phan-tich-nhan-vat-thi-no-trong-chi-pheo-6372-2

Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo

Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.

  • Mở bài:

Năm 1941, tác phẩm “Chí Phèo” (lúc đầu có tên là “Đôi lứa xứng đôi”) ra đời, đánh dấu một móc son chói lọi trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Tác phẩn phản ánh chân thực bộ mặt tàn bạo, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời và cuộc sống khốn cùng của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Họ khao khát vươn lên tìm lấy nguồn sống nhưng bị cuộc đời vùi dập cho đến mất cả nhân tính và tìm đến cái chết trong cơn tuyệt vọng. Tác phẩm “Chí Phèo” thực sự đã gây nên một “cơn địa chấn” dữ dội trong nền văn học hiện thực Việt Nam thế kỉ 20. Bên cạnh nhân vật Chí Phèo, một kẻ lưu manh khốn cùng, nhân vật Thị Nở cũng được nhà văn quan tâm biểu hiện khá sâu sắc. Có thể nói, nhân vật Thị Nở chính là niềm tin cuối cùng của con người vào cơ hội được thức tỉnh để rồi chìm đắm trong u mê mãi mãi.

  • Thân bài:

1. Nhân vật Thị Nở.

a. Chân dung và lai lịch:

– Nhân vật đáng thương, bị bỏ rơi giữa cuộc đời:

+ Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn chưa có chồng.

+ Chân dung thảm hại. Cái mặt của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng, trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Ðã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công; nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất.

+ Tinh thần của Thị: “ngẩn ngơ như những người đần trong truyện cổ tích”.

+ Hoàn cảnh: Nghèo khó, khổ sở. Nếu Thị Nở giàu sẽ có anh chàng đào mỏ nhưng Thị vẫn không có tấm chồng.

+ Số kiếp: Thị Nở có dòng giống mả hủi (bệnh phong). Beengj này do di truyền. Đó thực sự là điều khủng khiếp nhất.

→ Hình tượng nhân vật thị Nở hiện lên thật thảm hại, số phận bi đát, đáng thương.

b. Vẻ đẹp tâm hồn.

– Không tuân thủ vẻ đẹp đồng nhất: hình thức xấu xí nhưng tâm hồn rất đẹp. Điều này khác với Bá Kiến: rất sang ở hình thức nhưng tâm địa bỉ ổi, quỷ quyệt. Xây dựng nhân vật Bá Kiến, nhà văn chú trọng khắc họa các mặt đối lập bên trong và bên ngoài.

– Biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc người khác:

+ Thị là người rất ân cần: Chăm sóc cho Chí Phèo, dìu Chí Phèo vào lều kiếm mấy manh chiếu rách đắp lên cho Chí Phèo, đặt Chí Phèo lên chõng.

+ Biết quan tâm chăm sóc, ân cần, tình tứ: Dậy sớm, nấu cháo hành ngon.

Chính tấm lòng và hành động của thị đã làm hồi sinh tâm hồn Chí Phèo.

– Biết khát khao hạnh phúc.

+ Sau khi ăn nằm với Chí Phèo, Thị trở về nhà, lăn lộn, không ngủ được. Chí Phèo đã làm thức tỉnh khát vọng hạnh phúc, cơ hội nhen nhóm.

+  Khát vọng hạnh phúc bùng cháy dữ dội trong lòng Thị: Sẵn sàng vượt qua định kiến đến ở với Chí Phèo.

+ Thị mong muốn mái ấm hạnh phúc: Sau khi ở với Chí Phèo, Thị chợt nhớ ra Thị có một bà cô, Thị muốn dừng yêu để hỏi ý kiến của cô Thị.

c.  Ý nghĩa hình tượng nhân vật.

* Nội dung:

+ Thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Góp phần làm nổi bật nhân vật trung tâm Chí Phèo

+ Giúp Chí Phèo hồi sinh bằng sự quan tâm chăm sóc, khiến Chí Phèo thức tỉnh tính người. Thể hiện niềm tin bản chất người tốt đẹp.

+ Phơi bày hiện thực xã hội cướp đi hình người, hồn người. Đẩy Chí Phèo vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người à giá trị hiện thực.

Nếu không có nhân vật Thị Nở thì nó sẽ không trở thành kiệt tác.

* Nghệ thuật:

+ Giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển.

+ Tình huống đặc sắc à bộc lộ trọn vẹn bản chất, tính cách, tâm hồn.

  • Kết bài:

Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo. Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao trao tấm lòng trân trọng vào con người, đồng thời cũng phơi bày thực tế tàn bạo, khắc nghiệt của xã hội đẩy người nông dân vào bi kịch. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.


Tham khảo:

Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.

  • Mở bài:

Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.

  • Thân bài:

Nhân vật Thị Nở xuất hiện khá muộn trong tác phẩm. Tình cờ một đêm trăng, Chí Phèo lần vô nhà Tư Lãng, tên hoạn lợn kiêm nghề thầy cúng, để uống rượu. Hai người uống hết cả ba chai rượu, Chí Phèo lảo đảo ra về. Hắn nhìn thấy Thị Nở đang ngủ say bên bụi chuối, dưới ánh trăng sáng vằng vặc. Cái dáng nằm mất nết cùng da thịt lộ liễu của Thị Nở khiến Chí không thể cầm lòng được. Hắn nhảy vào ôm chầm lấy Thị như con thú vồ lấy con mồi. Mặc cho Thị kêu la. Thị la đã to, hắn la còn to hơn. Cả cái làng Vũ Đại đã quá quen với tiếng la hét và gào thét của hắn rồi, chẳng mấy ai quan tâm. Đêm ấy, Chí Phèo đã ăn nằm với Thị Nở. Chí đến với thị hoàn toàn bằng bản năng. Nhưng Nam Cao đã không dừng lại ở đó khi đã kì công sắp đặt tình huống ấy. Ông tiếp tục đẩy câu chuyện đi vào gây cấn, đầy bất ngờ. Thị Nở bị Chí Phèo cưỡng bức nhưng thị không giận. Có lẽ, đối với người phụ nữ xấu xí đến ma chê quỷ hờn, tính tình tưng tửng ấy thì đây phải chăng là một phần thưởng của tạo hóa? Chỉ có Chí Phèo, một kẻ điên cuồng, lại trong cơn say, trong bóng tối, mới phát hiện cái chất đàn bà của thị chăng?

Thị Nở đến nhẹ nhàng như một cơn gió nhưng gây được những biến đổi to lớn đối với nhân vật Chí Phèo. Có thể nói, thị chính là tác nhân phục thiện trong nhân vật dữ dằn này. Thị xuất hiện tình cờ, để rồi mang linh hồn của Chí Phèo ra đi mãi mãi. Nhà văn cũng chẳng chuẩn bị cho nhân vật Thị Nở xuất hiện. Ông cứ làm như tình cờ. Thị được phát hiện trong cơn say, được tìm thấy trong niềm u uẩn của con người.

Cuộc gặp gỡ của hai con người dưới đáy xã hội bất ngờ, khá đặc biệt. Lúc đầu chỉ là chuyện bản năng của một gã đàn ông say rượu. Nhưng về sau đã khơi lên ở Chí Phèo những cảm xúc rất người, từ đó khao khát hoàn lương. Cứ tưởng Chí sẽ mãi sống kiếp thú vật rồi chết bờ chết bụi ở cái xó nào đấy không ai biết tới. Nhưng không! Bằng tài năng và con tim của mình, Nam Cao đã để cho Chí trở về với kiếp người một cách tự nhiên.

Đâu phải chỉ riêng Chí Phèo bị cuộc đời bỏ rơi. Cả Thị Nở nữa, dường như thế gian cũng đã quên thị là một con người. Ở hai nhân vật ấy, tính người, chất người dường như không được công nhận. Và cuộc đời đã sắp đặt cho họ đến với nhau, tuy tình cờ nhưng thắm thiết, đầy rung cảm.

Sau cái đêm ăn nằm với thị Nở đáng nhớ, Chí Phèo đã bị cảm. Nam Cao đã thật tinh tế khi để cho Chí Phèo bị cảm. Là cái cơ thể hắn bị cảm hay cái tinh thần của hắn đã cảm được tính người? Rõ ràng, buổi sớm hôm ấy, hắn đã nghe được tiếng gió thổi, tiếng người chài gõ vào mạn thuyền. Âm thanh cuộc sống rộn ràng bên tai hắn. Âm thanh ấy vẫn từng ngày vọng đến nhưng trước đây hắn nào nghe thấy.

Sau bát cháo hành của Thị Nở, tình yêu cuộc sống của hắn đã sống dậy. Hắn yêu cuộc đời và yêu con người hơn. Mùi thơm phưng phức của bát cháo hành khiến hắn bâng khuâng nhớ lại một thời trai trẻ. Hắn muốn cùng thị làm thành một cặp rất xứng đôi. Chí Phèo khao khát làm người lương thiện. Hắn muốn làm người lương thiện như trước đây hắn đã có. Hắn muốn làm hòa với mọi người. Có thể hắn muốn xin lỗi mọi người và bước vào cuộc sống của mọi người một cách hiền lành và chân thật. Chí Phèo mong đợi được thu nhận lại xã hội “bằng phẳng, thản thiện của những người lương thiện”. Và thị Nở sẽ mở đường cho hắn, là cầu nối để hắn trở lại với đời.

Thị Nở đã mở cửa cho Chí Phèo bước vào với cuộc đời. Đối với hắn, đây là điều hoàn toàn bất ngờ nhưng hắn rất hào hứng. Chính Thị Nở đã chiếu một tia sáng vào cuộc đời Chí Phèo trước khi hắn rơi vào bóng tối mãi mãi.

Sự thức tỉnh của Chí Phèo trước cuộc đời được Nam Cao miêu tả chi tiết. Sau bao năm không còn ý thức được bản thân, giờ đây Chí thấy lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn. Chí tỉnh táo lắng nghe tiếng âm thanh bình thường của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài khua mái chèo đuổi cá, tiếng người nói chuyện … Những âm thanh này có sức vang động sâu xa trong lòng Chí. Tiếng đời đang dội vang thiết tha trong tâm hồn một con quỷ.

Lần đầu tiên, Chí nhìn lại cuộc đời mình. Những mơ ước từ xa xưa “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ: chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ một con lợn nuôi làm vốn tiếng” vọng tiếng về làm cho thực tại càng đáng buồn hơn. Vì “hắn chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hắn cảm thấy buồn, lo sợ khi nghĩ đến tuổi già, sự cô độc, đói rét, ốm đau. Một trận ốm làm biến đổi cả sinh lý lẫn tâm lý. Lần đầu tiên, Chí thoát khỏi cơn say, đối diện với chính mình và nhận ra tình trạng bi đát của bản thân.

Có thể thấy, Thị Nở đã đánh thức cả phần thể xác và linh hồn của Chí Phèo. Thị Nở đã khơi nguồn sự sống và làm bùng lên khát vọng sống của Chí Phèo. Thị Nở, bằng tình yêu đã phá bỏ cái nhà tù tăm tối đã giam hãm linh hồn Chí Phèo trong bao năm. Tình yêu của Thị Nở đã hàn gắn những vết thương lòng, làm vơi bớt thù hận và vực dậy niềm tin con người, niềm tin cuộc sống trong chí phèo. Bát cháo hành của thị Nở giống như một liều thuốc giải độc cứu lấy Chí Phèo khi hắn đã mê man trong tội ác. Đây không hẳn là sự tình cờ mà là cả một sự cố gắng chấp nhận của Thị Nở. Đối với kẻ đã làm hại đời mình, đáng ra Thị Nở sẽ giận. Thị không giận mà còn ở lại chăm sóc Chí Phèo, lo lắng cho hắn. Thị thấy thương kẻ cô đơn ấy. Thị nghĩ, giờ mà mình bở đi, ai lo cho hắn. Thị thấy tội hắn hơn là ghét hắn.

Thị Nở đã làm được điều phi thường mà người khác không làm được. Đó là dám ở gần và chấp nhận Chí Phèo trong cuộc đời mình. Bát cháo hành của Thị Nở như một liều tiên dược đánh thức bản tính con người trong trái tim một con quỹ dữ và mong muốn chấm dứt đoạn đời thú vật. Bát cháo hành không phải là bát cháo bình thường, mà trong đó hàm chứa cả tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn.

Thị làm điều ấy một cách tự nhiên, không hề miễn cưỡng. Có lẽ Thị là người không tính toán. Trong sâu thẳm tâm hồn người đàn bà ấy là niềm cảm thông sâu sắc đối với con người khốn cùng. Thị cũng khao khát có một gia đình, một mái ấm, một nơi nương tựa. Nhưng cái thế gian bạc bẽo ấy có ai thèm để ý đến thị. Chí Phèo đã ăn nằm với thị chứng tỏ Chí đã không chê. Thì thôi, nồi nào úp vung nấy, thói đời đã thế rồi, chấp nhận cũng là lẽ thường.

Tưởng chừng như Thị Nở đã hoàn toàn tin tưởng vào quyết định của mình. Tưởng rằng đôi lứa xứng đôi, hai tâm hồn sẽ cùng nhau đi về hạnh phúc. Nào ngờ, đến hôm thứ sáu, thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã. Một ý nghĩ ngu ngơ nhưng hoàn toàn có lí. Thì ra, dù đã bất chấp dư luận để “yêu” nhưng Thị Nở vẫn không vượt qua được đạo lí ở đời. Thị không muốn vượt mặt bà cô để liều lĩnh yêu Chí Phèo. Thị Nở cũng không ngờ bà cô lại cản trở, kịch liệt phản đối thị.

Bị bà cô mắng xối xả, bực quá, thị ton ton chạy sang lều trút tất cả giận dữ lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo ngẩn mặt ra không hiểu gì. Rồi hắn chạy theo Thị Nở. Hắn muốn tường tận mọi điều để níu kéo tình yêu. Hắn muốn làm người lương thiện và đây là cơ hội duy nhất. Nhưng lại bị nhân tình giúi cho một cái ngã lăn khoèo xuống đất đau quá. Lòng hắn cũng đau quá. Tình yêu chưa kịp đơm hoa kết trái mà đã bị phủ nhận. Hắn toan đập đầu ăn vạ nhưng hắn chưa thật say nên không thể làm thế.

Trong bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo sau đó, hình ảnh bát cháo hành liên tục lặp lại nhiều lần. Trong cơn đau đớn, Chí nhớ đến mùi bát cháo hành thoảng thoảng, nồng nàn. Chí cũng nhớ đến Thị Nở, nhớ đến năm ngày hạnh phúc bên thị. Hắn cay đắng nhận ra thị thực sự muốn bỏ hắn. Hắn không còn cơ hội để sống tốt hơn. Chắc chắn Thị Nở sẽ rời xa hắn. Quá đau đớn, hắn lại đi uống. Chỉ có rượu mới giúp hắn quên hết sự đời. Nhưng rượu cũng đã làm con quỷ trong hắn sống dậy. hắn muốn chửi mắng. Hắn muốn đi đâm chém. Hắn muốn đi trả thù.

Có thể thấy, Thị Nở đã mang đến cho Chí Phèo tình yêu sự sống và khát vọng làm người lương thiện. Nhưng cũng chính Thị Nở lại giết chết cái mầm lương thiện nhỏ nhoi ấy và làm dữ dằn hơn tính ác ở trong hắn.

Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với xã hội loài người. Cái chết chứng tỏ niềm  khao khát sống lương thiện còn cao hơn cả tính mạng. Cái chết của Chì Phèo chính là bằng chứng đanh thép và chân thực tố cáo xã hội vô nhân đạo, đểu cán đẩy những người lương thiện như y vào con đường tội lỗi. Để rồi cuối cùng phải lấy cái chết như một sự giải thoát.

Có thể nói, nhân vật Thị Nở là một phát hiện lớn nhất của Nam Cao. Từ phía dân làng, Thị Nở đến với Chí Phèo. Từ xã hội loài người với những ràng buộc khắt khe, thị dũng cảm đến với Chí. Nhưng vì định kiến ác ôn mà thị phải từ chối Chí để trở về với dân làng. Kẻ rút cây cầu trở lại làm người của Chí không phải là bà cô thị, chính thị, hay dân làng Vũ Đại. Chính những định kiến đầy tàn nhẫn của xã hội thực dân phong kiến đương thời đã gây nên điều tàn nhẫn ấy. Đó là một xã hội vô cảm, mất nhân tính. Đó là một xã hội tàn bạo đã không cho con người phục thiện, hoàn lương khi họ đã trót lầm lối, tước đi ở họ quyền sống, quyền làm con người.

Thị Nở là niềm tin cuối cùng về lòng tốt và sự đồng cảm của con người trước những cảnh đời bất hạnh. Xã hội dù khô héo tình người nhưng nhân tính trong Chí Phèo, trong Thị Nở vẫn chưa vơi cạn. Chí khóc khi được ăn cháo hành của thị Nở chính là minh chứng sinh động cho bản chất lương thiện trỗi dậy của y. Chí trở lại lương thiện bằng nước mắt.

  • Kết bài:

Tình thương của Thị Nở đã giúp bản tính thiện lương của Chí hiện hình. Chính Thị Nở cũng là phát hiện lớn nhất về Chí Phèo. Thị chính là sợi dây liên kết, là chiếc cầu nối giữa chí với cuộc đời. Thị là xứ giả dẫn Chí về với mọi người. Thị dở hơi, thị đần độn, thị là lỗi làm của tạo hóa nhưng thị có cái mà cả một xã hội lạnh lùng kia không có. Đó chính là tình thương. Đó chính là sự chấp nhận. Đó chính là sự cảm thông thánh thiện mà trong những kẻ bình thường kia không có được. Tình thương của Thị Nở đánh thức lương tâm Chí Phèo. Tình yêu thương của người đàn bà ấy đã chiếu một tia sáng vào cuộc đời Chí Phèo, để Chí Phèo sống đúng nghĩa một kiếp người, dù chỉ có năm ngày ngắn ngủi như một giấc mơ, trước khi Chí mãi mãi rơi vào bóng tối vô tận.

Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao


Tham khảo:

Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo”.

  • Mở bài:

Truyện ngắn “Chí Phèo” được Nam Cao sáng tác vào năm 1936, nguyên có tên là “Cái lò gạch cũ”, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập “Luống cày” (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là “Chí Phèo”. Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo – Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.

  • Thân bài:

Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả” . Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”

“Đã thế thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”. Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị.

Khác với Chí Phèo, nhân vật Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng, ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”. Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo.

Cứ thế, những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra. Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người. Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.

Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên”. Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”. Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”.

Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần. Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị. Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy”. Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện” (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh”.

Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”. Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên.

Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát chào hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình. Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng mình cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.

Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ. Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị Nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”. Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!”. Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”.

Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng… Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.

Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.

Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện. Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng. Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh cùa phường ích kỉ”.

  • Kết bài:

“Chí phèo” xứng đáng là một kiệt tác của Nam Cao và của nền văn học hiện thực phê phán thế kỉ 20. Tác phẩm đã khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc. Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người.

Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang