Đọc hiểu văn bản:
Hầu trời
(Tản Đà)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả.
– Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu. Quê Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây)
– Con người Sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, được xem là “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh) cả về học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương. Học chữ Hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ…
– Phong cách thơ: Thơ Tản đà mang tính lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái. Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
2. Bài thơ “Hầu trời”
– Xuất xứ: In trong tập “Còn chơi” (1921).
– Bố cục gồm 3 phần:
+ Phần 1 ( khổ thơ đầu): giới thiệu về chuyện lên hầu trời
+ Phần 2 ( tiếp… chợ Trời) thi nhân ngâm thơ cho Trời và chư tiên trên thiên đình nghe
+ Phần 3 (còn lại) Cuộc trò chuyện của thi nhân với trời
– Nội dung: Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…
II. Đọc hiểu tác Phẩm
1. Nhớ lại cảm xúc đêm được lên tiên (Khổ thơ đầu):
– Cách mở đầu câu chuyện rất riêng và đầy sáng tạo. Chuyện kể về một giấc mơ nhưng nhà thơ lại cố ý nhấn mạnh rằng đây không phải là mơ mà là thật, sự thật tác giả đã trải qua.
– Điệp từ “thật “được sử dụng 4 lần trong câu 3, 4 : Thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên…
2. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe (6 khổ tiếp).
– Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
+ Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc: “Đọc hết văn vần sang văn xuôi / Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
+ Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình: “Hai quyển khối tình văn lý thuyết/ Hai khối tình con là văn chơi/ Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết…”
+ Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
→ Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng dịnh tài năng. Đây là niềm khát khai chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
– Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả.
+ Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
+ Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng… Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
→ Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạng và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
– Cách kể, tả cụ thể, bình dị, thiên đường mà không quá xa xôi, cách biệt với trần thế.
→ Câu chuyện diễn biến tự nhiên, hợp lí.
– Giọng thơ thoải mái, từ ngữ hóm hỉnh: Thi sĩ rất cao hứng và có phần tự đắc. Chư tiên nghe thơ rất xúc động và tán thưởng, hâm mộ. Trời khen rất nhiệt thành. Tác giả tự xưng tên tuổi và thân thế.
– Tác giả đã khẳng định tài năng văn chương thiên phú của mình, không thấy có ai đáng là kẻ tri âm với mình ngoài trời và các chư tiên. Nhà thơ tự nhận mình là một “trích tiên” bị đày xuống hạ giới để thực hành “thiên lương”, thể hiện cái ngông; qua đó xác định thiên chức của người nghệ sĩ là đánh thức, khơi dậy, phát triển cái thiên lương – hướng thiện vốn có của con người.
→ Ý thức về trách nhiệm với đời cũng là một cách tự khẳng định mình.
3. Trần tình với Trời về tình cảnh của mình:
– Tản đà đã vẽ về bức tranh chân thực về cuộc đời mình, trực tiếp bộc lộ những suy nghĩ, phát biểu quan niệm về nghề văn. Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường.
+ Văn chương là một nghề kiếm sống mới, có kẻ bán người mua, có thị trường tiêu thụ… Người nghệ sĩ kiếm sống bằng nghề văn rất chật vật, ngheò khó vì “văn chương hạ giới rẻ như bèo”
+ Những yêu cầu rất cao của nghề văn: Nghệ sỹ phải chuyên tâm với nghề, phải có vốn sống phong phú; Sự đa dạng về thể loại, thể mới là một đòi hỏi của hoạt động sáng tác.
– Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cõi trời để thỏa nguyện nỗi lòng. Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
→ Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác. Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
4. Cuộc chia tay đầy xúc động với Trời và chư tiên (còn lại).
– Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân
+ Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương. Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.
+ Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời. Đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
→ Như vậy có thể nói trong thơ Tản Đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.
III. Tổng kết:
1. Nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do; giọng điệu thỏa mái, tự nhiên; ngôn ngữ giản dị, sống động…
2. Ý nghĩa văn bản: Ý thức cá nhân, ý thức nghệ sĩ và quan niệm mới về nghề văn của Tản Đà.
BÀI TẬP VẬN DỤNG.
1/ Anh (chị) hiểu thế nào là “ ngông”? “ Cái ngông” của Tản Đà trong bài thơ được biểu hiện như thế nào? So sánh “ cái ngông” của Tản Đà trong Hầu trời với “ cái ngông” của Nguyễn Công Trứ trong “Bài ca ngất ngưởng”?
2/ Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
…………………………………………..
Biết làm có được mà dám theo”.
(Trích Hầu trời, Tản Đà, Tr 15, SGK Ngữ văn 11,Tập II, NXBGD 2007)
a/ Nêu ý chính của văn bản?
b/ Xác định biện pháp tu từ (về từ) trong câu thơ Văn chương hạ giới rẻ như bèo ? Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó ?
c/ Cảm hứng chính trong văn bản trên là cảm hứng lãng mạn hay cảm hứng hiện thực ? Nêu hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng cảm hứng đó của nhà thơ ?
3/ Đọc văn bản trên và trả lời câu hỏi:
(1)Tản Đà (1889 – 1939 ) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây ( nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây ). Quê hương ông nằm bên bờ sông Đà, gần núi Tản Viên. Ông sinh ra trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu, nên con người ông, kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn“ người của hai thế kỉ”( Hoài Thanh). Tản Đà theo học chữ Hán từ nhỏ, nhưng sau hai khoa thi Hương, ông bỏ thi, chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ.
(2)Điệu tâm hồn mới mẻ,“cái tôi”lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn ông đã chinh phục độc giả mới đầu thế kỉ XX. Giữa lúc thơ phú nhà Nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, vừa có những sáng tạo độc đáo, tài hoa. Thơ văn ông có thể xem như một gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
(Hầu trời, Tr 12, SGK Ngữ văn 11,Tập II, NXBGD 2007)
a/ Nêu ý chính của văn bản?
b/ Câu văn nào trong văn bản giải thích bút danh Tản Đà ?
c/ Nhà phê bình Hoài Thanh có nhận định Tản Đà là “ người của hai thế kỉ”. Đó là hai thế kỉ nào ?
d/ Xác định phép tu từ liệt kê trong đoạn văn (2). Nêu hiệu quả nghệ thuật của phép liệt kê đó.
Dàn bài phân tích bài thơ “Hầu trời”.
- Mở bài:
– Tản Đà sống giữa hai thời đoạn hết sức quan trọng của nền thi ca Việt Nam. Đến thời ông, nên văn học cũ đang suy tàn đến cùng cực. Trong khi đó, nền văn học mới đang sinh sôi nảy nở hết sức mạnh mẽ. Bởi thế, ông là “con người của 2 thế kỉ” cả về học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương. Cái gạch nối, cái bản lề của văn học trung đại và văn học hiện đại. Tản Đà thuộc lớp nhà văn đầu tiên của Việt Nam coi viết văn, làm báo là nghề nghiệp chính. Các thể loại cũ nhưng tình điệu, cảm xúc mới mẻ. Tất cả ảnh hưởng không nhỏ đến cá tính sáng tạo của thi sĩ
– Bài thơ “Hầu trời” xuất bản lần đầu năm 1921. Tác phẩm ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…
- Thân bài:
Bài thơ cấu tứ như một câu chuyện: Thi sĩ Tản Đà lên tiên gặp trời. Tản Đà đọc thơ cho trời và các chư tiên nghe. Nghe thơ, Trời khen hay và hỏi chuyện. Tác giả đã đem các chi tiết rất thực về thơ và đời mình đặc biệt cái nghèo khó của văn chương hạ giới kể cho Trời nghe. Trời cảm động và thấu hiểu tình cảnh, nỗi lòng thi sĩ. Chuyện có vẻ khó tin nhưng cái hay và mới, cái lãng mạn và ngông của hồn thơ Tản Đà được kết đọng trong đó.
1. Cách vào đề bài thơ khá độc đáo:
Chuyện tác giả đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe khá thú vị. Cách vào đề của bài thơ gợi cho người đọc cảm giác tò mò về câu chuyện mà tác giả sắp kể. Câu thơ mở đầu mối nghi vấn khơi gợi sự hiếu kì của người đọc. Chuyện có vẻ như mơ mộng, bịa đặt nhưng dường như là thật. Tác giả dùng 3 câu khẳng định để củng cố niềm tin:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.
– Tình huống: Thi nhân buồn → ngắm trăng, ngâm thơ → làm trời mất ngủ.
– Giọng thơ: hóm hỉnh, chi tiết dí dỏm, trần tục hoá chuyện thiên đình. Bài thơ có sự kết hợp hai nguồn cảm hứng: lãng mạn và hiện thực, có nhiều cái mới.
→ Lối vào đề có sức hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh mẽ độc đáo, có duyên, hứa hẹn nhiều thú vị.
2. Lí do và thời điểm lên hầu trời:
“Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn”.
– Không gian: Trăng sáng. Thời gian: canh ba (rất khuya)
– Nhà thơ không ngủ được, thức bên ngọn đèn xanh, vắt chân chữ ngũ… Tâm trạng buồn, ngồi dậy đun nước, ngâm ngợi thơ văn, ngắm trăng trên sân nhà.
– Hai cô tiên xuất hiện, cùng cười, nói: trời đang mắng vì người đọc thơ mất giấc ngủ của trời, trời sai lên đọc thơ cho trời nghe:
“Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua” .
– Theo lời kể của nhân vật trữ tình, không gian, cảnh tiên như hiện ra:
“Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây! “
+ “Đường mây” rộng mở. “Cửa son đỏ chói” tạo nên cảnh huy hoàng, rực rỡ
+ “Thiên môn đế khuyết” nơi ở của vua, vẻ sang trọng. “Ghế bành như tuyết vân như mây” quý phái, sang trọng hết mức.
3. Cảnh đọc thơ cho trời và các chư tiên nghe:
– Tâm trạng của thi sĩ say sưa đọc thơ: Thi sĩ đọc rất nhiệt tình, cao hứng, có phần tự hào tự đắc vì văn thơ của chính mình, đọc thơ say sưa:
“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi. “
– Thái độ của trời và các chư tiên: Trời khen nhiệt tình và đánh giá rất cao thơ văn thi sĩ:
+ “Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay. “
+ “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!”.
4. Câu chuyện về cuộc đời của thi sĩ và của các tác giả sáng tác văn chương đương thời.
– Cảnh đời nghèo khó: “thước đất cũng không có”, tài sản duy nhất: có một bụng văn.Văn chương rẻ như bèo kiếm được đồng lãi thực rất khó, làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu:
“Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”.
5. Lời động viên của trời:
Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thong chớ ngại chi sương tuyết!”
Thực chất đó là lời động viên của chính mình và các văn sĩ cùng thời với mình. Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ ngông: tự tin kiêu hãnh giá trị của bản thân tự nhận là trích tiên để thực hiện sứ mệnh cao cả là khôi phục lại thiên lương của nhân loại. Có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.
* Bình luận:
Tác giả thể hiện một cái “ngông” cá tính khác đời. Trong văn chương là thái độ phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, tâm hồn không chấp nhận sự bằng phẳng đơn điệu nên thường “phá cách” tự đề cao cá tính của mình. Thi sĩ rất cao hứng và có phần tự đắc: đương cơn đắc ý, ran cả cung mây, lại tự khen mình văn đã giàu, thay lại lắm lối. Trời đánh giá cao và không tiếc lời tán dương: Văn thật tuyệt, Văn trần được như thế chắc có ít! Nhời văn chuốt đẹp như sao băng! Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! Êm như gió thoảng, tinh hơn sương! Đầm như mưa sa lạnh như tuyết. .. Chư tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ.
Giọng thơ hào sảng, lai láng tràn trề. Chuyện hư cấu, tưởng tượng được kể chân thực như chuyện có thật giúp người đọc cảm nhận được về tâm hồn thi sĩ Tản Đà. Ý thức rất rõ về tài năng, giới thiệu cụ thể: tên họ, quê hương, bản quán, đất nước, châu lục. Táo bạo, tự tin bộc lộ “cái tôi”. Tất cả thể hiện cái “ngông” một cách thoải mái, phóng túng.
Tản Đà rất ý thức về tài năng của mình. Thi sĩ còn là người rất táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã của mình trước Ngọc Hoàng, thượng đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát không bị kiềm chế, cương toả, phóng khoáng. Giữa chốn hạ giới mà văn chương rẻ rúng, thân phận nhà văn bị khinh bỉ, Tản Đà không tìm được tri âm, đành lên tận cõi tiên cho thoả mộng.
Bài thơ phản ánh cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Tản Đà là một thi sĩ nổi tiếng một thời. Vậy mà suốt đời phải sống trong cảnh nghèo khổ, cùng quẫn. Cuối đời, ông phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà của bị chủ nợ tịch biên, chỉ còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, một đống sách mát và be rượu.
“Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ”
Tản Đà đã vẽ một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình cũng như cuộc đời các nhà văn An Nam khác. Ông khai với Ngọc Hoàng đầy đủ họ tên, quê quán, gia cảnh (nghèo khó)… đến những tác phẩm đã xuất bản. Đặc biệt, nhà thơ kể một cách chi tiết với giọng đầy chua chát về thân phận tủi hổ của người nghệ sĩ tài hoa trong xã hội thực dân phong kiến. Không chỉ riêng Tản Đà, nhiều nhà văn cùng thời với ông và sau ông cũng cùng chung số phận.
→ Bức tranh hiện thực qua chính lời kể của tác giả giúp ta hiểu thêm vì sao Tản Đà chán cõi trần thế, muốn thoát tục lên tiên, vì sao ông phải lặn lội tìm cõi tri âm nơi trời cao. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn. Song bức tranh hiện thực được đặt giữa cảm hứng lãng mạn đã tạo nên một hiệu quả nghệ thuật lớn. Nhà văn dù có bay lên chín tầng trời vẫn không thoát được cảnh đời cơ cực, thân phận tủi hổ đeo bám. Đôi cách lãng mạn khiến cho hồn thơ của thi sĩ thăng hoa. Đôi cánh hiện thực giữ cho ý thơ sâu sắc, thấm thía. Bài thơ vì thế thấm đẫm tinh thần nhân văn.
- Kết bài:
Với thể thất ngôn trường thiên khá tự do phóng khoáng, tình điệu cảm xúc mới, hồn thơ lãng mạn, ngôn ngữ gần lời ăn tiếng nói đời thường, ít có những uớc lệ, cách điệu như thơ trung đại ( ngôn ngữ này đến thơ mới được kế thừa và phát triển), giọng thơ linh hoạt khi hóm hỉnh hài hước, lúc sôi nổi phóng khoáng, khi ngậm ngùi chua chát, cách biểu hiện cảm xúc phóng túng, tự do, không hề bị gò ép, bài thơ đã thể hiện cái tôi cá nhân ngông ngạo, phóng túng, tư ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khát vọng được khẳng định giữa cuộc đời. Tản Đà đã tìn được hướng đi đúng đắn để khẳng định tài năng của mình trong lúc thơ phú nhà Nho đang đi dần đến dấu chấm hết. Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện cái tôi cá nhân, một cái tôi ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.
Tham khảo:
Cảm nhận cái “tôi” độc đáo trong bài thơ “Hầu trời”.
- Mở bài:
Tản Đà được xem là con người của hai thế kỉ. Là gạch nối giữa nền văn học trung đại và văn học hiện đại Việt Nam. Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà đã mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của mình một cách hết sức độc đáo và mới mẻ. “Hầu Trời” là bài thơ được trích trong tập “Còn chơi” (1921). Bài thơ đã thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc thơ.
- Thân bài:
– Cái tôi độc đáo của Tản Đà là sự kết tinh giữa 3 yếu tố: xê dịch, ngông và đa tình. Trong đó ngông là yếu tố chủ đạo tạo nên cái tôi riêng không nhầm lẫn với bất kì nhà thơ nào
– Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.
– Biểu hiện của cái tôi độc đáo của Tản Đà qua sự việc lên thiên đình đọc thơ:
+ Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Đã có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ “quảng cáo” tài năng của bản thân. Tự đắc với tài năng nên càng đọc thì giọng càng tốt, văn càng hay. Sẵn tiện, giới thiệu về bản thân và tiếp tục khoe tài bằng những tác phẩm của mình sáng tác
+ Tài năng ngay đến Trời cũng say mê, chư tiên cũng phải yêu thích. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức tạp. Chỉ Tản Đà mới dám nói lên nỗi lòng của những người viết văn: nghề viết văn đôi khi rất phũ phàng. (văn chương rẻ như bèo. Kiếm được thì ít mà tiêu thì nhiều…). Nhận mình là “trích tiên” bị đày xuống hạ giới để thực hiện thiên lương.
– Kế thừa nét ngông của truyền thống, song trong sự ngông của Tản Đà, người ta không thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối lại với đời như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân.
– Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ không thể “ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.
- Kết bài:
Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hòa nhiều yếu tố khác nhau. Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và mới, xưa và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.