»» Nội dung bài viết:
Đọc – hiểu văn bản:
Thuốc
(Lỗ Tấn)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả: Lỗ Tấn.
– Lỗ Tấn (1881- 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, tên chữ là Dự Tài, bút danh Lỗ Tấn. Quê Phủ Thiệu Hưng – Chiết Giang – Trung Quốc.
– Ông sinh ra trong một gia đình quan lại nhưng bị sa sút. Năm 13 tuổi chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh không thuốc mà chết → ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc.
– Đang học nghề Y, ông đột ngột chuyển hướng sang làm văn nghệ. Bởi ông nhận ra rằng: chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng bệnh tinh thần.
– Làm văn nghệ, ông dùng ngòi bút để phanh phui “các căn bệnh tinh thần” của quốc dân, lưu ý mọi người tìm phương thuốc chạy chữa.
– Quan điểm sáng tác: Toàn bộ sáng tác của ông đều tập trung phê phán các căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội, tự thoả mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.
– Ông là nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc và cũng là nhà văn đạt được nhiều thành tựu lớn trong nền văn học hiện đại Trung Quốc TK XX.
→ Lỗ Tấn từng làm nhiều nghề: hàng hải, khai mỏ, học nghề y làm văn nghệ. Bởi ông thấy học thuốc không còn quan trọng nữa. Dân mà còn ngu muội, hèn nhát thì dù thân thể có khoẻ mạnh, cường tráng cũng chỉ có thể làm thứ người mà người ta đem ra chém đầu thị chúng và thứ người đứng xem thị chúng vô vị như thế kia mà thôi. Còn đau ốm mà phải chết đi thì chưa hẳn đã là bất hạnh. Ông hát cho đồng bào mình nghe bài hát lạc điệu của chính họ, chỉ cho họ thấy những bước đi sai nhịp trên con đường tiến về tương lai.
* Các tác phẩm chính:
+ AQ chính truyện.
+ Gào thét.
+ Bàng hoàng.
+Chuyện cũ viết theo lối mới.
+16 tập tạp văn có giá trị phê phán, tính chiến đấu cao.
+ Thơ: 75 bài.
→ Những tác phẩm văn học của Lỗ Tấn là tiếng nói đấu tranh đánh vào chủ nghĩa đế quốc và phong kiến. Bên cạnh đó là sự khao khát hướng đến “một xã hội mới”, “một cuộc đời mới”.
2. Tác phẩm: “Thuốc”
– Hoàn cảnh sáng tác: “Thuốc” được viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ. đây là thời kì đất nước Trung Hoa bị các đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé. Xã hội phong kiến Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa nhưng nhân dân lại an phận chịu nhục. Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thoả mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Thuốc đã ra đời trong bối cảnh ấy với thông điệp: cần suy nghĩ nghiêm khắc về một phương thuốc để cứu dân tộc.
– Thể loại: truyện ngắn.
– Nội dung: Tác phẩm phê phán sự lạc hậu của quần chúng và mong ước quần chúng sẽ tiến bộ hơn, có cái nhìn đúng đắn hơn về người chiến sĩ cách mạng. Thuốc là hồi chuông cảnh báo sự mê muội đớn hèn của người Trung Hoa vào cuối thế kỷ XIX – đầu TK XX và sự cấp thiết phải có phương thuốc chữa bệnh cho quốc dân: làm cho người dân giác ngộ cách mạng và cách mạng gắn bó với người dân.
– Bố cục: 4 phần
+ Phần 1: Thuyên mắc bệnh lao. Mẹ Thuyên đưa tiền cho chồng ra chỗ hành hình người cộng sản mua bánh bao tẩm máu về chữa bệnh cho con (mua thuốc).
+ Phần 2: Thuyên ăn cái bánh bao tẩm máu người nhưng vẫn ho, tim đập mạnh không sao cầm nổi (uống thuốc).
+ Phần 3: Cuộc bàn luận trong quán trà về thuốc chữa bệnh lao, về tên giặc Hạ Du (bàn về thuốc).
+ Phần 4: Nghĩa địa vào dịp tiết Thanh minh. Hai người mẹ trước hai nấm mồ: một của người chết bệnh, một chết vì nghĩa ở hai khu vực, ngăn cách bởi một con đường mòn (hậu quả của Thuốc).
* Tóm tắt:
Một đêm thu gần về sáng theo lời bác Cả Khang, lão Hoa trở dậy đi đến pháp trường để mua “thuốc” chữa bệnh lao cho thằng Thuyên. Chiếc bánh bao được tẩm bằng máu của phạm nhân là người làm cách mạng tên Hạ Du (theo lời kể của những người tới quán trà nhà lão Hoa). Cuối cùng thằng Thuyên vẫn không qua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo.
Trong tiết thanh minh của mùa xuân tại nghĩa địa, mẹ Thuyên và mẹ Hạ Du đều tới thăm mộ con, hai người băn khoăn khi tự hỏi “thế này là thế nào?” khi nhìn thấy một vòng hoa trên mộ của người chiến sĩ cách mạng. Bà mẹ Thuyên bước qua con đường mòn ngăn cách giữa nghĩa địa của người chết nghèo, nghĩa địa người chết chém hoặc chết tù để an ủi mẹ của Hạ Du.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” – Chiếc bánh bao tẩm máu người.
– Thuốc, nguyên văn là Dược (trong từ ghép Dược phẩm) phản ánh một quá trình suy tư nặng nề của Lỗ Tấn (động cơ và mục đích đổi nghề của ông). Nhận thức rõ thực trạng của người dân Trung Hoa thời bấy giờ “ngu muội và hèn nhát”, nhà văn không có ý định và cũng không đặt ra vấn đề bốc thuốc cho xã hội mà chỉ muốn “lôi hết bệnh tật của quốc dân, làm cho mọi người chú ý và tìm cách chạy chữa”. Tên truyện chỉ có thể dịch là Thuốc (Trương Chính). Vị thuốc (Nguyễn Tuân), chứ không thể dịch là Đơn thuốc (Phan Khải).
+ Tầng nghĩa thứ nhất – nghĩa đen của tên truyện là: thuốc chữa bệnh lao (bài thuốc mà bố mẹ thằng Thuyên nâng niu và trân trọng, coi là thuốc tiên để cứu mạng thằng con. Rốt cuộc không cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó) → với tầng nghĩa này, chủ đề tư tưởng của truyện chỉ có thể là : chống mê tín di đoan, phê phán lối chữa bệnh mù quáng.
→ Một phương thuốc u mê, ngu muội giống hệt phương thuốc mà ông thầy lang bốc cho bố Lỗ Tấn bị bệnh phù thủng với hai vị “không thể thiếu’ là rễ cây nứa kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực và con cái dẫn đến cái chết oan uổng của ông cụ. Bánh bao tẩm máu người chữa bệnh lao nghe như câu chuyện thời trung cổ lại xảy ra ở nước Trung Hoa trì trệ, đình đốn và tự thoả mãn.
+ Tầng nghĩa thứ hai sâu hơn, mang tính khai sáng: đó là thuốc này là thuốc độc, mọi người phải giác ngộ ra rằng cái gọi là thuốc chữa bệnh được sùng bái vốn là thuốc độc. Người Trung Quốc phải tỉnh giấc, không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.
→ Lỗ Tấn vốn là một thầy thuốc nhưng ông bỏ nghề để “chữa bệnh tinh thần” để cứu rỗi linh hồn, để giác ngộ những người đang ngủ mê đứng lên làm chủ số phận. bố mẹ thằng Thuyên đã áp đặt cho nó một phương thuốc quỷ quái mà họ trân trọng như thuốc tiên. Rồi cả đám người trong quán trà cũng sai lầm một cách vô tư như vậy.
+ Tầng nghĩa thứ ba: Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng phải giác ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng.
→ Liều thuốc độc ấy trớ trêu thay lại được pha chế bằng máu của người cách mạng- một người cách mạng dũng cảm, hiên ngang, xả thân vì nghĩa lớn, đổ máu cho sự nghiệp giải phóng nhân dân, trong đó có những người như bố mẹ Thuyên, như ông Ba, như cả Khang,… Thế mà những con người ấy lại dửng dưng mua máu người cách mạng để chữa bệnh chẳng khác gì mua máu súc vật. Sự trớ trêu này gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Nó đặt ra một câu hỏi, bắt người đọc phải trả lời: Vì đâu quần chúng mê muội như vậy? Trong bài tạp văn “Cát”, Lỗ Tấn đã nói đến bệnh rã rời của quốc dân, chẳng khác gì đĩa cát, rã rời đến mức “cái tay không cảm nhận được nỗi đau của cái chân”.
2. Hình tượng nhân vật Hạ Du – người cách mạng kiên trung.
– Đó là một thanh niên tuổi mới đôi mươi, nhà nghèo, có một mẹ già, có bản lĩnh cao cường (trước khi chết còn rủ cai ngục làm cách mạng).
– Là người ôm mộng “cải tạo nhân sinh”. Là nhà cách mạng tiên phong, mang lí tưởng cao quý: giành độc lập cho dân tộc. Sang Nhật để học hỏi công cuộc Duy tân, rồi gia nhập tổ chức cách mạng. Về nước tuyên truyền cách mạng và bị khủng bố, bị tàn sát.
+ Tính cách: dũng cảm, hiên ngang, xả thân vì nghĩa lớn nhưng lại rất cô đơn, không ai hiểu được việc làm đến nỗi mẹ anh cũng gào khóc kêu anh chết oan. Hạ Du là người chiến sĩ tiên phong dám xả thân vì lí tưởng cách mạng, trung thành với lí tưởng đến chết dù bị hiểu lầm, bị tra tấn, bị hành hình.
→ Cái chết của Hạ Du không được đề cập đến một cách cụ thể mà thể hiện qua dư luận của quần chúng. Tác giả bày tỏ sự kính trọng, cảm phục nhân cách, lòng yêu nước của người chiến sĩ cách mạng Hạ Du, đồng thời bộc lộ lòng thương cảm sâu xa đến những chiến sĩ tiên phong của cách mạng Tân Hợi.
– Nhân vật hạ Du rất giống với Từ Tích Lân, Thu Cận đặc biệt là Thu Cận – nhà nữ cách mạng tiên phong bị bắt và hành hình lúc 32 tuổi. Nơi hành hình là Cổ Hiên Đình Khẩu. Nhà văn đã không chỉ nhắc đến một lần Thu Cận bởi Thu Cận là biểu tượng của một lớp thanh niên giác ngộ sớm thời đại bấy giờ. Số phận bi thảm của nhà nữ cách mạng này trẻ tuổi này đã khắc sâu trong tâm khảm nhà văn.
→ Thái độ của tác giả đối với Hạ Du là thái độ ngợi ca, trân trọng (đối lập với thái độ phê phán, vạch ra “căn bệnh quốc dân” đối với những người dân bình thường xung quanh Hạ Du), phê phán sự lạc hậu của dân chúng Trung Quốc đương thời. Hạ du có lòng yêu nước nhưng vẫn còn xa rời quần chúng của những người chiến sĩ cách mạng.
* Thái độ của những người trong quán đối với Hạ Du (những người đang ngủ mê)
+ Họ mua máu anh làm thuốc chữa bệnh.
+ Cả Khang – đao phủ: giành lấy cái áo của người bị xử chém, bán máu.
+ Cụ ba Hạ: Phát giác cháu để được 25 lạng bạc → bệnh hám tiền, trục lợi.
+ Bọn thanh niên: Gọi Hạ Du – thằng quỷ sứ, “thằng nhãi ranh….làm giặc, “cái thằng khốn nạn điên rồ”. Chi tiết phơi bày bộ mặt tàn bạo của xã hội phong kiến Trung Quốc. Họ không thấy được cái giá trị, việc làm của Hạ Du
→ Tác giả phê phán, vạch rõ sự u mê, mù quáng, lạc hậu của quần chúng, những kẻ không có tinh thần dân tộc, tư tưởng mất gốc, lạc hậu về chính trị…
– Qua biểu hiện của dư luận và sự ghẻ lạnh của quần chúng còn thấy sự thoát li quần chúng của Hạ Du, sự đơn độc – Chiến sĩ cách mạng không giác ngộ quần chúng để khi chết không ai hiểu gì về ý nghĩa về việc làm của mình.
– Truyện không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà chỉ đặt ở tuyến ngầm phía sau. Câu chuyện diễn ra trong hai buổi sớm của hai mùa
+ Buổi sáng đầu tiên có ba cảnh: cảnh sớm tinh mơ, trời còn tối, lão Hoa đi mua bánh bao chấm máu người, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn bánh
+ Ba cảnh liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quán trà và đường phố là nơi đông người nên hình dung được dư luận, ý thức xã hội
+ Buổi sáng cuối cùng – tết thanh minh- mùa xuân tảo mộ. Mùa thu lá rụng, mùa xuân đâm chồi nảy lộc, gieo mầm
→ Điều này có dụng ý sâu sắc. Khi quần chúng chưa giác ngộ thì máu của người cách mạng đổ ra thật vô nghĩa, không được ai chú ý. Truyện đặt số đông quần chúng chưa được giác ngộ vào vị trí chủ yếu để chỉ rõ ràng, mục đích của tác phẩm vẫn là vạch trần sự đầu độc của tư tưởng phong kiến, nhằm thức tỉnh quần chúng đang mê muội. Thuốc vừa là tiếng gào thét để “trợ uy cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu”, vừa là sự bộc bạch tâm huyết của một ngòi bút lạc quan tin tưởng.
– Không gian nghệ thuật của truyện là tù hãm, ẩm mốc, bế tắc, nhưng thời gian thì có tiến triển. Từ mùa thu “trảm quyết” đến mùa xuân “thanh minh” đã thể hiện mạch suy tư lạc quan của tác giả. Ở mùa thu ‘trảm quyết có 3 cảnh: cảnh áng tinh mơ đi mua bánh bao, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn bánh, cảnh quán trà… Ba cảnh này gần như liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Mùa xuân “thanh minh”- mùa xuân tảo mộ, mẹ Hạ Du viếng mộ Hạ Du và phát hiện có một vòng hoa trên mộ.
3. Ý nghĩa hình ảnh vòng hoa và niềm lạc quan của tác giả.
– Mẹ Hạ Du thăm mộ vào tiết Thanh minh và phát hiện có vòng hoa trên mộ. Bà vô cùng ngạc nhiên: “bất giác giật mình. Rõ ràng có một vòng hoa…”. “Hoa không nhiều…chỉnh tề.”
+ Bà vừa bàng hoàng, sửng sốt cố giấu một niềm vui vì có người hiểu và kính trọng con mình: “Thế này là thế nào?”
– Bà Hoa nhìn về mộ con, thấy lòng trống trải. Chi tiết có tác dụng làm nổi bật sự chăm sóc đặc biệt của ai đó trên mộ Hạ Du.
– Mẹ Hạ Du suy nghĩ “Hoa không có gốc..”, bà thắc mắc tự hỏi và dần hiểu ra khóc thương xót cho Hạ Du “Oan cho con lắm… cảm thấy nhẹ người đi”.
– Với hình ảnh vòng hoa trên mộ thể hiện một niềm mơ ước, nguồn an ủi, niềm tin của tác giả vào sự hi sinh của người chiến sĩ cách mạng, không phải mọi người đều hững hờ.
III. Tổng kết.
1. Nội dung.
– “Thuốc” là một trong những tác phẩm tiêu biểu mang tính chiến đấu cao của Lỗ Tấn. Ông vạch rõ những căn bệnh trong xã hội, ông mong muốn có một phương thuốc để giác ngộ quần chúng.
– “Thuốc” còn là hồi chuông cảnh báo căn bệnh mê muội của người Trung Hoa đầu thế kỉ XX; nhà văn bày tỏ niềm tin vào tương lai: nhân dân sẽ thức tỉnh, hiểu cách mạng và dấn bước theo cách mạng.
2. Nghệ thuật.
– Truyện ngắn mang kích thước của một truyện dài. Cốt truyện ngắn gọn. Không gian của truyện là không gia thực của đời thường.
– Lời văn cô động, súc tích, hình ảnh mang tính biểu tượng cao.
– Cách xây dựng nhân vật cũng rất đặc biệt. Có sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tượng trung của phương Tây.
– Cách kể chuyện theo ngôi thứ ba truyền thống nhưng nhiều đoạn đã chuyển điểm nhìn trần thuật sang nhân vật làm cho truyện sinh động và giàu chất trữ tình hơn.
IV. Luyện tập.
Bài 1: Ý nghĩa chi tiết người chết chém bên trái, nghĩa địa người chết bệnh, chết nghèo bên phải, chia cắt bởi một con đường mòn:
+ Quan điểm lạc hậu của người dân đương thời, Lỗ Tấn bàn tới cũng chính là căn bệnh quốc dân của người Trung Quốc
+ Con đường thể hiện sự lạc hậu trong nhận thức, sự phân chia giai cấp của xã hội
+ Con đường cũng là ranh giới thể hiện thái độ, tình cảm của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ
Bài 2: Câu hỏi của bà mẹ trước vòng hoa trên nấm mộ “ thế này là thế nào?” có ý nghĩa:
+ Thể hiện sự ngạc nhiên, bàng hoàng xen với sự xót xa trước cái chết của con.
+ Cũng hàm chứa niềm vui vì có người hiểu con mình, chút hi vọng le lói xã hội Trung Hoa sẽ thay đổi.
+ Điều đó chứng tỏ đã có sự biểu hiện của sự giác ngộ trong số những người dân địa phương.
+ Loé lên một tia hi vọng đối với sự hi sinh bất tử của người cách mạng.