phan-tich-ve-dep-cua-nhan-vat-vu-nuong-trong-tac-pham-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-cua-nguyen-du

Phân tích vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Phân tích vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ

  • Mở bài:

Nguyễn Dữ sống trong gian đoạn loạn lạc ở thế kỉ XVI, người tỉnh Hải Dương, là học trò xuất sắc của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy học rộng, tài cao nhưng ông tránh vòng danh lợi, chỉ làm quan một năm rồi về sống ẩn dật ở quê nhà. Sáng tác của ông thể hiện cái nhìn rất tích cực đối với văn học dân gian. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” trích từ “Truyền kì mạn lục”, thuộc thể loại truyền kì. Số phận bi kịch của nhân vật Vũ Nương có sức khái quát lớn. Đây không chỉ là câu chuyện về số phận thương tâm của một người phụ nữ mà còn là tấm lòng yêu thương trân trọng của tác giả dành cho những người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp trong xã hội phong kiến bấy giờ.

  • Thân bài:

1. Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết.

Vũ Nương tên là Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Nàng là người con gái “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Điều này cho thấy nàng có vẻ đẹp rất lí tưởng, xứng đáng có cho mình một hạnh phúc viên mãn, một cuộc đời tốt đẹp. Trương Sinh, một người con nhà hào phú, vì mến dung hạnh của nàng mà “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ”.

Biết tính chồng hay ghen, thế nên, trong cuộc sống vợ chồng, nàng hết mực “giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. Không những nghĩa phu thê bền chặt mà đạo làm con nàng cũng hết sức chu toàn. Trái ngược với nàng, Trương Sinh lại là một người chồng bất hảo. Chàng tuy con nhà giàu nhưng lại ít học, tính tình đa nghi, độc đoán, đổi với vợ phòng ngừa quá sức ”. Ỷ vào gia thế, Trương Sinh tỏ ra xem thường vợ mình. Tính cách ấy tiềm ẩn những nguy cơ gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình, dự báo bi kịch về sau mà nhân vật sẽ gây ra cho Vũ Nương.

2. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung, son sắt, một con dâu hiếu nghĩa vẹn toàn, một người mẹ tận tụy vì con:

Nguyễn Dữ đã dành những lời lẽ đẹp đẽ ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và tấm lòng trung trinh của người phụ nữ. Trước hết, ở nhân vật Vũ Nương ta nhận thấy, nàng là một người vợ hết mực thương chồng, sống trọn đạo vợ chồng. Lúc còn ở bên nhau, nàng toan lo mọi bề, tất cả đều chu toàn, cặn kẽ. Chiến tranh xảy ra chia cắt tình cảm gia đình. Ngày Trương Sinh lên đường, nàng rót chén rượu tiễn đưa, nói không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng được bình an trở về: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xỉn ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên.

Tình thương chồng của nàng còn thể hiện qua sự chia sẻ trước những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng cũng như niềm cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con. Thay chồng, nàng làm mọi việc nhà chu toàn, giữ gìn tiết hạnh. Lại còn ngày đêm mong ngóng tin xa, mong ngày đoàn viên sum họp.  Nỗi buồn nhớ của nàng khắc khoải triền miên, dài theo năm tháng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khỉ thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thế nào ngăn được”. Tấm lòng sắc son ấy khẳng định, đối với Vũ Nương, nghĩa vợ chồng bao trùm lên các giá trị của cuộc đời nàng.

Vũ Nương còn là một con dâu hiếu thuận, lễ nghĩa, hết sức chu toàn. Nàng đã thay chồng gánh vác việc nhà, trọn đạo dâu con, tận tình chăm sóc mẹ già. Lúc nào nàng cũng dịu dàng, ân cần “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn Những lúc bà yếu đau nàng lo lắng thuốc thang, cầu khấn thần phật. Đến khi mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo như đối với cha mẹ đẻ mình”. Phẩm hạnh tuyệt vời của nàng đã được chính mẹ chồng ghi nhận bằng những lời nói chân thành và vô cùng tốt đẹp: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giồng dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Nàng là người mẹ đảm đang, tận tụy, một mình chu đáo nuôi con nhỏ. Sợ con buồn khi thiếu vắng cha, nàng đã chỉ bóng mình trên vách để nói với con đó là cha. Nào ai ngờ đó lại là khởi nguồn bi kịch cho nàng.

Vũ Nương là người giàu lòng tự trọng. Khi nàng bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Tuyệt vọng không cùng, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông Hoàng Giang sâu thẳm để rửa sạch tiếng nhuốc nhơ oan ức.

3. Bi kịch cuộc đời nhân vật Vũ Nương.

Vò võ chờ đợi bao năm, niềm vui vỡ oà khi Trương Sinh trở về. Cuộc đoàn viên mừng tủi nghẹn ngào. Thế nhưng, hạnh phúc chưa kịp hiện hình thì tai hoạ đã ập đến. Vốn đa nghi, cộng với tâm trạng không vui khi trở về nhà thì mẹ đã mất, nên khi nghe lời nói của đứa con thơ (một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi), chàng đã ngay lập tức “đinh ninh là vợ hư hỏng”, thất tiết với người khác. Trong chàng “mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Bởi thế, khi về đến nhà, chàng đã: “la um lên cho hả giận mặc cho: “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng” vẫn không cho Vũ Nương cơ hội để minh oan.

Vũ Nương không hiểu chuyện gì, nàng hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình khi nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trăng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một Tô son điểm phân đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như chàng nói”. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Thế nhưng, nàng vẫn bị chồng mình “mắng nhiếc và đánh đuổi Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái của một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia đình (thú vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa.

Thẳm sâu trong tâm khảm của nàng vẫn là ước muốn được đoàn viên, được quay trở về dù chỉ một lần với chồng con, với cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày xưa. Cuộc hội ngộ cùng Phan Lang ở Thủy Cung đem lại cho Vũ Nương cơ hội trở về và giải oan. Vũ Nương ứa nước mắt mà nói rằng “Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm  vì nôi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa nước mắt khóc… nàng cũng nhờ anh “nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở “. Thế nhưng, nàng chỉ trở về trong thoáng chốc để rồi ra đi mãi mãi”.

Hình ảnh người thiếu phụ Nam Xương hiện lên lần cuối cùng trong truyện đẹp như mơ. Lộng lẫy, khác xưa, Vũ Nương trở lại dương thế, rực rỡ, uy nghi nhưng xa vời ẩn lúc hiện với lời từ tạ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Dù chàng có gọi thì nàng vẫn chỉ thấp thoáng ở giữa dòng sông rồi “trong chốc lát, bóng nàng loang loảng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.

Vũ Nương không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi và trần thế không còn chỗ nào cho người như nàng nương tựa. Đàn giải oan chỉ có thể khôi phục danh dự cho nàng chứ không thể làm sống lại tình xưa. Giữa Vũ Nương và Trương Sinh, dòng sông là nơi giải oan, nơi tái ngộ, nhưng không thể vượt qua.

Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ngay trong cái lung linh ki ảo, sắc thái bi đát vẫn nằm sau hình ảnh rực rỡ của truyền kì. Điều đó một lần nữa khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới. Phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích chưa có.

Nhân dân đã có biết bao lời tỏ bày niềm xót xa đối với thân phận nhỏ bé, khổ đau, bất hạnh, không danh phận gì trong xã hội của người phụ nữ:

– Thân em như dải lụa đào
  Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Hay:

– Thân em như giếng giữa đàng
  Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

Đó là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng, nữ tính, nhưng cũng có chút rụt rè, khiêm nhường của người ý thức được vị thế thấp hèn của mình trong xã hội. Họ co nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng không có quyền quyết định các các giá trị của mình. Số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội. Thật đáng thương thay.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài Bánh trôi nước cũng đã có lời cảm thán đầy hẩm hiu:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.

(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)

Cuộc đời chìm nổi truân chuyên phải chăng là kiếp đời mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải gánh lấy. Rắn” hay “nát”, hành phúc hay khổ đau là hoàn tòn do “tay kẻ nặn” chứ họ không có quyền lựa chọn, tự định đoạt hay tự quyết cuộc đời mình. Cuộc đời bất công đến thế nhưng họ vẫn quyết “giữ tấm lòng son”, sống trung trinh, thủy chung, không hề oán trách.

Ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và bệnh vực người phụ nữ nhiều nhà văn, nhà thơ khác cũng đã đồng thời lên tiếng. Với tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã ngợi ca, trân trọng nhan sắc, tài năng, phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều như là những chuẩn mực, hình mẫu lí tưởng cho vẻ đẹp của con người mọi thời đại (Chị em Thúy Kiều). Nơi lầu xanh, tác giả đã khắc họa nỗi nhớ của Thúy Kiều đi liền với tình thương – một biểu hiện rất đáng trân trọng của đức hi sinh, lòng vị tha, chung thủy (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Thiên tài Nguyễn Du cũng không quên gây ấn tượng cho người đọc với hình ảnh Thúy Kiều sống sâu nặng ân tình, sắc sảo, kiên quyết nhưng vẫn đầy khoan dung, độ lượng (Kiền hảo ân báo oán).

“Bếp lửa” của Bằng Việt lại xây dựng đầy cảm động hình ảnh người bà với tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút, thái độ bình tĩnh, vững lòng. Người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu vượt qua mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh.

Người phụ nữ đi qua chiến tranh được khắc họa trong “Những ngôi sao xa xôi” lại càng đẹp hơn trong hình ảnh các cô thanh niên xung phong sống có tinh thần trách nhiệm cao, quyết tâm hoàn thành tốt mọi công việc được giao; anh dũng không sợ gian khổ, hi sinh; luôn trẻ trung, yêu đời; sống chan hòa, yêu thương nhau và luôn tin tưởng, lạc quan về thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Có lẽ vì vậy là không thể bỏ qua Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê trong những tác phẩm ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Những tác phẩm trên đã giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, cũng như thấm thìa hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong từng nhân vật.

  • Kết bài:

Với sự sáng tạo cao về khắc họa nhân vật Vũ Nương, cách kể chuyện lôi cuốn, xây dựng kết thúc truyện li kì, kết hợp cùng việc khai thác vốn văn học dân gian và sử dụng tinh tế những yếu tố kì ảo; “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã bày tỏ sự cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Hơn hết, tác phẩm đã khẳng định nét đẹp tâm hồn của họ, cất lên tiếng nói cho bao mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp, công bằng mà họ hằng hi vọng. Chỉ với nội dung sâu sắc ấy, Chuyện người con gái Nam Xương đã đi vào quỹ đạo nhân văn chung của văn học dân tộc, tạo được sự cộng hưởng với nhiều tác phẩm viết về người phụ nữ cũng như kết nối bền chặt cùng tâm hồn người đọc bao thế hệ.


Bài tham khảo:

  • Mở bài:

“Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết và nhận lấy một kết cục bi thảm.

  • Thân bài:

Trước hết, Vũ Nương là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ thời kì phong kiến: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về làm vợ. Sau đó, nhà văn tập trung làm nổi bật vẻ đẹp đức hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ xung quanh như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.

Đầu tiên là Vũ Nương trong mối quan hệ với người chồng – Trương Sinh. Nàng hiện lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, khi mới lấy nhau, nàng hiểu tính chồng có thói đa nghi, thường đề phòng vợ quá mức nên Vũ Nương đã cư xử khéo léo, đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng khuôn phép, không bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình. Vì thế, chúng ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình và rất đức hạnh. Khi người chồng chuẩn bị đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng những lời nói đầy nghĩa tình, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng mang về hai chữ “bình yên”.

Ở nhà, Vũ Nương nhớ thương chồng da diết. Mỗi lần thấy “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” nàng lại cảm thấy “thổn thức tâm tình”, nhớ thương chồng nơi biên ải xã xôi. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định khi nàng bị chồng nghi oan: “cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”. Khi Trương Sinh đi lính trở về, một mực khăng khăng cho rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu, nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định một lòng nhất mực thủy chung, son sắt với chồng.

Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng “đừng nghi oan cho thiếp”. Có nghĩa là Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia đình mà mình đang có và càng làm nổi bật lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.

Tiếp đến, Vũ Nương trong mối quan hệ với mẹ chồng và bé Đản, nàng hiện lên là một người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lí, yêu thương con cái. Chồng đi lính, ở nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một người mẹ, lại vừa đóng vai trò là một người cha. Nàng sợ con mình thiếu thốn tình cảm của người cha nên đêm đêm thường mượn bóng mình, chỉ vào tường mà bảo là cha Đản. Nàng thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người con hiền, dâu thảo: chăm sóc, thuốc thang, lễ bái, hết lòng khuyên lơn mẹ chồng. Đến khi mẹ chồng mất, nàng tổ chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình vậy. Vì thế, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Điều đó đã cho thấy nhân cách và công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng này.

Như vậy, một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy chung và hết lòng vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tìm được một người chồng tâm lí, cảm thông và sẻ chia những nỗi lo toan cho vợ, nhưng thật éo le và nghịch lí thay nàng lại phải chịu một cuộc sống gia đình bất hạnh và phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt. Đó là khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về, bé Đản không chịu nhận cha, nghe lời nói của con: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, những chẳng bao giờ bế Đản cả”, Trương Sinh nhất nhất cho rằng “vợ hư”.

Mặc dù Vũ Nương đã tìm cách để giải thích lại thêm họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng nhưng mối nghi ngờ vợ của Trương Sinh ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được. Cuối cùng “cái thú vui nghi gia nghi thất” đã không còn ” bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau chờ chồng đến hóa đá cũng không còn có thể được nữa “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, nhân phẩm trong một nỗi đau tuyệt vọng cùng cực, đau đớn.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đó trước hết là do chi tiết cái bóng và những lời nói ngây thơ của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu sa đằng sau đó là từ người chồng đa nghi, thô bạo. Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã giới thiệu Trương Sinh là “con nhà hào phú nhưng không có học”, lại có tính đa nghi, đối với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và tình thương với người tay ấp má kề với mình.

Đó chính là mầm mống của bi kịch để rồi trong hoàn cảnh đi lính ba năm xa nhà, xa vợ, thới ghen tuông, ích kỉ của bản thân chàng nổi lên và giết chết người vợ của mình. Đồng thời, chế độ phong kiến hà khắc, nam quyền độc đoán đã dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông, cho phép người đàn ông có thể đối xử tệ bạc với người phụ nữ của mình. Và người phụ nữ không có quyền được lên tiếng, không có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có “họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho”…Tất cả đã đẩy Vũ Nương – người phụ nữ đương thời vào con đường bi kịch, phá tan đi những hạnh phúc gia đình của người phụ nữ, dồn đẩy họ vào con đường cùng không lối thoát.

Cuối truyện, Vũ Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu rực rỡ đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất. Đây là những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ. Kết thúc truyện như thế, không chỉ giúp hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách của nhân vật mà còn chứng tỏ Vũ Nương vô tội. Ở thế giới bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Vì thế, Nguyễn Dữ đã đáp ứng được ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao hạnh phúc trong một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ đương thời.

Bằng nghệ thuật kể truyện độc đáo, xen lẫn giữa hiện thực và kì ảo, giữa tình tiết đời thường với sự sáng tạo của nhà văn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương – người đại diện cho bi kịch bất hạnh của người phụ nữ. Thông qua số phận cuộc đời đầy nước mắt của nàng, nhà văn đã mạnh dạn lên án, tố cáo một xã hội bạo tàn, phi nhân, tồn tại với rất nhiều những bất công ngang trái, dồn đẩy người phụ nữ vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời qua câu chuyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ.

  • Kết bài:

Qua câu chuyện, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ. Mặc dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của truyện và hình tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.


Bài văn tham khảo:

  • Mở bài:

“Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện xuất sắc nhất trong tập “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Qua tác phẩm, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên hình tượng Vũ Nương, một hình tương phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý, một mãu mực mà xã hội phong kiến cần có.

  • Thân bài:

1. Vũ Nương – một phụ nữ lý tưởng mà xã hội phong kiến cần có:

Trước hết, Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Khi chồng ra lính, Vũ Nương đã một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi ốm đau, lo liệu ma chay khi mẹ chồng mất. Mọi việc trong nhà đều từ một tay nàng lo liệu.

Vũ Nương là một con người hiếu nghĩa. Với mẹ chồng, Vũ Nương giữ tròn chữ hiếu của người con đối với cha mẹ, thay chồng nuôi mẹ chồng, coi mẹ chồng như mẹ đẻ của mình.

Vũ Nương là một người vợ trong trắng, thủy chung. Nàng xuất giá tòng phu, toàn tâm xây dựng hạnh phúc. Với chồng, Vũ Nương trước sau vẫn giữ trọn vẹn nghĩa tình. Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Khi xa chồng, nàng không để xảy ra điều tai tiếng gì. Khi bị nghi oan, không thể giãi bày được, nàng lấy cái chết để chứng thực nghĩa tình của mình. Sau khi tự vẫn, được “cứu sống” (“sống” ở thủy cung), tuy cuộc sống thanh thản, sung sướng, nàng vẫn nhớ đến chồng, mong được chồng biết đến nỗi oan và giải oan cho mình.

2. Bi kịch đầy bi thương của Vũ Nương.

Vũ Nương hoàn toàn vô tội (giữ trọn nghĩa tình vợ chồng) nhưng lại bị nghi oan, dù có giãi bày cũng không gỡ ra được nên nàng phải chết với lời thề: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.

Nàng tin ở tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Nên sau khi chết đã được như lời nguyền : “Các nàng tiên trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá…”, rồi được Linh Phi cho sống sung sướng trong cung…

Tiết nghĩa của Vũ Nương là như vậy, lẽ ra, sau khi được hồi sinh, nàng sẽ trở về sống hạnh phúc với chồng con. Thế nhưng, khi nỗi hàm oan được giải, gặp lại chồng nhưng nàng không thể trở lại sống ở cõi đời được. Câu chuyện càng thương tâm thì tấm lòng nàng càng sáng tỏ.

Truyện có nhiều thành công về nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện giàu kịch tính, tập trung làm nổi bật nỗi oan của Vũ Nương, gây xúc động đối với người đọc. Xuyên suốt câu chuyện, trong mọi tình tiết, chi tiết, có dịp là tác giả giới thiệu, khẳng định, ca ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Để nhân vật (Vũ Nương) nói nhiều lẩn trong tác phẩm, giọng nói khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết khiến người đọc càng xúc động.

Cách xây dựng tình tiết, thắt nút, gỡ nút đẩy bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó. Một câu nói ngây thơ nghe như thật, của một trẻ thơ mà gây nên bão táp dây chuyển trong cuộc đời vợ chồng Trương Sinh, Vũ Nương. Chồng nghi kị vợ, hạnh phúc gia đình tan vỡ và cuối cùng là cái chết bi thảm của người vợ trong tráng. Cách gỡ nút cũng bằng yếu tố bất ngờ bằng hình ảnh cái bóng của Vũ Nương ở trên tương. Bấy nhiêu bão tố, bi kịch, oan khiên bỗng được làm sáng tỏ cũng bằng một câu nói ngây thơ của một trẻ thơ: “Cha Đản lại đến kia kìa !”, hay nói cho đúng hơn là lời nói đùa của người mẹ với con khi váng chồng.

  • Kết bài:

“Chuyên người con gái Nam Xương” là một chuyện tình yêu đầy oan khuất. Người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan, Thật là vô lí và bất công khi toàn bộ bi kịch đó là do một lời nói đùa của người mẹ mà đứa con thơ dại đã ngây thơ nói lại. Người đọc càng thương cảm, phẫn uất khi hiểu ra rằng: Vũ Nương chỉ là một nạn nhân của lễ giáo phong kiến bất công đối với người phụ nữ mà Nguyễn Dữ đã phản ánh một cách khá chân thực trong tác phẩm của mình. Vũ Nương là một hình tượng nhân vật phụ nữ đẹp trong văn chương Việt Nam, thế kỉ XVI. Cái chết bi thảm của Vũ Nương, ngoài giá trị lên án xã hội phong kiến đương thời, còn sáng ngời tiết nghĩa của một người phụ nữ đức hạnh, phù hợp với cách đánh giá của dân gian đối với hình tượng nhân vật này và câu chuyện đầy xúc động này.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang