doc-hieu-van-ban-nguoi-lai-do-song-da-nguyen-tuan

Đọc hiểu văn bản “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân)

Đọc- hiểu văn bản:

Người lái đò sông Đà
(Trích tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân)

I. Tìm hiểu chung.

1. Tác giả: Nguyễn Tuân.

– Nguyễn Tuân (1910- 1987), quê ở Hà Nội, là gương mặt tiêu biểu của nền văn học dân tộc, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.

+ Học hết bậc thành chung (tương đương THCS), viết văn, làm báo, hoạt động cách mạng. Năm 1945, ông lấy văn chương phục vụ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Năm 1948 – 1958 là tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam

– Ông có biệt tài về thể kí đặc biệt là tuỳ bút. Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, có tình cảm thiết tha với cuộc đời và truyền thống dân tộc. Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ,… Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…

– Các tác phẩm chính: “Vang bóng một thời”, “Một chuyến đi”, “Thiếu quê hương”, “Sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi”…

* Phong cách nghệ thuật: phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự thay đổi trong những sáng tác ở thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám song có thể thấy những điểm nhất quán sau:

– Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân. Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện:

+ Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ.

+ Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.

+ Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng.

– Năm 1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm: “Người lái đò sông Đà”.

– Hoàn cảnh sáng tác:“Người lái đò sông Đà” là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây rộng lớn, xa xôi. Tác phẩm in trong tập “Tuỳ bút sông Đà”, năm 1960.

– Thể loại: bút kí. Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng. Với cá tính của mình, ông tìm đến thể tuỳ bút như một thể tất yếu. Thế mạnh của tùy bút vừa giàu tư liệu thực tế vừa mang tính chủ quan, tự do, phóng túng, biến hoá linh hoạt, giàu hình ảnh, nhạc điệu, từ ngữ phong phú, nhiều cách so sánh liên tưởng… Thể loại giúp Nguyễn Tuân thăng hoa cảm xúc và tư tưởng của mình.

– Nội dung: Ca ngợi thiên nhiên Tây Bắc tươi đẹp, ca ngợi hình ảnh người lái đò lão luyện giàu ý chí, một thứ vàng mười của đất nước. Thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng.

– Bố cục: (3 phần)

+ Phần 1 (từ đầu đến “đậm đà nhà đó”): giới thiệu khái quát nhân vật.

+ Phần 2 (tiếp đó đến “dòng nước sông Đà”): Cuộc sống của con người trên sông Đà và cuộc ác chiến với dòng sông.

+ Phần 3 (còn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà.

II. Đọc hiểu văn bản.

1. Hình tượng con sông Đà.

a. Lai lịch con sông.

“Chung thuỷ giai Đông tẩu; Đà giang độc Bắc lưu” (mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà theo hướng Bắc)

– Thơ Ba Lan: “Đẹp vậy thay tiếng hát dòng sông”.

– Ý nghĩa: Sông Đà biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc – một dòng chảy vĩ đại giữa núi rừng Tây Bắc. Về địa lí, dòng sông bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua vùng núi cao hiểm trở, tốc độ dòng sông chảy xiết mạnh mẽ. Tác giả nhân hoá con sông Đà: như một sinh thể có hồn, có hoạt động, có tâm trạng và có hai nét tính cách đối lập. Sông Đà như một nhân vật có diện mạo, có cá tính độc đáo.

b. Vẻ đẹp con sông Đà hung bạo, dữ dằn.

– Nhà văn quan sát công phu, tìm hiểu kĩ càng để khắc họa sự hung bạo trên nhiều dạng vẻ:

+ Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu → gây ấn tượng về độ cao hun hút.

+ Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… → sự phối hợp giữa sóng và gió tạo nên sức mạnh uy hiếp.

+ Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào → Đá sông lập lờ cạm bẫy,dữ dội và khủng khiếp.

+ Âm thanh luôn thay đổi: oán trách nỉ non à khiêu khích, chế nhạo à rống lên. Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau, nước nghe như ai oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,giọng gằn mà chế nhạo…rống lên…lồng lộn …. gầm thét… → so sánh tài hoa nhằm làm nổi bật: thác nước như những bầy thuỷ quái hung hăng, bạo ngược.

+ Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến. Trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một kẻ thù số một… → sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.

– Tâm địa của sông Đà được miêu tả qua “thạch trận”:

   + Thạch trận : “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vỗ lấy thuyền”.

   + Thủy trận: “Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng ngang chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn sẵn trận địa.

   + Ba trùng vi giăng bẫy trên con sông: “Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông” , “vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào”, “còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả”.

→ Với vốn từ cực kì phong phú cùng bút pháp lãng mạn tô đậm để gây ấn tượng mãnh liệt, cảm giác rùng rợn, dựng lên một con sông hung bạo đầy đe dọa với con người.

Vận dụng ngôn ngữ , kiến thức của các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên hàng loạt so sánh liên tưởng, tưởng tượng kì lạ, bất ngờ.

+ Hình dung một cảnh tượng rất đỗi hoang sơ bằng cách liên tưởng đến hình ảnh của chốn thị thành, có hè phố, có khung cửa sổ trên “cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

+ Tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát: nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Kết hợp âm thanh và âm nhạc độc đáo: Tiếng “ặc ặc” lên như vừa rót dầu sôi vào. (âm thanh – âm nhạc độc đáo)

+ Lấy hình ảnh “ô tô sang số nhấn ga” trên “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” để ví von với cách chèo thuyền …

+ Vận ngôn ngữ điện ảnh: Tưởng tượng về cú lia ngược của chiếc máy quay từ đáy cái hút nướcà cảm thấy có một cái thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày.

+ Dùng lửa để tả nước.

→ Khắc họa biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. Nguyễn Tuân là bậc kì tài trong lĩnh vực sử dụng ngôn từ (sự phá cách mà ngoại trừ các tay bút thực sự tài hoa, không ai làm nổi).

* Bình luận:

Với nghệ thuật miêu tả tài hoa, vốn từ cực kì phong phú, ngôn ngữ tạo hình đặc sắc, cấu trúc trùng điệp, giọng văn mạnh mẽ, vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học như địa lí, điện ảnh để làm nên hàng loạt so sánh, liên tưởng kì lạ, bất ngờ, bút pháp lãng mạn tô đậm, Nguyễn Tuân đã tái tạo lại hình tượng con sống Đà hung bạo, dữ dội và đầy hiểm trở trên nhiều dáng vẻ, cảm giác rùng rợn, dựng lên một con sông hung bạo đầy đe dọa với con người. Bên trong sự hung bạo đó, con sông Đà cũng nổi bật lên như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và đất nước.

Tác phẩm thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân khi tả dòng sông Đà. Con sông được nhìn ở nhiều góc độ, trở nên sống động, mạnh mẽ, ấn tượng, thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu đậm của nhà văn.

b. Vẻ đẹp con sông trữ tình, thơ mộng.

* Miêu tả con sông ở nhiều góc độ:

– Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều → nét đẹp duyên dáng, mềm mại thơ mộng.

– Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Vào mùa xuân, nước có sắc xanh “nhất định phải là sắc xanh ngọc bích chứ không phải xanh canh hến”. Vào mùa thu, nước “lừ đừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” → so sánh về màu sắc, làm cho dòng sông có vẻ đẹp riêng của mỗi mùa.

– Cảm nhận con sông: “Tôi nhìn sông Đà như một cố nhân”; “Vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” → những hình ảnh so sánh gợi tả và gợi cảm. Nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.

– Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử…hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” → so sánh có sức khêu gợi sâu xa khắc hoạ vẻ đẹp hoang sơ và dấu ấn văn hoá ngàn xưa của cha ông (Nguyễn Tuân cổ kính, đĩnh đạc nghiêm trang và hiện đại là thế).

* Bình luận:

Trong đoạn này, tác giả đã khéo dùng cái động để tả cái tĩnh và mỗi câu văn viết ra nghe có âm hưởng như thơ. Sự ví von ở đoạn này cũng có những nét đặc biệt. Tác giả ví một cái vốn đã trừu tượng với một cái còn trừu tượng hơn nữa (hoang dại – bờ tiền sử; hồn nhiên – nỗi niềm cổ tích tuổi xưa) khiến đoạn văn có sức hấp dẫn của một bài thơ siêu thực.

Với những so sánh độc đáo gợi tả, gợi cảm, ấn tượng, giọng văn nhẹ nhàng, câu văn trải dài, mềm mại, âm điệu êm đềm. Hình ảnh con sông hiện lên thật trữ tình và thơ mộng. Thành công đó chính là kết quả của những công phu tìm tòi khó nhọc, công sức lao động nghiêm túc, cần cù, kiên nhẫn của nhà văn.

Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới. Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp, kì vĩ, hào hùng, trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên → chất vàng của thiên nhiên. Qua đó bộc lộ tình yêu tha thiết, say đắm của nhà văn đối với quê hương đất nước nói chung và thiên nhiên Tây Bắc nói riêng.

2. Hình tượng người lái đò.

a. Chân dung và cuộc sống của người lái đò sông Đà:

– Chân dung: tuổi 70, cái đầu quắc th­ước, thân hình cao to và gọn quánh nh­ư chất sừng mun, đôi cách tay còn trẻ tráng quá, giọng nói ào ào nh­ư thác nư­ớc… Khoẻ mạnh, rắn chắc gắn bó với nghề lái đò.

– Cuộc sống: Làm nghề chở đò đã 10 năm liền, xuôi ngư­ợc trên sông Đà đã  hơn 100 lần, giữ tay lái chính độ 60 lần, trí nhớ đóng đanh vào con sông Đà. Cuộc sống hằng ngày của ông là chiến đầu với con Sông Đà, vật lộn với thiên nhiên để giành giật sự sống, để tồn tại. Ông gắn bó với dòng sông, thấu hiểu tinh tư­ờng về nghề, ­nguyễn cuộc sống sôi động.

b. Vẻ đẹp phẩm chất ông lái đò.

– Ông là người tinh thạo trong nghề nghiệp, rất hiểu dòng sông Đà:

+ “Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”. “Thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. “Nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà”.

+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.

Ông là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … những luồng nước”,

– Ông là người trí dũng tuyệt vời, dũng cảm, bản lĩnh và tài ba. Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm. Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”

– Ông là người nghệ sĩ tài hoa: Ông ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

→ Nổi bật lên hình ảnh ông lái đò từng trải, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp, một con người có trí nhớ cao độ.

c. Cuộc ác chiến với con sông Đà hung bạo.

– Ông lái đò đối lập với thiên nhiên Tây Bắc:

+ con người nhỏ bé >< thiên nhiên lớn lao.

+ Không có phép màu, dữ dội và hiểm độc.

+ Vũ khí: chỉ là cán chèo mỏng manh >< sức mạnh được nâng  lên hàng thần thánh.

+ Trên con đò đơn độc >< có sóng nước hò reo có thạch trận với đủ ba lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham hiểm.

→ Một cuộc chiến không cân sức.

– Cuộc chiến chia làm 3 vòng:

* Vòng 1:

– Con sông Đà:

+ Sông Đà bày thạch trận trên sông. Thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Trận đá chia làm ba hàng chặn ngang, phối hợp với đá nước thác reo hò, thách thức vang dậy, bẻ gãy cánh chèo.

+ Luồng sóng hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.

+ Sóng nước túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra…bóp chặt lấy hạ bọ người lái đò.

– Ông lái đò:

+ Ông đò cố nén đau thương (vì thác đã đánh trúng vào chỗ hiểm), hai chân vẫn kẹp chặt lấy guồng lái, điều khiển con thuyền.

+ Tỉnh táo chỉ huy không một chút nghỉ tay, nghỉ mắt.

→ Người lái đò như một viên tướng tả xung, hữu đột, bình tĩnh, gan góc và tự tin, chiến đấu và chiến thắng.

* Vòng 2:

– Con sông Đà:

+ Dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.

+ Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Bọn thuỷ quân …xô ra dịnh níu thuyền xô vào của tử.

– Ông lái đò:

+ Ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này.

+ Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.

+ “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”.

+ Người lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.

→ Với trí tưởng tượng và vốn từ phong phú đặc biệt là kiến thức về quân sự: cách bài binh bố trận, Nguyễn Tuân tạo dựng được đoạn văn mang đầy không khí trận mạc, sinh động.

* Vòng 3:

– Con sông Đà:

+ Thạch trận ít cửa tử hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ.

– Người lái đò:

+ Ông lái đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.

+ Vút vút cửa ngoài, cửa trong, vừa xuyên nhanh vừa tự động lái → thế là hết.

* Bình luận:

– Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động : so sánh ngầm , nhân hóa , cường điệu … Câu chữ tuôn chảy ào ạt , điệp điệp trùng trùng tạo ra  một bức tranh chién trận hòanh tráng về không gian, ấn tượng về hình ảnh hiểm nguy, gay cấn về tình huống… Kết hợp với phong cách sử dụng nhiều loại hình nghệ thuật, trong đoạn viết này Nguyễn Tuân đã cho thấy cách viết của ông như kịch bản phim và qua bàn tay đạo diễn, nó tạo ra sự  sống động hồi hộp âu lo, thán phục…

– Sử dụng từ ngữ tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, câu văn ngắt ra nhiều để diễn tả các động tác trong cùng một khoảng thời gian của người lái đò → mạo hiểm, dũng cảm, thuần thục, giỏi giang trong nghề leo ghềnh,vượt thác. Đó chính là tài hoa của người nghệ sĩ (Nguyễn Tuân quan niệm: Dù bất cứ nghề nào, con người bộc lộ tài năng, khéo léo, điêu luyện trong nghề nghiệp, người đó là nghệ sĩ).

– Sau cuộc vượt thác, ông trở về với cuộc sống đời thường, sau cuộc chiến “đêm ấy nhà ông đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam..cá túa ra tràn đầy đồng ruộng”. Đó là cuộc sống thường nhật của người lái đò ngày nào cũng chiến đấu với thiên nhiên → Cuộc sống bình dị, khiêm nhường nhưng rất đáng khâm phục.

– Với nghệ thuật miêu tả giàu tính tạo hình, kết hợp nhiều yếu tố điện ảnh, lối kể chuyện hồi hộp giàu kịch tính, có cái nhìn của nhà địa lý chính xác, nhà quân sự tài ba, nhà văn đã làm nổi bật cuộc chiến đầy dữ dội nhưng cuối cùng con người đã chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên → kì tích lao động của con người. Nguyên nhân làm nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn. Đó chính là sự ngoan cường, chí quyết tâm và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước đã giúp con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Đó chính là những yếu tố làm nên chất “vàng mười” của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung. Qua đó nhà văn ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng.

– Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà là những người lao động bình thường – chấtvàng mười đã được thử lửa của Tây Bắc. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.

– Đoạn tùy bút xứng đáng là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đó chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

– Người lái đò sông Đà ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động – chất vàng mười của cuộc sống.

2. Nghệ thuật:

– Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả.

– Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.

– Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp trữ tình rất nên thơ của con sông.

– Cách sử dụng từ ngữ độc đáo, đắc địa, tài ba, sử dụng vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực.

– Cách sử dụng từ ngữ độc đáo, đắc địa, tài ba, sử dụng vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực.

Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang