»» Nội dung bài viết:
Có ý kiến cho rằng:Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Hãy so sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) để thấy được những phẩm chất mới mẻ ở Tnú
- Mở bài:
Tô Hoài và Nguyễn Trung Thành đều là những cây bút văn xuôi tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam sau năm 1945. Nếu Tô Hoài rất sở trường với hiện thực cuộc sống của người dân miền núi Tây Bắc thì Nguyễn Trung Thành lại gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Nguyên trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Nếu nói đến Tô Hoài, không thể quên truyện ngắn Vợ chồng A Phủ một truyện ngắn xuất sắc viết về cuộc sống của những người dân Tây Bắc dưới chế độ phong kiến, thực dân, thì nhắc đến Nguyễn Trung Thành là phải nói đến Rừng xà nu – một “Đất nước đứng lên” của thời đánh Mĩ. Tuy cả hai tác giả đều nói về người dân trong cuộc kháng chiến nhưng mỗi nhà văn lại xây dựng nhân vật với những đặc điểm riêng. Tnú trong “Rừng xà nu” và A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” là hai nhân vật tiêu biểu. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng:Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại
- Thân bài:
1. Giải thích:
– Tìm đường, nhận đường là vấn đề nhận thức về lý tưởng – mục đích cao nhất của cuộc sống.
– Nhân vật A Phủ của Tô Hoài được coi là nhân vật đang trên đường đi tìm lý tưởng và nhận thức lý tưởng. Nhân vật Tnú đã có lý tưởng ngày khi anh còn nhỏ.
→ Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Có nghĩa Tnú là hệ nối tiếp, đi sau sẽ có những bước phát triển và phẩm chất mới mẻ hơn so với nhân vật đàn anh A Phủ.
2. Giữa A Phủ và Tnú có nhiều điển tương đồng ở hoàn cảnh, cuộc đời và số phận.
– A Phủ và Tnú tuy được xây dựng trong hai tác phẩm của hai tác giả ở hai thời kì khác nhau, ở hai miền đất khác nhau, nhưng đều là những con người miền núi. Một người thuộc dân tộc Mèo ở vùng Tây Bắc nên thơ (A Phủ), một người thuộc dân tộc Strá ở vùng Tây Nguyên hùng vĩ (Tnú). Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ thuở ấu thơ, mang dáng dấp những đứa con côi trong cổ tích. A Phủ và Tnú đều sớm dạn dày, gan góc bởi hoàn cảnh sống đầy thử thách.
– Có nét gì chung rất dễ nhận ra ở hai con người cách nhau hàng ngàn cây số: đó là sự mạnh mẽ về thể chất và tinh thần. A Phủ được ví như con trâu tốt trong làng. A Phủ đã dám đánh cả con quan, để rồi kiên gan chịu đựng những trận đòn báo thù khủng khiếp. Tnú thì thuở ấu thơ đã dám ra rừng đem gạo nuôi cán bộ, bị bắt, bị chém ngang dọc trên bụng trên lưng vẫn không hé răng khai báo nơi ở của cán bộ, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu vẫn cắn mồi đến bật máu để chịu đựng. Tnú được ví như cây xà nu cường tráng bất chấp đạn bom. Hai người chịu hai kiểu hành hạ, hài kiểu cực hình khác nhau, nhưng ta đều thấy ở họ sự chịu đựng phi thường.
– Cả A Phủ và Tnú là những người mang phẩm chất dũng mãnh, căm thù cái ác, sự bất công và đi theo cách mạng. Tnú bắt gặp lí tưởng cách mạng được truyền từ anh Quyết, cán bộ của Đảng hoạt động bí mật, Tnú giống như cây xà nu tiếp ánh sáng mặt trời để không ngừng vươn toả lên bầu trời tự do. A Phủ cũng lao khỏi bóng tối ở Hồng Ngài, chạy hàng tháng trời trong rừng để đến Phiềng Sa – khu du kích, rồi sau đó gặp cán bộ, được giác ngộ, trở thành đội trưởng đội du kích. Phẩm chất cách mạng ở những người dân miền núi trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã được hai nhà văn thể hiện rất sinh động.
– Hai nhân vật ở hai vùng đất khác nhau, thuộc hai tộc người khác nhau, nhưng ta vẫn thấy ở họ có nét nào đó tương đồng trong tính cách. Ngoài sự cứng cỏi, gan góc, A Phủ và Tnú đều rất lặng lẽ, ít nói. Họ thuộc loại nhân vật hành động. Ấn tượng sâu nhất mà người đọc có được về hai nhân vật này là những hành động của họ. Với A Phủ, đó là hành động đánh con quan, hành động đi săn thú rừng, vác cả con bò bị hổ ăn mất một phần, làm bất cứ việc nặng nhọc nào trong nhà thống lí… Nó cho thấy sức mạnh thể chất của một con người. Sau khi được Mị cắt dây cởi trói, chạy đến vùng Phiềng Sa, được người cán bộ A Châu giác ngộ, anh đã là du kích hoạt động rất tích cực. với Tnú, đó là hành động mang gạo ra rừng nuôi cán bộ, đi một mình lên núi cao ba ngày để mang đá trắng về làm phấn học chữ, lấy đá tự đập vào đầu khiến máu chảy ròng ròng khi học chữ không vào, cùng dân làng thức mài vũ khí hằng đêm để chuẩn bị chiến đấu, bóp chết tên đồn trưởng của giặc bằng hai bàn tay thương tích…
3. Bên cạnh nhiều điểm tương đồng, A Phủ và Tnú còn có những nét riêng, độc đáo, thể hiện khả năng cá biệt hoá của hai nhà văn. Điều này thể hiện đầy đủ qua số phận riêng của từng nhân vật.
– Nhân vật A Phủ:
+ A Phủ hiện ra qua những trang truyện của Tô Hoài là một chàng trai mang trong mình những phẩm chất đáng quý. A Phủ lao động giỏi, có thể đúc lưỡi cày hoặc làm bất cứ việc gì. Thế nhưng, dù giỏi giang như vậy, rốt cuộc A Phủ cũng chỉ an phận làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Mặc cho bao nhiêu con gái trong bản ước ao có được A Phủ, chàng trai nghèo này không bao giờ dám mong có được một tổ ấm hạnh phúc gia đình.
+ Một nét nổi bật của A Phủ là sự mạnh mẽ và phóng túng. Không bị trói buộc bởi mặc cảm nghèo hèn, A Phủ vẫn hoà mình vào những cuộc hẹn trong đêm tình mùa xuân như bao nhiêu trai gái trong bản. Cũng bởi tính cách mạnh mẽ, không chấp nhận sự ngang ngược vô lí của kẻ quyền thế, A Phủ dám đánh cả con quan. Có thể đây chỉ là hành động bột phát, tức thời, nhưng nó cũng cho thấy cái sức mạnh thể chất và tinh thần của một con người.
+ Cũng vì hành động liều lĩnh ấy mà A Phủ phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. Trước hết là những trận đòn báo thù độc ác. Bọn người nhà thống lí trói A Phủ, đưa về, đánh chửi tàn nhẫn mấy ngày liền, khiến cho mặt mày sưng lên như mặt hổ phù. Không dừng lại ở đó, chúng còn muốn tước đoạt quyền sống của một người tự do bằng cách bắt A Phủ phải nộp một trăm đồng bạc trắng để ăn vạ. Số tiền đó là một đời A Phủ nằm mơ cũng không thấy.
+ Buộc A Phủ vay tiền để nộp vạ, thực chất, thống lí Pá Tra đã sử dụng một thủ đoạn quen thuộc: dùng những đồng tiền nợ để trói buộc số phận con người. Hãy nghe lời tuyên án: “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Với A Phủ, đó là bản án chung thân.
+ Đi ở trừ nợ có nghĩa là phải chấp nhận thân phận của kẻ nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Với sự hỗ trợ của thần quyền, chúng tước đoạt hoàn toàn ý thức về sự tự do tối thiểu của con người. Đã làm kiếp con ở trừ nợ, A Phủ không hề có ý định bỏ trốn, dù đó là việc nằm trong tầm tay. Dường như có sợi dây trói vô hình siết chặt, khiến A Phủ chấp nhận số phận mình như một lẽ đương nhiên.
+ Nỗi đau khổ ghê gớm nhất của A Phủ thể hiện qua việc chịu đựng hình phạt của thống lí Pá Tra. Mải đi săn nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra áp dụng hình phạt mà hắn quen dùng: trói đứng vào cột cho đến chết. Theo lệnh thống lí, A Phủ lặng lẽ đi lấy cọc, tự tay chôn cọc, lấy dây rồi ngoan ngoãn đứng vào bên cọc để thống lí thực hiện hành động trừng phạt. Không một sự phản kháng, không có sự vùng vằng chống đối. Con người mạnh mẽ, từng dùng cả con quay bằng gỗ ngát đánh vào mặt con quan giờ đây chỉ là một kẻ nô lệ mà sự sống chết hoàn toàn bị định đoạt bởi bàn tay của chủ.
+ Hành động trừng phạt A Phủ không chỉ cho thấy sự tàn bạo của những kẻ thống trị, mà quan trọng hơn, nó thể hiện sâu sắc bi kịch của những con người bị áp bức. Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác, mà còn là nỗi thống khổ khôn cùng về tinh thần. Sợi dây trói và thái độ của A Phủ ở đây có tính chất như một biểu tượng. Nó giúp người đọc hiểu rằng: sợi dây trói vật chất thì có thể cắt đứt bằng dao, nhưng sợi dây trói tinh thần thì vô cùng bền chặt. Sợi dây ấy chỉ có thể bị chặt đứt bằng sự giác ngộ về quyền làm người của mỗi cá nhân mà thôi.
+ Tuy nhiên do bị đọa đày triền miên khiến trong anh còn rơi vào tình trạng chấp nhận, cam chịu(chi tiết: tập tễnh đi giết lợn phục dịch những kẻ vừa hành hạ mình; một mình rong ruổi ngoài rừng mà không chạy trốn; nghe lời thống lí tự đi lấy cọc, đóng cọc, lấy dây để hắn trói mình) → thói quen cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng núi cao, khi ánh sáng của Đảng chưa vươn tới. Họ sống như trong đêm tối không biết đường ra, không ai chỉ đường vạch lối. Đến khi cái chết cận kề, họ mới biết dựa vào nhau để giành giật lấy sự sống. Tô Hoài rất biện chứng trong hai mặt đối lập của nhân vật và chỉ ra cho người đọc thấy đó là bước tìm đường, nhận đường của A Phủ để sau này sang Phiềng Sa gặp A Châu (cán bộ Đảng), anh được giác ngộ và sẵn sàng cầm súng trở thành du kích quay về giải phóng quê hương.
– Nhân vật Tnú:
+ Khác với A Phủ, câu chuyện về cuộc đời của Tnú được mở ra từ chính câu chuyện về A Phủ được khép lại. Tnú mồ côi nhưng được sống trong vòng tay yêu thương đùm bọc của dân làng Xô Man. Được gần cán bộ cách mạng là anh Quyết, được dạy chữ để sau này tiếp nối làm cán bộ, lãnh đạo phong trào cách mạng ở quê hương.
+ Tnú có những điều kiện mà các nhân vật anh hùng miền sơn cước trước đó chưa có, hay chỉ có khi đã trải qua vô vàn đau khổ, gian truân. Vì thế, ở Tnú không còn là nhân vật tìm đường nữa, anh đã có những điều kiện thuận lợi và phẩm chất mới mẻ, vượt xa với A Phủ. Tnú có một bi kịch đau đớn nhưng vượt lên hoàn cảnh đau thương, anh lên đường vào lực lượng vũ trang tiếp tục chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.
+ Xây dựng nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành tô đậm hai nét cơ bản trong tính cách của Tnú: sự gan góc, dũng cảm và đời sống tình cảm phong phú. Thuở ấu thơ, sống trong sự đùm bọc của dân làng, Tnú đã tỏ ra gan góc đến liều lĩnh. Không gì có thể khiến Tnú run sợ. Chính điều đó đã phát triển thành phẩm chất dũng cảm vô song của Tnú lúc trưởng thành. Vượt ngục trở về, Tnú thực hiện ngay hai điều anh Quyết dặn lại trước lúc hi sinh: thay anh làm cán bộ và cất giữ vũ khí để có lúc dùng đến. Làm cán bộ của Đảng và mài vũ khí để cất giữ chẳng khác nào thách thức sự truy diệt của kẻ thù.
+ Với lòng dũng cảm, Tnú đã đối mặt với thử thách ghê gớm này. Ấy là khi anh bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay bằng giẻ tấm nhựa xà nu. Là con người bằng xương bằng thịt, Tnú cũng đau đớn đến cháy ruột cháy gan, nhưng anh không thèm kêu. Anh đã giữ vững dũng khí của một người cách mạng, để người dân Xô Man nhìn vào anh mà hiểu rằng, kẻ thù dù tàn bạo đến đâu cũng không thể dập tắt tinh thần quật cường của họ.
+ Con người dũng cảm, cứng cỏi như sắt đá ấy cũng là một người rất giàu tình cảm. Tình cảm phong phú, đẹp đẽ của Tnú được thể hiện trước hết trong quan hệ với Mai. Từ nhỏ, Tnú và Mai đã bên nhau trong lúc vui cũng như lúc buồn, từng cùng nhau mang gạo ra rừng tiếp tế cho cán bộ, từng chụm đầu bên nhau để học những con chữ đầu đời. Vượt ngục trở về, người mà Tnú gặp đầu tiên lại cũng là Mai. Tình yêu trong sáng, thắm thiết giữa đôi trai gái tự do, phóng khoáng của núi rừng Tây Nguyên đã cho kết quả là một gia đình hạnh phúc với đứa con trai đầu lòng.
+ Tình cảm của Tnú đối với Mai và con đã trải qua những thử thách ghê gớm. Đó là lúc Tnú phải chứng kiến cảnh Mai và con bị đánh bằng roi sắt hết sức dã man, để rồi anh phải nhảy xổ ra giữa lũ giặc khi trong tay không một tấc sắt. Đó là đêm về thăm làng, bên bếp lửa xà nu tại nhà cụ Mết, hình ảnh Mai lại hiện lên rõ nét trong tâm trí anh, đến mức, thoạt nhìn thấy Dít, anh ngỡ đó là Mai.
+ Tình cảm riêng tư của Tnú hoà quyện đẹp đẽ với tình yêu quê hương. Đi chiến đấu ở chiến trường xa, anh xin về dù chỉ một đêm thôi để được nhìn thấy những khuôn mặt thân thương, để được sống trong không khí ấm áp, để được nghe lại câu chuyện huyền thoại của làng mình.
+ Tnú – người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm dài ấy có những phẩm chất thật đáng quý. Anh may mắn hơn so với thế hệ đàn anh của mình như anh hùng Núp và A Phủ:
- Không phải sống kiếp tội đòi cam phận, cam chịu.
- Được thừa hưởng phong trào cách mạng từ cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.
- Được giác ngộ lí tưởng cách mạng ngay từ tuổi nhỏ.
– Nhưng “Lớp cha trước, lớp con sau / Đã thành đồng chí chung câu quân hành” tất cả các anh đều là những người con ưu tú của núi rừng Tây Bắc, Tây Nguyên trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, mang trong mình chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp nối.
- Kết bài:
Như vậy, A Phủ và Tnú, bên cạnh những nét tương đồng, mỗi nhân vật còn có những nét cá biệt, thể hiện tài năng sáng tạo của hai nhà văn. Nhờ đó, nền văn xuôi của chúng ta vừa có sự thống nhất, vừa có sự phong phú. Hai tác phẩm xứng đáng là những bản hùng ca ca ngợi vẻ đẹp của nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Việt Nam: chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Ôn tập luyện thi từ A đến Z văn bản “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
- Chất sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
- Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm giải cứu A Phủ
- Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài
- Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng cây xà nu trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
- Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, hãy làm rõ: “dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người”