Phân tích ý nghĩa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
- Mở bài:
Đoạn trích nằm ở phần: Gia biến và lưu lạc. Sau khi biết mình bị Mã Giám Sinh lừa vào chốn lầu xanh, Kiều đau đớn, tủi nhục, định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc men, hẹn khi bình phục sẽ gã cho người tử tế. Tú bà đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất là giam lỏng để thực hiện âm mưu mới đê hèn, tàn bạo hơn. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích khắc họa đậm nét tâm trạng nhớ thương, buồn tủi của nàng trong cảnh hoang vắng, cô độc.
- Thân bài:
Đoạn thơ là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nét trữ tình đằm thắm nổi lên từ bức tranh là tình cảm nhớ thương tha thiết đối với cha mẹ và người yêu của một người con gái tài hoa phải sống đày đọa trong một xã hội bất công. Người đọc không chỉ cảm thương với nỗi buồn của nhân vật, càng lắng sâu vào từng ý từng lời của đoạn thơ lại thấy từ nỗi buồn vụt lên một tiếng kêu thương, một lời tố cáo.
Lời than thở của người trong cảnh càng xót xa, đau đớn thì ý nghĩa tố cáo nhũng thế lực bạo tàn chà đạp lên quyền sống con người, giày xéo lên nhân phẩm càng mạnh mẽ. Cái buồn của những trang Kiểu là cái buồn có sức thôi thúc con người biết yêu thương và căm giận. Nội dung của đoạn thơ là nỗi buồn của Kiều mà cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ lại là tình thương yêu đối với thân phận con người trong xã hội cũ và sự căm giận những sức mạnh bạo tàn vùi dập sự sống. Cảm hứng chủ đạo ấy bắt nguồn từ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều hiện lên qua bốn câu thơ đầu:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trang gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.”
Lầu Ngưng Bích là tên lầu mà Tú bà dành cho Kiều ở. Khoá xuân nghĩa là khoá kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con cái nhà quyền quý thời xưa không được ra khỏi phòng ở). Nguyễn Du sử dụng từ “khoá xuân” với ngụ ý mỉa mai, nói lên cảnh ngộ trớ trêu của Kiều là bị giam lỏng.
Câu thơ “Bốn bề bát ngát xa trông / Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” miêu tả tâm trạng Kiều đang ngổn ngang về quá khứ, ở hiện tại, tương lai. Kiều bẽ bang, buồn tủi, tắm lòng nàng như bị cắt ra đầy đau đớn. Bức tranh thiên nhiên u ám với non xa, trăng gần. “Bốn bề bát ngát, xa trông” chẳng thấy gì ngoài cát vàng, cồn bãi và bụi hồng cuốn mịt mù. Tâm trạng con người vốn đã buồn tẻ, trước cảnh vật đơn điệu, u ám đến thế lại càng thêm não nề. Cảnh gợi sự rợn ngợp của không gian non xa trăng gần gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích cao ngất nghễu, trơ trọi giữ mênh mông trời nước không gian mênh mông hoang vắng. Từ lầu Ngưng Bích, Thuý Kiều chỉ thấy một dãy núi mờ xa những cồn cát bụi bay mờ mịt đến vô tận vô cùng.
Kiều trơ trọi giữa không gian, thời gian mênh mông hoang vắng, không một bóng người, không sự giao lưu, Kiều chỉ biết làm bạn với mây, đèn. Nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Hình ảnh “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. “Sớm” và “khuya”, “ngày” và “đêm”. Sớm khuya, chỉ mình Kiều đối diện với ánh đèn. Nỗi lòng không biết tỏ cùng ai. Mà tin ngoài kia từ lâu đã không còn hay biết gì. Thế nên, buồn càng thêm buồn lo tiếp nỗi lo, tâm trạng bồn chồn, lo lắng và thương nhớ khôn nguôi. Nàng nhớ đến Kim Trọng với lời hẹn ước năm xưa mà lòng đau như cắt:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhìn vầng trăng xa mờ, nàng “tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Dưới nguyệt là dưới trăng, chén đồng là chén rượu thề nguyền. Kiều nhớ lời thề đôi lứa, lời hẹn ước trăm năm. Chén rượu như còn đây mà nay mỗi người mỗi ngả. Nàng xót xa ân hận như kẻ phụ tình. Nàng chỉ dám “tưởng” chứ không phai là mong, là thương, là nhớ. Bởi nàng biết hình bóng Lim Trọng rồi đây cũng sẽ chết trong lòng nàng, nàng mãi mãi sẽ chẳng còn dám nhớ đến nữa.
“Tin sương luống những rày trông mai chờ” nàng tưởng trượng Kim Trọng đang hướng về mình, đêm ngày đau đớn chờ tin mà uổng công voi ích. Nàng nhớ về Kim Trọng với một tâm trạng xót xa. Hình ảnh “Tấm son gọt rửa bao giờ cho phai” có hai cách hiểu. Tấm lòng son là tấm lòng nhớ Kim Trọng không bao giờ quên, hoặc tấm lòng son của kẻ bị vùi dập hoen ố, biết bao giờ gột rữa hết được đau đớn khi mình là kẻ lỗi hẹn. Dù thế nào cũng khiến cho nàng đau đớn như trăm ngàn mũi kim đâm mạnh vào tim.
Sau nỗi nhớ Kim Trọng, nàng nghĩ về cha mẹ đang ngày đêm mòn mỏi chờ tin:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Kiều hình dung cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con mà xót xa. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển tích “Sân Lai”, “Gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà, tất cả đã đổi thay, mà sự đổi thay lớn nhất là: cha mẹ ngày một thêm già yếu, không người phụng dưỡng. Hình ảnh “cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian xa cách, vừa nói lên sức mạnh tàn phá của thời gian với cảnh vật, con người và nổi nhớ cách biệt. Bốn câu thơ khẳng đinh tấm lòng hiếu thuận cao sâu của Thúy Kiều đối với bậc sinh thành.
Kiều nhớ Kim trọng trước, sau mới nghĩ về cha mẹ. Đây là một nét bút đặc sắc, độc đáo của Nguyễn Du phù hợp với quy luật tâm lý. Sau khi Kiều bán mình để có hiếu với cha mẹ, nàng có quyền sống với những tình cảm của riêng mình. Mặt khác, đối với tuổi trẻ, tình yêu trong tim có sức mạnh lớn lao, có thể lấn át cả lí trí. Nỗi nhớ Kim Trọng là nỗi nhớ mãnh liệt trong cả con tim và lí trí của Kiều.
Đoạn thơ thể hiện tấm lòng yêu thương hướng về người khác của Thúy Kiều. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất, nhưng nàng đã quên cảnh ngộ của bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Kiều là người tình chung thuỷ, người con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng.
Nhớ về người thân yêu nơi phương xa là để làm an tinh thần vốn đang bế tắc. Thế nhưng, càng nghĩ càng thấy đau, càng nhớ càng thấy xót. Kiều trở về với thực tại phũ phàng, cô đơn, trống rỗng:
Thuyền ai thấp thoáng canh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Mỗi biểu hiện của cảnh vật bên bờ biển lúc này đều thể hiện một tâm trạng và một cảnh ngộ đáng thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng giữa biển khơi rồi dần dần khuất bóng “càng trông” lại càng thấy buồn, nàng liên tưởng tới cuộc đời nho nhỏ bơ vơ trơ trọi trên đất khách. Bức tranh tâm trạng hòa trong bức tranh thiên nhiên vốn đơn điệu, xa cách quá khiến cho tinh thần hụt hẫng.
Nhìn những cánh hoa tàn nát trôi giữa dòng nước lũ. Nàng tự hỏi rồi nó sẽ trôi về đâu về phương trời nào mà hoàn toàn vô định. “Ngọn nước mới sa”, “hoa trôi mang mác” là nỗi buồn nhớ người yêu, xót xa cho thân phận mình như “hoa trôi” trăm nẻo mà không thể tìm được điểm tựa nào. Cánh hoa ấy hay chính số phận chìm nổi không có nơi nào neo đậu của số phận nàng Kiều. Nhìn về phía trước chỉ thấy mịt mờ, không một hứa hẹn tốt đẹp nào.
Không dám nhìn xa, nàng nhìn gần hơn, gần hơn nữa và thấy “nội cỏ rầu rầu”, “chân mây mặt đất một màu xanh xanh” rợn ngợp. Đó là hình ảnh của cuộc đời vô vị, tẻ nhạt, lênh đênh, vô định. Khắp chân mây mặt đất là một màu xanh u ám, rợn ngợp khiến cho lòng nàng chìm đắm trong bóng tối đáng sợ. Cuộc sống như mất hết ý nghĩa như cái sắc cỏ úa tàn kia mất dần sự sống.
Và khi nhìn thấy “gió cuốn mặt duềnh” và nghe thấy “ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”, trận cuồng phong của biển cả bắt đầu nổi lên, gió to sóng lớn hay chính lòng đố kị ghen ghét của thiên nhiên đang bủa vây lấy nàng? Phải chăng đây là điều mà Nguyễn Du đã dự báo những tai họa khủng khiếp giáng xuống đầu nàng. Càng lo âu Kiều càng hãi hùng và ghê sợ. Cứ thế, từ nhìn đến nghe, “buồn trông” đến bốn lần trong một điệp ngữ.
Điệp ngữ “buồn trông” tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng, thể hiện diễn biến của những cung bậc tinh tế trong tâm trạng Thuý Kiều.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn, nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm”... góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều.
Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội.
Thân phận hẩm hiu, tâm trạng bế tắc tuyệt vọng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích gợi nhớ đến hình ảnh của Vũ Nương trước dòng sông lạnh trong Chuyện người con gái Nam Xương. Khác với Thúy Kiều, Vũ Nương một lòng trung trinh nhưng bị Trương Sinh nghi oan, cho là đã thất tiết với người khác, đánh mất phẩm hạnh của người phụ nữ trong thời gian chàng đi lính. Du đã hết lời phân giải nhưng chồng vẫn không tin, quá phẫn uất, nàng tìm đến cái chết để chứng minh mình trong sạch. Những lời tận tuyệt cuối cùng của nàng trước dòng sống thật khiến cho người ta không thể cầm được nước mắt: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”
Cái chết oan ức của Vũ Nương hay tâm trạng bế tắc, tuyệt vọng của thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích đều là những minh chứng rõ ràng cho số phận đau thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dù họ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp đáng quý nhưng lại không có cuộc sống hạnh phúc. Họ luôn bị tước đoạt mọi thứ, bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát.
Đối với những người phụ nữ bình dân, thân phận của họ cũng không hạnh phúc. Bao người con gái đã chịu cảnh sống mà như chết trên cõi đời. Trẻ trung, có chồng nhưng sống như những goá phụ, thực chất họ chỉ là những đầy tớ không công, không hơn không kém. Hồ Xuân Hương trong bài thơ “Bánh trôi nước” đã chua xót thốt lên:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Lời thơ như vừa tự hào, vừa giễu cợt sâu cay. Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước, Hồ Xuân Hương ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. “Vừa trắng lại vừa tròn” là vẻ đẹp trọn vẹn, đáng trân quý. Thế mà, xã hội phong kiến tàn bạo đặt họ ở vị trí tầm thường, rẻ rúng. Bất lực, họ đành cam chịu số phận đã sắp đặt sẵn và cố giữ lấy cho mình một phẩm chất tốt đẹp đó là tấm lòng kiên định trong sáng:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
- Kết bài:
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” một trong những đoạn trích miêu tả đặc sắc về nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình”. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều. Nỗi cô đơn, buồn tủi, chán chường và tuyệt vọng của Thúy Kiều trước nghịch cảnh cuộc đời thể hiện tấm lòng đồng cảm và xót xa của tác giả đối với người con gái vừa bước vào cánh cửa cuộc đời đã vướng phải đâu thương quá lớn. Đặc biệt là ở 8 câu thơ cuối đoạn trích, nội tâm của Thúy Kiều được khắc họa theo tâng bậc hết sức tinh tế, thể hiện nỗi bi thương, đau đớn và tuyệt vọng của nàng trước nghịch cảnh đường đời, khiến ta không nguôi xót xa.
Bài tham khảo:
- Mở bài:
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ nhất bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của thi hào Nguyễn Du. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công tâm trạng bi kịch của Thuý Kiều trong những bước gian truân đầu tiên của kiếp đời lưu lạc. Những vần thơ mênh mang cứ day dứt, ám ảnh khôn nguôi, gieo vào lòng ta niềm xót xa về kiếp “hồng nhan bạc phận”.
- Thân bài:
Trong đoạn thơ mở đầu, tác giả không đi ngay vào việc miêu tả tâm trạng Thuý Kiều mà gợi ra khung cảnh thiên nhiên. Bốn câu thơ đầu hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người mà chỉ thuần túy thiên nhiên hay chính xác hơn là thiên nhiên hiện ra dưới mắt con người và con người ẩn mình sau dòng chữ, để cho thiên nhiên tự bộc lộ tiếng nói riêng của nó. Nhân vật trữ tình ấy chính là Thuý Kiều – người đang bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích. Chỉ có tâm hồn nàng được tự do, thoả sức hướng ra thiên nhiên như tìm một nơi chốn neo đậu, để xoa dịu đi nỗi đau đớn nhức nhối trong lòng, để tìm cảm giác giải thoát cho tâm linh tù túng, bế tắc.
Trong tâm trạng, tâm thế ấy, Thuý Kiều hướng tầm mắt về thiên nhiên và sững sờ khi bắt gặp một bức tranh đẹp mê hồn:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Khung cảnh như thực mà như mơ. Mơ là bởi “vẻ non xa” kia như một miền xa thẳm mịt mờ sương khói. Thực là bởi “tấm trăng gần”, như có thể đưa tay ra là với được. Vầng trăng ấy đã thân thuộc biết bao với Kiều. Cách đó không lâu người đã đến với trăng như tìm một chứng nhân cho tình yêu vĩnh cửu:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Giờ đây, ở nơi “Chân trời góc beer” thật bất ngờ, trăng đã tự tìm đến với người lẻ loi làm bầu bạn. Vầng trăng vô tri mà rất đỗi thuỷ chung ! Trong cảnh ngộ Kiều bị dồn vào thế chân tường, trăng đã đến bên nàng. Sự xuất hiện của trăng tựa như một chỗ dựa tâm linh nâng đỡ Kiều. Từ điểm tựa ấy, Thuý Kiều hướng tầm mắt ra thiên nhiên, để cảm nhận rõ hơn thân phận, tình cảnh lẻ loi của mình:
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Nhịp thơ đều đều, trầm bổng mà không hề đơn điệu, tạo cảm giác da diết, buồn thương. Nỗi niềm ấy chất chứa trong trái tim Kiều, được Nguyễn Du gói gọn trong từ “bẽ bàng”: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya / Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
“Bẽ bàng” là tâm trạng của con người cảm thấy hổ thẹn vì lâm vào cảnh éo le. Cảnh ngộ của Kiều chính là đang trong những cung bậc cảm xúc ấy. Hổ thẹn vì phụ lời thề ước với chàng Kim, vì đang ở chốn lầu xanh nhớp nhơ, vì số phận ngang trái trớ trêu,… Trong tình cảnh ấy, thiên nhiên như cũng thấu nỗi niềm của thân phận lỡ làng, nhẹ nhàng đến bên nàng như một điểm tựa tinh thần, hoà cùng khúc nhạc sầu thương: “như chia tấm lòng”.
Tình và cảnh tưởng chừng như tách biệt trong hai vế của câu thơ bởi từ “chia” nhưng thực ra là sự đồng điệu, thấu nhập tuyệt đối: cảnh chứa tình và tình phổ buồn vào cảnh. Vì thế mà nhìn cảnh, bao cung bậc sầu thương của Kiều mới được bộc lộ:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Tại sao tâm trí Kiều lại hướng về Kim Trọng đầu tiên mà không phải là cha mẹ ? Nếu có ai vì điều này mà trách Kiều là bất hiếu thì thật là chưa hiểu nàng. Kiều hướng đến chàng Kim trước nhất vì vầng trăng trực diện đang gợi lòng người nhớ về cảnh cũ của đêm thề nguyền. Chính cảnh ấy đã gợi lòng người thiếu nữ nhớ về tình yêu. Hơn nữa, Kiều đã bán mình chuộc cha nên đối với song thân, cảm giác tội lỗi đã vơi đi ít nhiều. Còn đối với Kim Trọng, Kiều là người bội ước, là kẻ phá vỡ lời thề sắt son hôm nào. Điều đó khiến trái tim thiếu nữ lần đầu sống trong tình yêu luôn khắc khoải hình bóng tình nhân: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nỗi niềm nhớ thương da diết hoà cùng bức tranh cảnh càng khiến cho lòng người đau đớn khôn khuây. Càng đau vì nhớ người, vì sự khắc khoải ngóng trông của người yêu, Kiều càng cảm thương cho thân phận hẩm hiu của mình:
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Có sự đối lập về ý giữa “Tin sương luống những rày trông mai chờ” và “Bên trời góc bể bơ vơ”, sự ngóng trông trong mòn mỏi, vô vọng một người nơi xa xăm, mịt mù vô định. Kiểu tự ý thức được cảnh ngộ của mình, nên nỗi đau càng như xé gan ruột. Nhưng chính trong niềm đau ấy, ta nhận ra ở người con gái bé nhỏ mà kiên trinh ấy những phẩm chất cao quý:
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Một câu hỏi đồng thời cũng là lời khẳng định đinh ninh về tấm lòng sắt son đối với người yêu của Kiều. Ta còn nhận ra trong lời tự thán ấy dư vị chua xót – sự chua xót của bi kịch khi phải sống trong kiếp bơ vơ, nơi “bên trời góc bể’’ mà nỗi lòng nhớ nhung cứ vẫn vít khôn khuây.
Nỗi đau nối tiếp nỗi đau. Nhớ về Kim Trọng trong sự xót xa, bẽ bàng, Kiều hướng tới cha mẹ trong nỗi nhớ, niềm thương:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Bán mình chuộc cha, lâm vào tình cảnh “bẽ bàng”, Kiều vẫn một lòng lo cho song thân. Nỗi lo song hành với cảm giác xót xa của một người con hiếu thảo không thể chăm sóc cha mẹ lúc già yếu. Cảm thương và trân trọng biết bao trước một nàng Kiều với những tình cảm cao đẹp. Trong cảnh ngộ như vậy, đáng ra Kiều phải lo cho bản thân mình trước, xót xa cho số kiếp mình đầu tiên, nhưng nàng lại hướng tới người yêu và cha mẹ trong sự khắc khoải, day dứt. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của người con gái “sắc tài” ấy.
Sau nỗi nhớ là niềm đau, nỗi buồn tê tái khi chợt thức nhận về hoàn cảnh hiện tại của mình. Những tháng ngày bão tố, sóng gió vừa qua, chặng đường phía trước mịt mờ, đầy chông gai ! Bao bất hạnh, bao xót xa bủa vây, xiết chặt hồn Kiều:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
(…)
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ chất chứa nỗi buồn đau tê tái, sự hoang mang lo sợ. Điệp từ “buồn trông” lặp lại bốn lần ở những câu thơ lục vừa diễn tả trọn vẹn tâm thế của Kiều trong tình cảnh ấy vừa góp phần tạo nên âm hưởng, nhịp điệu da diết cho toàn đoạn thơ. Trong cảnh ngộ đơn độc, bơ vơ nơi chân trời, góc bể, Thuý Kiều đã tìm đến với thiên nhiên như một người bạn tri âm, một điểm tựa tinh thần. Thiên nhiên đến với nàng để sẻ chia, để sát cánh. Vì vậy mà dưới con mắt của Kiều, mỗi hình ảnh thiên nhiên lại gợi ra biết bao chua xót về thân phận bơ vơ, về số kiếp bất hạnh:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Cánh buồm thấp thoáng, như thực như ảo giữa “cửa bể chiều hôm” gợi ra hành trình lưu lạc, nổi chìm của Kiều. Khung cảnh chiều hôm gợi nhớ, gợi sầu cho kẻ li hương. Cánh buồm “thấp thoáng” vô định cộng hưởng kì lạ với tâm trạng của nàng trước lầu Ngưng Bích. Thân phận nàng giờ đây đâu khác gì cánh hoa, lắt lay trước sóng gió cuộc đời:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Câu hỏi này cũng là lời tự vấn, tự thương cho thân phận mình của Kiều. Giữa đời nước vô định, cánh hoa mong manh biết bao trước sóng dập gió vùi, như thân phận người con gái chuẩn bị bước vào cuộc hành trình đằng đẵng của số kiếp đoạn trường, oan khổ lưu li. Người con gái “Sắc dành đòi một tài đành hoạ hai” ấy phải chịu kiếp “cỏ nội hoa hèn” bạc bẽo, sầu đau:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Nội cỏ mang tâm trạng “rầu rầu“, héo úa, cô đơn, lạc lõng giữa “chân mây“, “mặt đất” hay là thân phận của Kiều giữa mênh mông cuộc đời:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Cả thiên nhiên vắng lặng hoà theo tâm hồn lạnh lẽo, cô đơn, hoang mang lo sợ của Kiều. Thanh âm duy nhất vang vọng lại là tiếng sóng “ầm ầm”, như nói lên nỗi lo âu, khiếp sợ của Kiều.
Tám dòng thơ chất chứa tâm trạng. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du đã đạt đến độ tuyệt bút. Mỗi hình ảnh, mỗi yếu tố ngoại cảnh đều như một ẩn dụ cho tâm trạng khổ đau và cảnh ngộ ngang trái của Kiều. Nàng đang ngập chìm trong bể khổ trầm luân. Hệ thống từ láy được tác giả sử dụng đắc địa đã tạo nên cho đoạn thơ âm hưởng hắt hiu, trầm buồn, diễn tả tinh tế tâm trạng của Kiều.
- Kết bài:
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất của Truyện Kiều. Từ bức tranh cảnh, Nguyễn Du đã thổi hồn vào đó, xây dựng nên chân dung tâm hồn của Kiều trong cơn bĩ cực, từ đó mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, xúc động trước một cô Kiều tài hoa mà bạc phận có tâm hồn cao quý. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng xúc động thốt lên:
Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.
(Chế Lan Viên – Đọc “Kiều”)
Tình cảm của nhà thơ cũng là tiếng lòng chung của triệu triệu trái tim những người đã, đang và sẽ thổn thức cùng Kiều.
Bài văn tham khảo:
- Mở bài:
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ miêu tả tâm lý xuất sắc nhất của “Truyện Kiều“. Mã Giám Sinh lừa cưới Kiều về làm vợ thiếp nhưng thực chất mua nàng về làm kĩ nữ ở thanh lâu . Biết sự thật đau đớn ấy, Kiều đã rút dao tự tử. Tú Bà sợ “vốn liếng đi đời nhà ma” nên đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích đe thực hiện âm mưu mới.
- Thân bài:
1. Quang cảnh lầu Ngưng Bích:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Phong cảnh trước lầu Ngưng Bích tuy rất hữu tình, thơ mộng nhưng hoang tàn, vắng lặng: Cảnh được mở ra ba chiều, vừa có chiều xa, chiều cao, chiều rộng: “non xa”, “trăng gần ”, “cát vàng cồn nọ “, “bụi hồng dặm kia”. Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản “non xa”/”trăng gần”, đảo ngữ, từ láy “bát ngát”, gợi không gian rợn ngợp, vắng lặng không một bóng người. Đối diện với cảnh ấy, Kiều cảm thấy trống trải cô đơn.
Cảnh vật tiu đìu, rợn ngợp, nhuốm màu tâm trạng: Khung cảnh mênh mông “bát ngát xa trông” nhưng lại thiếu vắng hơi ấm của con người. Chỉ có một mình Kiều cô độc, ngày đêm đối diện với chính mình. Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ bé, đơn côi
2. Tâm trạng của nàng Kiều:
Đau buồn vì cảnh ngộ bị đây vào chốn lẩu xanh, đau buồn vì bị giam giữa cô độc trước lầu Ngưng Bích hoang vắng:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nủa cảnh, như chia tấm lòng
“Bẽ bàng”: Sự xấu hổ tủi thẹn với đèn khuya, mây sớm, với lòng mình và những người thân yêu, nỗi buồn đau không người chia sẻ.
“Chia tấm lòng”: Sự ngổn ngang của tâm trạng không biết đi đâu về đâu.
Nỗi nhớ Kim Trọng da diết trong lòng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bờ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Nhớ về đêm trăng thề hẹn: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nàng còn hình dung cảnh Kim Trọng đợi chờ tin nàng ờ quê nhà mà thấp thỏm không yên.
Câu thơ là một câu hỏi tu từ thể hiện sự dằn vặt đau khổ của nàng khi phải chia li với Kim Trọng. Dù có li biệt nhưng tình cảm của nàng đối với Kim Trọng vẫn thủy chung son sắt. “Tấm lòng son” ấy bất biến trước không gian và thời gian. Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.
Nỗi nhớ cha mẹ đau đáu khôn ngui:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Xót thương cảnh ngộ cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng trông. Lo lắng cho cha mẹ tuổi già sức yếu, mình lại ở xa không làm tròn bổn phận của người con. Tâm hồn cao đẹp của nàng luôn luôn lo nghĩ cho người khác trong lúc bản thân mình đang tan nát và đớn đau.
Ở đây, Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu. Trong cảnh ngộ khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến cha mẹ.Qua đó chứng tỏ Kiều là con người thủy chung hiếu nghĩa, đáng trân trọng.
Tâm trạng của Kiều khi nghĩ về thực tại phũ phàng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu. Nội cỏ rầu rầu trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ. Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi”gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước,chỉ ngay sau lúc này, dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.
Đây là tâm cảnh chứ không phải là ngoại cảnh. Mỗi cảnh vật hiện lên có một nét riêng nhưng đều là diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của nàng Kiều, cảnh nhuộm màu tê tái: cảnh buồm nhỏ phía trời xa xăm vô định, cánh hoa lìa cành tan tác không biết đi đâu về đâu, những ngọn cỏ phai tàn héo úa và “mặt duềnh” cuộn sóng hãi hùng.
Mỗi câu thơ đều mở đầu bàng điệp từ “Buồn trông”: nỗi buồn bủa vây từ phía bao trùm lên cả không gian. Các cặp từ láy: xa xa, thấp thoáng, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm … xô đẩy nhau như những con sóng tâm tư cuộn trào lên trong lòng người. Hình ảnh tăng tiến càng lúc càng dữ dội. Đặc biệt là 8 câu cuối tiếng sóng ở đây không vỗ, không đập mà kêu, không đến từ một phía mà từ nhiều phía, không một kẻ hở nào. “Kêu quanh ghế ngồi” gợi lên sự hãi hùng, sự dự báo về cuộc đời đầy sóng gió đang chờ đợi nàng Kiều ở phía trước.
Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều.
- Kết bài:
Với đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã đạt đến trình độ biện chứng tâm hồn. Nhà thơ thấu hiểu con người đến tận thẳm sâu tiềm thức, làm lộ rõ sự vận động bên trong tâm hồn đớn đau, khổ nhục của Thúy Kiều rong những ngày đầu lưu lạc phải chịu nhiều khổ nhục, đắng cay. Lời thơ xiết mạnh vào từng giác quan người đọc, khiến người đọc càng thêm cảm thương cho số kiếp bèo dạt mây trôi của thiếu nữ tài sắc vẹn toàn mà bất hạnh, từ đó làm toát lên tấm lòng cảm thương vô hạn của tác giả đối với kiếp người nhỏ bé trong xã hội phong kiến vốn tồn tại nhiều bất công.