 2 lần thắm lại ⇒ Mùa xuân, tuổi trẻ không tồn tại mãi, nó ngắn ngủi vô cùng, tuổi trẻ đẹp nhất của đời mỗi người. Xuân Diệu lấy tuổi trẻ làm thước đo thời gian. Thời gian mất nghĩa là tuổi trẻ cũng mất.

– Xuân Diệu còn nhận thấy mỗi phút giây trôi qua là sự mất mát, chia lìa: Hình ảnh sự vật:  Cơn gió xinh … phải bay đi … Chim rộn ràng … đứt tiếng reo. Cảm nhận sâu sắc, thấm thía: tàn phai, héo úa, chia phôi, tiễn biệt. Mau: gấp gáp, vội vàng, cuống quýt, hưởng thụ.

Quan niệm mới, tích cực thấm đượm tinh thần nhân văn. Sự trân trọng và ý thức về giá trị của sự sống, cuộc sống, biết yêu đời mình (đây cũng là cơ sở sâu xa của thái độ sống vội vàng). Đây cũng chính là sự thức tỉnh sâu sắc về “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời.

* Bình luận:

– Đẹp nhất là con người giữa tình yêu và tuổi trẻ. Thi nhân xưa luôn coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp. Xuân Diệu lấy con người giữa tuổi trẻ, tình yêu làm chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp ở đời. Thi sĩ đã nồng nhiệt khẳng định thiên đường ở ngay trên mặt đất trong cuộc sống này. Vậy nên hãy sống cao độ, quý trọng từng phút, từng giây của cuộc đời này nhất là những khoảnh khắc của tuổi trẻ, tình yêu.

– Với Xuân Diệu mùa xuân, tuổi trẻ là một đi không trở lại thế nên thi sĩ tiếc nuối, lo âu. Hàng loạt các câu thơ định nghĩa, điệp ngữ nghĩa là đã giúp thi nhân khẳng định chắc nịch mùa xuân, tuổi trẻ sẽ qua sẽ hết sẽ già, sẽ mất. Giữa cái mênh mông vô cùng, vô tận của vũ trụ, thời gian, sự hiện diện của con người, tuổi trẻ là quá ngắn ngủi mong manh. Lời thơ chứa đựng nỗi ngậm ngùi mới mẻ mà thấm thía. Và tác giả đã cảm nhận rõ mồn một sự phôi pha phai tàn đang âm thầm diễn ra: thời gian rớm vị chia phôi, sông núi than thầm tiễn biệt, từ cơn gió xinh đến ngọn lá biếc đến bày chim non đều ngậm ngùi vì sự tàn úa, phôi phai.

3. Lời giục giã sống vội vàng để tận hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ, tình yêu nơi trần thế (đoạn thơ cuối):

– Để sống thật ý nghĩa phải tận hưởng sự sống do mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu đem lại. Từ “tôi” sang“ta”, nhà thơ từ bỏ cái nhỏ bé chật hẹp chuyển sang cái rộng lớn phù hợp với việc tận hưởng cuộc sống:

Ta muốn ôm
……………
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

“Ta muốn ôm” đặt giữa dòng: sự lớn lao, trung tâm của tất cả. Điệp ngữ “ta muốn” kết hợp với các động từ sắp xếp theo ý nghĩa tăng tiến (ôm riết say thâu cắn) biểu thị sư khát khao chiếm đoạt sự sống một cách vồ vập, tham lam.
Hình ảnh thơ: sự sống mơn mởn, mây mưa, gió lượn, cánh bướm đó là những hình ảnh tươi mới, đầy sức sống. Thiên nhiên tươi đẹp như một thiên đường mời gọi thi nhân.

– Các tính từ “chếnh choáng”, “no nê”, “đã đầy” cũng được sắp xếp theo hình thức tăng tiến, bộc lộ sự thèm khát tận hưởng cuộc sống mãnh liệt của một người trể tuổi. Nhịp thơ được tạo bỏi những câu dài, ngắn xen kẽ tạo nên nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.

– Cảm xúc tràn trề, ào ạt khiến Xuân Diệu sử dụng ngôn từ đặc biệt. Ngôn từ gần với lời nói thường nhưng đã được nâng lên thành nghệ thuật. Cách dùng từ: động từ mạnh tăng tiến: “riết”, “say”, “thâu”, “ôm”, “cắn”,… nhiều danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân, nhiều tính từ chỉ xuân sắc, nhiều điệp từ, điệp cú,… thể hiện cao trào của cảm xúc mãnh liệt.

– Hình ảnh thơ: sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, non nước và cây và cỏ rạng… tươi mới, nồng nàn, đầy sức sống. Hình ảnh mới mẻ này biểu đạt kiểu giao cảm khoẻ mạnh, cường tráng của một trái tim căng đầy sức sống, một tâm hồn tràn ngập tình yêu – kiểu giao cảm này chỉ Xuân Diệu mới có.

– Nhịp thơ: dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt. Giọng điệu thơ: mê đắm, nồng nàn, vang khỏe. Điệp: này đây; liên từ: và … và; giới từ chỉ trạng thái: Chếnh choáng, Đã đầy, No nê; tính từ chỉ xuân sắc: mơn mởn, thời tươi ⇒  thể hiện cái “tôi” đắm say mãnh liệt, táo bạo, cái “tôi” điển hình cho thời đại mới, một cái “tôi” tài năng thiết tha giao cảm với đời. Tình yêu mãnh liệt táo bạo của một cái “tôi” thi sĩ yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tha thiết với mềm vui trần thế, tâm thế sống tích cực. “Cái tôi” giục giã, cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời, của vũ trụ.

– Xuân Diệu giục giã hối thúc mọi người hãy sống chạy đua với thời gian, sống vội vàng: Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm. Câu thơ 3 chữ “Tôi muốn ôm” rất đặc biệt gợi hình ảnh cái tôi ham hố đang ôm trọn tất cả sự sống mơn mởn.Thi sĩ muốn tận hưởng tất cả những gì non nhất, ngon nhất của sự sống: đó là mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, là non nước và cây và cỏ rạng. Với Xuân Diệu nàng xuân phải thanh tân và quyến rũ.

– Đâu chỉ có thế thi sĩ còn muốn tận hưởng thiên nhiên như tận hưởng ái tình và phải đạt đến độ ngây ngất no nê:

“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”

– Và thậm chí là tận hưởng bằng tất cả các giác quan đến tận cùng cảm xúc để rồi lịm đi trong niềm mê đắm ngây ngất: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.

4. Quan niệm mới về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc:

– Cuộc sống là thiên đường ngay trên mặt đất. Thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất là vì có con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.

– Thời gian quý nhất của mỗi đời người là tuổi trẻ mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ chính là tình yêu.

– Biết hưởng thụ chính đáng những gì mà cuộc sống dành cho mình, sống mãnh liệt, sống hết mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ.

Quan niệm mới, tích cực, thấm đượm tinh thần nhân văn.

  • Kết bài:

– Bài thơ có sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí; sự kết hợp giữa, mạch cảm xúc và, mạch luận lí. Nhà thơ có nhiều sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ. Sử dụng ngôn từ nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt. Với lời thơ sôi nổi, giục giã, nhà thơ khuyên tuổi trẻ hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quí trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Thời gian trôi qua nhanh chóng, một đi không trở lại, mỗi giây phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Đời người hữu hạn, tuổi trẻ một đi không trở lại. Sự vật mất mát, chia lìa. Đó là sự thức tỉnh sâu sắc về “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời.

– Cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ tiêu biểu cho cái tôi thời đại Thơ mới: Ý thức sâu sắc về sự yêu đời nhưng vẫn mang nỗi lo âu. Triết lý sống, tuyên ngôn sống cuống quýt, vội vàng, và khát khao giao cảm với đời. Quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ.

Nghị luận: Người đọc muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay (Xuân Diệu)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.