hay-lam-ro-chat-chan-que-va-tinh-than-tho-moi-the-hien-trong-kho-tho-dau-bai-tho-tuong-tu-cua-nguyen-binh

Hãy làm rõ chất chân quê và tinh thần Thơ mới thể hiện trong khổ thơ đầu bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính.

Hãy làm rõ chất chân quê và tinh thần Thơ mới thể hiện trong khổ thơ đầu bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính.

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ, mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

(Tương tư – Nguyễn Bính)

* Hướng dẫn làm bài:

  • Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:

– Nguyễn Bính là một trong những đại diện tiêu biểu của phong trào Thơ mới với nét phong cách nổi bật “chân quê”.

Tương tư là bài thơ đặc sắc, thể hiện rõ nét phong cách ấy của tác giả đồng thời thể hiện được tinh thần của Thơ mới.

  • Thân bài:

1. Chất chân quê và tinh thần Thơ mới:

“Chất chân quê” là nét riêng của thơ Nguyễn Bính. Đó là cái gốc, là bản sắc văn hoá của con người Việt Nam. Chất “chân quê” ấy được biểu hiện ở giọng quê, tình quê, hồn quê, thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc…

“Tinh thần Thơ mới” trong thơ Nguyễn Bính chính là tiếng nói, là khát vọng của một cái tôi cá thể tràn đầy cảm xúc, cảm giác.

2. Biểu hiện của chất chân quêtinh thần Thơ mới trong đoạn thơ:

a. Chất chân quê:

– Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc; cách biểu đạt đậm chất dân gian qua hệ thống ngôn từ giản dị, mộc mạc, sử dụng hoán dụ, nhân hóa và  thành ngữ “chín nhớ mười mong”... Tất cả gợi lên được phong vị chân quê, hồn quê của người Việt bao đời nay.

– Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông gợi ra một không gian làng quê cổ xưa và thân thuộc của xứ Bắc.

– Lối nói vòng vo, bóng gió có duyên, giọng điệu kể lể phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư của nhân vật trữ tình – một chàng trai quê.

b. Tinh thần Thơ mới:

– Tiếng nói của nhân vật trữ tình “tôi” là tiếng nói dõng dạc của cái tôi cá nhân, cá thể không còn là tiếng nói của cái “ta” gắn với bổn phận, trách nhiệm. Cái “tôi” bộc lộ cảm xúc một cách tự nhiên, chân thành, mãnh liệt.

– Lời tỏ bày của chàng trai không chỉ duyên dáng, tế nhị mà còn thông minh, táo bạo. Từ thuộc tính của tự nhiên, chàng trai khẳng định thuộc tính của trái tim mình và bật lên thành lời yêu thương “tôi yêu nàng”.

3. Đánh giá chung:

– Đoạn thơ thể hiện được tài năng Nguyễn Bính: Vừa chân quê, hồn hậu vừa mới mẻ. Chất “chân quꔓtinh thần” Thơ mới hòa quyện làm nên nét riêng trong phong cách thơ Nguyễn Bính.

Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta làm thức dậy hồn xưa đất nước và góp phần làm nên diện mạo phong phú đa dạng của phong trào thi ca thời đại.


Tham khảo:

Chất chân quê và tinh thần Thơ mới thể hiện trong khổ thơ đầu bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính.

Viết về tình yêu được xem là đề tài “tủ” của Thơ mới. Có tình yêu tan vỡ, có tình yêu vừa chớm nở… với không biết bao sắc màu đầy biến hóa trong tình trường xưa nay. Nguyễn Bính viết Tương tư và xem đó như là một “bệnh” của riêng cái tôi trữ tình trong giờ phút ấy:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.

Mượn thôn làng để ẩn mình trong đó là cách quen thuộc của ca dao, khi mà “cái tôi” phải nhập vào cộng đồng mới có thể yên vị! Cái điều muốn giãi bày là ở chuyện người nhớ kia: chín nhớ mười mong là một thành ngữ được đặt giữa câu thơ, hai đầu còn lại là một người và còn lại bên kia nữa, vẫn một người. Như vậy là có khoảng cách không gian (và cả thời gian) để đo đếm. Nhớ và mong là biểu hiện của tương tư? Khác rất xa với Anh trong Tương tư, chiều của Xuân Diệu.

Cách lấy trời đất ra để thề thốt, hoặc đế trách cứ, hoặc là so sánh vốn của ca dao (“Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời… “Thấy anh như thấy mặt trời…”, “Núi che mặt trời không thấy người thương”…). Nguyễn Bính cũng mượn, nhưng mượn “bệnh của giời” để so với “bệnh của tôi” thì to gan quá, chỉ có thể có ở một nhà thơ hiện đại thôi. Tuy nhiên, “cái tôi” của Nguyễn Bính không lộ rõ như Xuân Diệu và nhiều nhà thơ khác, họ nghênh ngang hơn, họ ngạo mạn hơn nhiều. Nguyễn Bính có so sánh như vậy cũng chỉ vì cớ khép người ta nghe mình cho thuận lòng trời thôi! vẫn chân quê là chỗ ấy.

Kể lể và giãi bày là cách quen thuộc của ca dao được nhà thơ triệt để sử dụng. Nó phù hợp với tâm trạng nhớ nhung của kẻ tương tư. Đi qua cả giãi bày là hờn trách, kiếm cớ mà trách hờn cho khéo: Vì hai thôn mà thật ra là một làng, vì ngỡ không gần nhưng có xa gì đâu! Chẳng đò ngang, chẳng còn cơn cớ để xa mặt cách lòng được nữa. Lối nói vòng vo khéo léo ấy cũng nhuốm màu sắc của ca dao như “Hôm qua tát nước đầu đình”, khiến người nghe hờn trách mà vẫn dễ chấp nhận, vẫn thương yêu. Và, quan trọng hơn là … lại nhớ hơn, bồi hồi khắc khoải, bâng khuâng … nghĩa là “trúng” vào cái “bay” của người than vãn kia tự bao giờ! Tài hoa của Nguyễn Bính là ở chỗ ấy. Có sắp đặt bài bản mà vẫn như vô hình, như vô lí; hay là dùng cái vô lí, vô lí để nói cho được cái hữu duyên?

Khát khao cháy bỏng được cất lên:

Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?

Đây là hai câu thơ hiện đại nhất trong bài thơ. Hình ảnh bến và đò thì không lạ, nhưng hoa và bướm thì đã có phần mới mẻ. Nó có chất thị thành, có ánh sáng của “đèn điện” chứ không phải là “nến sáp”. Chưa kể đến chuyện ao ước ngược đời, vô lí: bến gặp dò mà không phải đò gặp bến, hoa đi tìm bướm chứ không phải thuận lẽ xưa nay!

Nhưng, dù sao, sự “vô lí” vẫn được chấp nhận vì nằm trong toàn bộ hệ thống “lí lẽ” của kẻ tương tư suốt chiều dọc của bài thơ. Vì “tương tư” mà, với tâm trạng “bồi hồi” lạ lùng nên mới thế! Nào ai trách cứ gì những kẻ tương tư.

Cuối cùng, bài thơ vẫn “chân quê” ở cái tình người, tình thơ. Chất chân quê ấy của Tương tư thể hiện ở nội dung tình cảm sâu sắc của bài thơ: Mặc dù viết về tình yêu nhưng không sầu mộng; viết về nhớ nhung nhưng không tuyệt vọng, tỏ tình có vẻ đơn phương nhưng vẫn tin vào duyên cau – trầu như một quy luật hợp lòng trời và nhất là hợp với truyền thống văn hóa thôn làng bền vững xưa nay “Hai thôn chung lại một làng”. Tất cả đều đã có, trầu cau đã sẵn, còn chờ gì nữa nhỉ? Tình yêu ở đây gắn liền với khao khát hạnh phúc, với hôn nhân đôi lứa, rất gần với tình trong ca dao xưa.

Vẻ đẹp “chân quê” trong bài thơ này không chỉ ở cách sử dụng thể loại lục bát dân tộc cùng những hình ảnh quen thuộc, biện pháp so sánh truyền thống, mà còn cả ở cách kết cấu “có hậu” này nữa ở phần cuối của bài thơ:

Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Hàng loạt những “cặp đôi” xuất hiện ngay từ đầu bài thơ, đến đoạn cuối này, lặp lại với một mức đậm đặc hơn: thôn Đoài thôn Đông, nhà em nhà anh, giàn giầu – hàng cau. Lối nói bóng gió nhưng rất tinh tế, nên cũng khá rõ ràng, mạch lạc. Tương tư, hờn trách, ước mong … để tỏ tình. Các bước tuần tự như vậy ta cũng thường bắt gặp trong một số bài ca dao tỏ tình (Anh làm thợ mộc Thanh Hoa, Đêm qua tát nước dầu đình…). Nguyễn Bính sáng tạo hơn, in dấu ấn hiện đại hơn, nhưng nét đẹp “chân quê”, hồn quê vẫn vương vấn trong hồn vía của bài thơ. Trong khi không ít thi sĩ cùng thời, dù ít nhiều vẫn in dấu ấn của một số nhà thơ Tây phương, thì Nguyễn Bính vẫn thủy chung với thơ dân gian truyền thống. Vẫn hiện đại khi “thôn dân” Nguyễn Bính có “gian díu với kinh thành” đôi ba lần, song cốt cách thơ của ông, vẫn “giữ chân quê”, thật duyên dáng và hấp dẩn.

Lấy không gian quê làm không gian tỏ tình, cảnh sắc rất gần gũi với những miền quê Bắc Bộ, con đò, hàng cau, mái đình, bến nước… Bài thơ phảng phất không gian vừa lãng mạn, vừa bình dị, quen thuộc.

Hồn quê còn được thể hiện ở hầu hết mọi yếu tố của bài thơ, kể cả ngôn từ, thứ ngôn từ mộc mạc, khiêm nhường, kín đáo, hình ảnh đến giọng điệu trữ tình vừa kể lể, than trách, vừa giãi bày tha thiết…

  • Kết bài:

Chất “chân quê” được xem là một nét đặc biệt tạo nên hồn thơ Nguyễn Bính. Trong khi các nhà thơ mới hướng ngoại, thậm chí là vọng ngoại, mới thấy Nguyễn Bính có duyên gắn bó với văn hóa dân gian tài hoa đến mức nào. Sẽ chẳng bao giờ mất được “hồn quê” hay chất “chân quê” trong mỗi người Việt, dù xã hội có “đô thị hóa” đến đâu, trong sâu thẳm của tiếng nói tâm hồn, vẫn vọng về hồn quê từ cõi lòng Nguyễn Bính!


Tham khảo:

  • Mở bài:

Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Chỉ có quê hương mới tạo ra được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đề thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình yêu tuyệt vời của Nguyễn Bính”. Để bàn luận đến phong cách thơ bình dị, mộc mạc, đậm chất “chân quê” của Nguyễn Bính, chúng ta không thể nào không nhắc đến Tương tư.

  • Mở bài:

Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì theo một lối riêng của chính ông. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ảnh hưởng của thơ ca dân gian. Với Tương tư, Nguyễn Bính bắt đầu chủ đề tình yêu bằng một nỗi nhớ:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người

Trong cuộc sống hàng ngày, tương tư là chỉ nỗi nhớ nhung đơn phương, thầm kín của người con người với đối tượng mà mình có cảm tình hoặc yêu thích. Vậy mới nói, tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nỗi nhớ, và tình yêu trong Tương tư cũng vậy. Cũng là nhớ, nhưng là “chín nhớ mười mong”, là nhớ thương khắc khoải. Cái nỗi nhớ da diết tưởng chừng như không đong đếm được được nhà thơ gói gọn trong bốn chữ “chín nhớ mười mong” nhưng lại càng khiến cho nỗi nhớ như trải rộng thêm ra, đầy thêm lên.

Nỗi nhớ ấy chính là tương tư, chính là biểu hiện của tình yêu! Đến hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khẳng định đó chính là tình yêu! Vì yêu nên mới “chín nhớ mười mong”, vì yêu nên mới tương tư, chờ đợi:

Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Đến đây, nỗi nhớ đã được chỉ đích danh. Đó là nỗi nhớ của tình yêu, nỗi nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Vì thế, đến cả cái chất yêu, cái chất nhớ cũng đượm tình quê, hồn quê bình dị mà chân thật. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã, nỗi nhớ mộc mạc mà lại đằm thắm, tâm tư. Nguyễn Bính thích lối cụ thể hoá cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:

Một người chín nhớ mười mong một người.

“Một người” đứng ở hai đầu câu thơ, tạo ra một khoảng cách, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy quả là hay, quả là độc đáo! Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất. Rằng trời cao kia cứ nắng cứ mưa, còn “tôi” đây dù nắng dù mưa vẫn một nỗi lòng yêu thương, nhớ nhung “nàng”.

Có lẽ đây chính là hai câu thơ được nhiều người nhớ nhất, nhiều người nhắc tới nhất của Tương tư – Nguyễn Bính. Bởi nó không chỉ là tâm trạng của chàng trai thôn quê trong riêng Tương tư mà còn là nỗi niềm chung của biết bao chàng trai đang yêu khác, câu thơ như nói thay tâm tư của họ.

Thương thầm nhớ trộm, đơn phương vẫn biết “quyền được yêu” của con người, nhưng đã đơn phương thì lấy quyền gì trách móc? Tình yêu đôi khi phi lí như vậy:

Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này

Đọc câu thơ, ta thấy tội nghiệp cho người trách hơn là người bị trách. Rõ ràng là nàng “Thôn Đông” đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng “Thôn Đoài”. Nhưng thấy người ở Thôn Đoài mười mong chín nhớ đến độ tự hờn giận vu vơ lại thấy thật tội nghiệp, đáng thương. Đáng thương nhất không phải tình cảm không được đáp lại mà là ngay cả mình thích người ta cũng không để người ta biết, không dám để người ta biết, chỉ biết lặng lẽ nhớ mong rồi chờ đợi vào hai chữ “vô tình”.

Rõ là chung làng, không gian gần thế mà sao cái “chung” đã không chung được thì thời gian càng đằng đẵng, nỗi chờ mong càng vò võ:

Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Cách sử dụng láy chữ “ngày qua ngày lại…” như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết “mùa qua mùa lại…” mà phải viết “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đến vàng vọt cả “lá xanh” hay là héo úa cả tuổi xanh?

Trong tình yêu, sợ nhất là chờ đợi, mà lại còn là không biết sẽ chờ đợi bao lâu. Bởi thế mới càng nhớ nhung, càng nhớ càng sinh ra bứt rứt, vu vơ hờn giận:

Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho

Hết trách móc lại chuyển sang kể lể, than thầm. Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có “ai” biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Những từ “ai” phiếm chỉ được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ “ai” gợi nhớ những từ “ai” trong ca dao:

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai.

Than thầm, trách móc vì yêu, vì nhớ, vì tương tư. Tình cảm đơn phương vốn xưa nay chẳng mấy ai vui. Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng, sự chờ đợi khiến trái tim tình si thêm khao khát, lại nhuốm thê lương:

Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?

Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng bến và đò, hoa và bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như bến, hoa ám chỉ người con gái, biểu tượng động như đò, bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại “Bao giờ bến mới gặp đò”? Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch? Cho nên cứ trách “cớ sao bên ấy chẳng sang”, rồi “không sang là chẳng đường sang đã đành”, rồi “tình xa xôi”. Lại nữa “hoa khuê các” làm sao gặp “bướm giang hồ”? Rõ ràng là Nguyễn Bính đã thổi vào hoa – bướm của dân dã một chút tình lãng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa có cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút “khó hiểu của thời đại” như Hoài Thanh từng nói. Thực chất, sâu trong thâm tâm, dẫu trái tim tình si có yêu thương, nhớ nhung mãnh liệt nhưng vẫn cảm nhận được sự vô vọng, mộng tưởng xa xôi. Thế mới là tương tư, thế mới chỉ biết tương tư, thầm sầu, thầm trách trong đơn phương vô vọng.

Cuối bài thơ, nhịp thơ trở về với giai điệu ban đầu, câu thơ chỉ khác ở chỗ có thêm một vài biến tấu:

Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Câu thơ “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông” được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu – cau. Dẫu trầu cau là biểu tượng kết đôi, lứa đôi hạnh phúc nhưng dẫu có trầu, có trầu, có cau thì cũng chỉ là nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao “đỏ với nhau được” như ca dao:

Miếng trầu với lại quả cau
Làm sao cho đỏ với nhau thì làm

Ấy thế mới lại càng khắc khoải không yên, càng tương tư day dứt. Tương tư là nỗi nhớ mong, mà nhớ mong thầm kín, đơn phương thì há chẳng phải là thất tình? Bởi thất tình mới cứ mãi vấn vướng không dứt, cứ buồn man mác mà chẳng biết ngỏ cùng ai, chỉ biết thốt lên dăm bảy câu thơ tỏ lòng cùng nỗi nhớ, có trách móc, hờn giân đấy, mà là “giận thì giận mà thương càng thương”.

Thơ Nguyễn Bính chở đầy tình quê, hồn quê, thắm đượm cái chất “hương đồng gió nội”. Bởi vậy, thơ Nguyễn Bính thành ra lạ so với trường phái thơ lãng mạn đương thời. Sức hấp dẫn của Tương tư không chỉ là ở chuyện tình yêu lứa đôi mà còn ở tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương, với người với cảnh, ở sự nâng niu trân trọng của nhà thơ đối với nghệ thuật dân tộc, ở lối tư duy thơ đậm màu sắc dân gian, mỗi câu thơ đều đượm sắc ca dao dân ca mộc mạc, thuần tuý. Quả là một hồn thơ quê thanh khiết, bình dị mà đằm thắm, sắc son hiếm có!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang