Các thời kỳ phát triển của Phong trào Thơ mới

cac-thoi-ky-phat-trien-cua-phong-trao-tho-moi

Các thời kỳ phát triển của Phong trào Thơ mới.

Trong những năm đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước xuất hiện một dòng thơ ca thuộc khuynh hướng lãng mạn. Đó là Thơ mới (hay còn gọi là Thơ mới lãng mạn). Thơ mới là một cuộc cách mạng thơ ca trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc ở thế kỷ 20. Sự xuất hiện của Thơ mới gắn liền với sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932- 1945. Phong trào thơ mới đã mở ra “một thời đại trong thi ca” , mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Sự ra đời của phong trài Thơ mới.

Ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử xã hội.

– Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội.  Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, nền văn học Đông Á, trong đó có văn học trung đại Việt Nam, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng văn hóa nghệ thuật Trung Hoa. Bước sang đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam chuyển biến, sự thay đổi mạnh mẽ của hạ tầng xã hội làm thay đổi các hình thái ý thức xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật. Văn học Việt Nam bước vào quá trình hiện đại hóa gắn liền với cuộc giao lưu với phương Tây.

– Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình. Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932 – 1945.

– Xuất hiện năm 1932, Thơ mới là diễn ngôn của tầng lớp thanh niên tư sản thành thị đang tìm cách tự khẳng định mình. Diễn ngôn Thơ mới đem lại tri thức mới: bộc lộ cái tôi cá nhân cá thể và thể hiện quyền lực mới thông qua quá trình đấu tranh dữ dội với thơ cổ điển của tầng lớp cựu học để dành chỗ đứng trên thi đàn.

Ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn.

– Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX ở châu Âu với những đặc trưng về lịch sử, mĩ học, nội dung và nghệ thuật riêng. Ở Việt Nam, từ buổi đầu xuất hiện vào năm 1932 đến năm 1936, Thơ mới chịu ảnh hưởng chủ yếu của thơ lãng mạn Pháp, xoay quanh các đề tài quen thuộc, một mặt đào sâu vào thế giới tinh thần, tình cảm con người, mặt khác gia tăng tìm kiếm hình thức diễn tả mới, đề cao tính nhạc gắn với điệu tâm hồn.

– Khi Thơ mới lãng mạn đạt đến độ nhuần nhuyễn về bút pháp và cảm hứng, các thi sĩ có nhu cầu đi tìm tiếng nói tâm giao, những chi phái xuất hiện: xóm Huy Xuân, nhóm “tả chân”, nhóm Áo bào gốc liễu, họ đã làm phong phú thêm cho diện mạo Thơ mới đương thời.

Các thời kỳ phát triến của Phong trào Thơ mới.

– Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo bản nhạc đầu tiên trong bản hòa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là “gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, được Hoài Thanh – Hoài Chân xếp đầu tiên trong số 46 tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới. Và đến ngày 10-3-1932 khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của Phong trào thơ mới chính thức bắt đầu. Có thể phân chia các thời kỳ phát triến của Phong trào thơ mới thành ba giai đọan:

Giai đoạn 1932 – 1935.

– Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ … Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ỷ tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới.

– Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, …

Giai đoạn 1936 – 1939.

Thơ tượng trưng là loại hình thơ xuất hiện ở phương Tây cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, vừa là sự tiếp thu, vừa là sự phủ định thơ lãng mạn với tư duy phi lí tính, đi tìm những mối liên hệ ẩn sâu thế giới hiện hữu, đề xuất sự tương ứng của vạn vật. Thơ siêu thực là loại hình xuất hiện ở phương Tây vào đầu thế kỉ XX với chủ trương phê phán chủ nghĩa tượng trưng, hướng về thế giới vô thức; tin cậy ở trực giác, giấc mơ.

– Ở Việt Nam, từ sau năm 1936, những dấu hiệu của chủ nghĩa lãng mạn nhường chỗ cho ảnh hưởng của lối thơ tượng trưng, siêu thực với sáng tác của Trường “thơ loạn”, Xuân Thu nhã tập, Dạ Đài. Sự phát triển từ lãng mạn đến tượng trưng, siêu thực trong Thơ mới là kết quả quá trình vận động của tư duy nghệ thuật theo hướng hiện đại hóa, với vốn ngôn ngữ văn học thực sự được hiện đại hóa. Đó là động lực đưa thơ Việt hòa nhập vào quỹ đạo hiện đại của thơ thế giới.

– Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọạn này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu (tập Thơ thơ -1938), Hàn Mặc Tử (Gái quê -1936, Đau thương -1937), Chế Lan Viên (Điêu tàn – 1937), Bích Khuê (Tinh huyết – 1939), … Đặc biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ ‘’mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa mới bước vào làng thơ “đã đuợc người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn”3. Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này.

– Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bàng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng.

Giai đoạn 1940 – 1945.

– Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,…

– Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát.

Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới.

Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận địnhh: “Thơ mới là một hiện tượng văn học đã có những đóng góp vào văn mạch của dân tộc”… “ Trong phần tốt của nó, Thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa”… “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm”

Thơ mới mang tinh thần dân tộc sâu sắc.

– Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thòi kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ 1925-1931 (mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi nghĩa Yên Bái). Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được ‘Tung hoành hống hách những ngày xưa” (Nhớ rừng); Huy Thông thì khát khao:

“Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng
Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”.

– Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt. Nghe tiếng rư của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hèn thiêng đất nước” trong từng câu ca:

“Nằm trong tiếng nói yêu thương
Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”.

– Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày càng trong sáng và giàu có hơn.

– Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của ngưòi nghệ sĩ không được tự do (Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Tràn Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm) …

Thơ mới mang tâm sự yêu nước thiết tha.

– Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp (Em đi Chùa Hương); hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận (Đẹp xưa); hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh (Quê hương) v.v…

– Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao: Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước.

– Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, Phong trào thơ mới còn bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu sau cách mạng tháng Tám.

Những đóng góp của phong trào Thơ mới về mặt thi pháp đối với sự phát triển của nền thi ca dân tộc

6 Trackbacks / Pingbacks

  1. Nghị luận: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt muốn tận h
  2. Qua bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, hãy làm rõ ý kiến: “Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này nhưng thế giới trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng.” (Hoài Thanh
  3. Dàn bài phân tích bài thơ "TRÀNG GIANG" (Huy Cận). - Theki.vn
  4. Kiến thức luyện thi văn bản thơ: Đoàn thuyền đánh cá, Bếp lửa, Ánh trăng. - Theki.vn
  5. Những chuyển biến về ngôn ngữ thơ từ 1932 đến hết thế kỷ XX - Theki.vn
  6. Hãy làm rõ chất chân quê và tinh thần Thơ mới thể hiện trong khổ thơ đầu bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính. - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.