Tổng hợp các bộ đề thi rèn luyện năng lực cho kỳ thi tốt nghiệp THPT
Đề bài 1:
HOA VÀ ĐẤT
Khi con ra đời
Cha gọi con là nụ hoa
Cha gọi con là ngọn gió
Cha gọi con là mặt trời
Cha gọi con bằng tất cả
Những từ ngữ đẹp nhất trên đời.
Những buổi mai
Cha vẫn đạp xe đi làm
Cha kể chuyện con trong quán cà-phê
Buổi chiều đi làm về
Cha vẫn làm công việc thường ngày trên bàn viết
Và vẫn lén hôn con
Dù biết rằng râu ria sẽ làm giật mình – con khóc
Con là một diệu kỳ
Cha gọi con là nụ hoa
Là mặt trời – là ngọn gió
Khi rảnh rỗi cha vẫn giành phần giặt tã
Đẩy nôi cho con yên giấc trưa hè
Dù vì con, cha có hơi già
Soi gương thấy râu mọc bất ngờ như cỏ
Không sao
Cha vẫn gọi con là ngọn gió
là ánh sáng, là bầu trời
Con là tất cả trên đời
là tất cả.
Khi ấy
phía sau vừng sáng của con là bóng mẹ
rất âm thầm
Mẹ không làm thơ không viết văn
nên chỉ gọi con bằng con của mẹ.
Đôi mắt mẹ thâm quầng thiếu ngủ
bao nhiêu đêm con khó nhọc trong người
mẹ gầy đi, mẹ nhỏ nhoi
đi đứng, vào ra như chiếc bóng
để dành cho cha niềm hạnh phúc
cho cha chạy nhảy trong nhà
cho cha đích thực được làm cha
mẹ tiêu hao quá nhiều sinh lực
cha chỉ thức vài hôm
Mẹ có mấy khi được ngủ
nằm xuống, ngồi lên đêm hóa thành ngày
dòng sữa dành cho con
mẹ nổi gân tay
Đã có bài thơ nào cho mẹ của con đây
Cha không nhớ ra một điều đơn giản nhất
nụ hoa nào có thể ra đời
thiếu sự cưu mang của đất.
(Hoa và đất, Đỗ Trung Quân, dẫn theo http://thivien.net)
Câu 1. Nêu phong cách ngôn ngữ của văn bản.
Câu 2. Nhan đề của tác phẩm là “Hoa và đất”. Hãy giải thích hình tượng hoa và đất trong bài thơ.
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của hai biện pháp tu từ trong khổ (1) của bài thơ?
Câu 4. Trong những thông điệp rút ra từ văn bản, anh/ chị ấn tượng nhất với thông điệp nào?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Viết đoạn văn 200 chữ nêu suy nghĩ về đức hi sinh của người phụ nữ vĩ đại: Mẹ.
Câu 2 (5 điểm)
Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy, nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của mình”. Hãy làm sáng tỏ điều đó bằng cảm nhận của anh chị về những đoạn văn sau:
[..] Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vậu, rừng tre, nứa nỗ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…
[…] Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân… Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bấm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về…
(Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân)
[…] Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng…
[…] Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả…”
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường)
———– HẾT ———-
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1: Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Câu 2:
– “Hoa” là hình tượng ẩn dụ cho người con, Đứa trẻ sinh ra xinh xắn, đáng yêu như đóa hoa tươi tắn, thơm tho.
– “Đất” là hình tượng ẩn dụ cho người mẹ. Mẹ sinh ra ta, vất vả, nhọc nhằn, nhận lấy phần thô ráp, xấu xí để cho con luôn mạnh khỏe, bụ bẫm, Mẹ như nguồn sông, nuôi dưỡng mỗi đứa trẻ cả về thể xác và tâm hồn như đất mẹ cần cù, cung cấp chất mau cho cây trái ngọt, hoa tươi.
Câu 3.
– Biện pháp tu từ:
- Điệp ngữ: lặp lại cụm từ “Cha gọi con là”.
- Điệp cấu trúc lặp lại cấu trúc câu “Cha gọi con là…”
- Liệt kê: các từ ngữ tác giả dùng để gọi đứa trẻ: nụ hoa, ngọn gió, mặt trời, tất cả từ ngữ đẹp đẽ trên đời.
– Tác dụng: Về hình thức: Tạo nhịp điệu cho lời thơ, giúp lời thơ giàu hình ảnh, giàu sức gợi; về nội dung: Với cha, con như là mọi điều đẹp đẽ và quý giá nhất của tự nhiên. Qua đó, diễn tả tình yêu tha thiết, niềm hạnh phúc vô bờ của người cha khi nói về con.
Câu 4.
– Về hình thức: 5 – 7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
– Về nội dung: tình yêu gia đình, cách yêu thương của cha và mẹ, đức hi sinh của mẹ, tình cha con, tình mẹ con (tình mẫu tử), chữ Hiếu,…
– Sau đây là một ví dụ: Mẹ yêu con bằng những cái ôm. Cha yêu con bằng bờ vai vững chắc. Cha nghiêm khắc. Mẹ dịu dàng. Chẳng khó để nhận ra cách yêu thương của cha mẹ dành cho con cái. Mỗi người có cách biểu hiện khác nhau những giống nhau ở tình yêu vẹn tròn, vô bờ và vô điều kiện, Con cái như đóa hoa thơm đầu cành thì cha mẹ sẵn sàng là cội rễ thương yêu và chăm sóc. Bởi vậy, hãy nghĩ về gia đình, về cha mẹ với những ý nghĩ trân trọng và yêu thương nhất.
II. LÀM VĂN
Câu 1 (2 điểm):
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ – Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Ai đã đặt tên cho dòng sông, Người lái đò Sông Đà – Dạng bài: bàn luận một ý kiến, so sánh – Yêu cầu: So sánh phong cách nghệ thuật của hai nhà văn, đồng thời giải thích bình luận về ý kiên: văn chương là cái lĩnh vực của sự độc đáo. | ||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 ở Huế, nhưng quê gốc ở Quảng Trị, là nhà văn có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể loại bút kí, tùy bút. Tác phẩm của ông luôn có sự kết hợp nhuần và nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với trình bày giàu chất thơ và sự vận dụng tổng hợp tri thức triết học, địa lí, khai lịch sử, văn hoá… Lối hành văn trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thường hướng nội, súc tích, mê đắm và rất mực tài hoa. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết năm 1981 bằng tình yêu, sự gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phẩm được in trong tập bút kí cùng tên năm 1986. Ban đầu, tác giả đặt tên là: Hương ơi, e phải mày chăng? Vị trí trích đoạn thuộc phần đầu của thiên tùy bút, gồm những trích đoạn hay nhất khi nhà văn miêu tả con sông Hương ở thượng nguồn và ở ngoại vi thành phố. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại, ông có nhiều những thành tựu nghệ thuật xuất sắc. Đặc biệt, ông tạo lập được cho mình được một phong cách nghệ thuật độc đáo: văn chương tài hoa, uyên bác. Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mỹ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Người lái đò Sông Đà – tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà 1960. Là thành quả của một chuyến đi gian khổ nhưng rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 – 1960. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất Tây Bắc, tìm ra thử “vàng mười” đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người miền Tây Bắc.Vị trí trích đoạn nằm ở hai phần của tác phẩm, trích đoạn một đã miêu tả hình ảnh con Sông Đà hung bạo, và trích đoạn hai miêu tả hình ảnh con Sông Đà trữ tình.. |
Giải thích | – Nghệ thuật là lĩnh vực của cải độc đáo: Nghệ thuật nói chung, văn kiến chương nói riêng là lĩnh vực của cái độc đáo, độc đáo trong việc đi tìm cái đẹp của cuộc sống để tạo nên tác phẩm, trong việc sáng tạo nên cái đẹp, cái riêng của tác giả ở tác phẩm – Nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của mình: Tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác phẩm văn chương nói riêng đòi hỏi sự sáng tạo, mới lạ, độc đáo, thể hiện tài năng, dấu ấn cá nhân của tác giả. | |
TRỌNG TÂM 3.0 điểm | Ai đa đặt tên cho dòng sông? | – Vẻ đẹp ở thượng nguồn: + Bản trường ca để nói về sự hùng vĩ, cải mênh mang, cái âm vang của dòng sông của sông Hương trong không gian Trường Sơn. Bản trường ca ấy cất lên mãnh liệt giữa núi rừng đại ngàn, cuồng nhiệt và mạnh mẽ, say đắm và tha thiết. + Trong bản trường ca ấy, có hai nốt chủ âm để làm nên khúc trình tấu của sông Hương ở thượng nguồn. Trước hết đó là những nốt mạnh, với sự réo rắt, cao trào những cung bậc: rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy. Và những nốt lặng ngân nga: khi sông Hương dịu dàng say đắm chảy qua những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Tất cả đã tạo nên sự mê đắm, hoang dại đầy quyến rũ. – Vẻ đẹp ở ngoại vị thành phố: vẻ đẹp đa sắc màu: + Sông Hương ở ngoại vi thành phố miêu tả lại thuỷ trình của dòng song khi chảy về với Huế, nhưng trong cảm quan nhà văn, đó là cuộc hành trình của người con gái Hương giang tìm đến với người tình xứ Huế. Vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp được tô điểm qua thử thách. Khi chảy qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, giống như là một bể lọc lớn, đề nước sông Hương trở nên xanh thắm, phải chăng giống như người con gái, sông Hương đang tự làm mới mình. + Khi trôi qua những dãy đồi sừng sững, sông Hương phải uốn dòng chảy, và qua hướng chảy lắt léo đó, sông Hương đã phô ra được những đường cong quyến rũ của nó. Tại nơi đây, sông Hương nên đi như một dải lụa. + Đặc biệt hơn, khi uốn mình qua hai dãy đồi sừng sững như thành quách, những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố: “sớm xanh, trưa vàng, chiều nại, tím”, hay nói cách khác, những ngọn đồi ấy đã tạo nên chiếc áo màu sắc để khoác lên mình người con gái Hường giang. Khiến cô gái ấy thêm phần lộng lẫy và xinh đẹp. |
TRỌNG TÂM 3.0 điểm | Người lái đò Sông Đà | – Sông Đà hung bạo: + Thác đá khi ở xa: được cảm nhận qua bốn tỉnh từ: van xin, khiêu khích, găn, chế nhạo. Có thể nói, không như cách miêu tả âm thanh thông thường, với những từ chỉ âm thanh để miêu tả tiếng nước thác như ấm ấm, rào rào… mà nhà văn lại sử dụng những từ chỉ trạng thái, thái độ của con người để gán lên âm thanh tiếng nước thác. Với cách dịch chuyển này, nhà văn đã đem lại cho người đọc cảm giác, ở xa kia, không còn là thác nước nữa, chờ đón con thuyền chính là con quái vật hung hăng, đầy hiểm ác. + Thác đá khi lại gần: Nó đã biến thành một tổ hợp trường đoạn âm thanh khủng khiếp, chưa từng thấy. Nó đem đến sự giật thột, cải bàng hoàng trước luồng âm thanh va đập, phóng thẳng vào ‘màng nhĩ. Đi bóc tách các luồng âm thanh này, ta sẽ thấy lần lượt hiện lên: Là tiếng lái vị, rộng của hàng ngàn con trâu mộng đang hoảng sợ: Tiếng rống là âm thanh lớn, âm vực cao, nhưng không phải một, mà là hàng ngàn. Sự cộng hưởng đông đảo đó là làm cho âm thanh xé toang cà không gian, Là tiếng nổ của rừng vậu tre nứa bị cháy: với cấu tạo đặc biệt là rỗng ruột, khi cháy, vầu, tre, nứa sẽ có tiếng nổ lớn. Là tiếng xèo xèo của da trâu cháy. + Và đặc biệt nhất, đó là bước chân chạy của những con trâu mộng đang hoảng sợ, giẫm đạp, phá tuông, hoảng loại. Ta có thể hình dung ra ngay khung cảnh hỗn loạn đó, với thân hình to lớn, đồ sộ, lại đông đảo, cùng chạy khỏi rừng lừa, những bước chân trầu không chỉ làm nên âm thanh, nó còn làm chấn động, làm tròng chành, rung chuyển cả không gian trên bờ, dưới mặt. – Sông Đà trữ tình: + Từ trên cao nhìn xuống, quả là điểm quan sát thật lý tưởng để có thể thu vào tầm mắt dòng chảy Sông Đà. Nguyễn Tuân đã đưa ra hai liên tưởng vô cùng mới mẻ, chưa từng thấy về hình dáng con sông. Có lẽ, từ điểm nhìn rất cao, hình ảnh Sông Đà đã hóa thành sợi dây thừng ngoằn ngoèo, và khi tàu bay hạ xuống, dòng sông đã hóa thành áng tóc trữ tình tuôn dài tuôn dài. Liên tưởng dòng sông như mái tóc óng ả để buông lơi, chảy dài đến bất tận. Hoa ban trắng, hoa gạo đỏ đôi bờ bung nở như nhánh xuân cài lên mái tóc, lại ẩn hiện mờ ảo trong sương khói Tây Bắc, đó là vẻ đẹp rất thơ, vẻ đẹp của người thiếu nữ bước ra từ cõi tiên, mà mái tóc nàng làm bừng hương sắc, xao động đất trời. + Xuyên qua màn mây, dòng sông còn hiện lên qua màu sắc biến ảo, Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nguyễn Tuân phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước Sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, Sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cải màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bia” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. + Cách miêu tả sắc đỏ màu thu Sông Đà của Nguyễn Tuấn cũng thật độc đáo. Đỏ bầm, màu đỏ không gắt, không nhạt, mang trong mình chút hồng hào, pha vào đó sắc phù sa, lại không đục ngầu, màu sắc ấy còn mang dáng hình của kẻ say, hay là vì người đã quá say dòng sông, quá mê đắm cảnh sông nước Tây Bắc. |
SO SÁNH 1điểm | So sánh | – Tương đồng: Điểm gặp nhau giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường: Đi tìm cái đẹp và thể hiện cái đẹp bằng ngòi bút tài hoa, độc đáo tạo được nét riêng, mới lạ qua hình ảnh dòng sông. Qua những đoạn văn, hai tác giả thể hiện nét tài hoa, độc đáo trong phong cách nghệ thuật của mình, sự tỉ mỉ, kì công khi khắc hoạ hình tượng.- Khác biệt: + Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác: luôn nhìn sự vật, hiện tượng ở nhiều góc độ để khám phá, phát hiện; vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực, tổng hợp cảm nhận của các giác quan để khám phá đối tượng. Tất cả làm nên phong cách Nguyễn Tuân vừa độc đáo vừa phong phú. + Ẩn trong câu chữ biến hóa là vẻ đẹp lấp lánh ánh sáng trí tuệ, tri thức và cả chất phong tỉnh, tài hoa, lãng mạn từ tâm hồn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tất cả làm nên một Hoàng Phủ Ngọc Tường độc đáo, sâu sắc mà tràn đầy cảm xúc… |
Đánh giá bàn luận | – Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà như một công bàn luận trình thẩm mĩ, một kì công nghệ thuật mà thiên nhiên ban tặng con người với hai đặc điểm: hung bạo, dữ dội và thơ mộng, trữ tình. – Trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá của tác giả về vẻ đẹp vừa “phóng khoáng và man dại” vừa “dịu dàng và say đắm” của dòng sông, là kết quả của trí tưởng tượng đầy tài hoa. Cảnh sông ở đây được khắc họa với những hình ảnh đầy ấn tượng bằng năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ, phố là lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa của sông Hương qua phép nhân hóa khi miêu tả dòng chảy và cách đặc tả màu nước phản quang hai bên bờ và thay đổi trong ngày. – Có thể nói, bằng sự tinh tế, bằng sự khám phá và cái Tôi đầy trách nhiệm với nghiệp cầm bút, hai nhà văn đã góp cho đất nước những cảnh đẹp không lặp lại, trở thành những tượng đài kỷ khó có thể phai mờ. |
ĐỀ SỐ 2:
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:
NHỮNG LỜI KHEN
[..] Bạn ạ, bạn phải coi chừng những lời khen.
Đôi khi họ khen mình là nữ tính để họ dễ bề thôn tính cả không gian và âm thanh, khi bạn thu mình lại và ăn nói nhỏ nhẹ trước họ. Khen bạn dịu dàng là để bạn không bộc lộ trí thông minh hơn họ: Không cãi lại họ và họ dễ dàng áp đặt.
Họ khen bạn là phái đẹp để bạn đừng làm hơn những gì của một bông hoa.
Họ khen bạn là hoa để họ làm ông làm bướm, đậu rồi lại bay. Họ khen bạn là họa để bạn làm vai trò trang trí, để bạn không ở địa vị cao, không nhận nhiều lượng của họ. Và đôi khi, cao hứng lên, họ còn trịch thượng phản xét bạn là hữu sắc vô hương nếu bạn lỡ không hơn một vật trang trí.
Họ khen vợ họ là bà nội tướng giỏi để họ yên tâm một mình tung hoành nơi biên ngoại với trí thức, sự nghiệp, khoa bảng, quan trường, nhà trẻ con hát…
Thế đấy! Đừng sung sướng với những lời khen để biến mình thành người khác. Mỗi bạn gái đã là một kho tàng của chính mình. Mỗi người chỉ cần là một nốt nhạc cũng đủ làm cho giai điệu cuộc sống rực rỡ âm thanh. Có những lời khen chứa đựng một phần xấu xí. Hỡi một nửa nhân loại, hãy cảnh giác với lời khen!
(Những lời khen chứa một phần xấu xí, Đoàn Công Lê Huy)
Câu 1. Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2. Chỉ ra phép liên kết phổ biến nhất được sử dụng trong đoạn trích?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Bằng đoạn văn 200 chữ, luận về lời khen trong cuộc sống.
Câu 2 (5 điểm)
Phân tích vẻ đẹp trữ tình của những con sông được khắc họa trong hai tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
———– HẾT ———-
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận.
Câu 2.
– Phép liên kết phổ biến nhất trong văn bản là phép lặp.
– Tác giả lặp lại cấu trúc “Họ khen” 5 lần và lặp lại từ “khen” 17 lần
– Tác dụng: tạo dấu ấn, nhấn mạnh chủ đề của văn bản là bàn luận về những lời khen chứa đựng một phần xấu xí quanh những người phụ nữ trong cuộc sống.
Câu 3.
Tác giả khuyên bạn gái phải “coi chừng những lời khen” có phần hợp lí. Bởi lẽ, những lời khen ấy không có tác dụng làm người phụ nữ hạnh phúc hơn mà ngược lại, ràng buộc họ vào những sợi dây định kiến và áp đặt, không cho người phụ nữ cơ hội để thể hiện mình.
Câu 4.
- Về hình thức: 5 – 7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
- Về nội dung: bàn luận về những lời khen ý nghĩa dành cho phụ nữ. Nhưng cần làm nổi bật được, khi những lời khen có giá trị như lời khuyến khích bạn gái tự tin là chính mình, hãy thể hiện mình, hãy thực sự bình đẳng trước đàn ông thì đó mới là những lời khen quý giá, đem lại hạnh phúc cho người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
II. LÀM VĂN Câu 1: (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề + Giải thích | + Những lời khen + Người ta thường khen nhau khi có được niềm vui hoặc thành tựu trong cuộc sống. Những lời khen có phải lúc nào cũng khiến ta hạnh phúc? |
Luận bàn | Ý nghĩa của những lời khen | + Lời khen khiến người nhận cảm thấy vui vẻ và nhìn nhận lại giá trị của bản thân, tự tin vào bản thân, lạc quan vào cuộc sống, hăng hái nỗ lực. + Lời khen cũng khiến tạo ra hòa khí và thể hiện sự ghi nhận của người khác về mình.Khen tặng là món quà quý giá của cuộc sống. |
Phản biện | Có phải lúc nào lời khen cũng tốt? | – Tuy vậy, lời khen cũng có những mặt trái của nó :+ Khiến người ta tự mãn, ảo tưởng không nhìn nhận đúng giá trị bản thân. + Lời khen không chân thành khiến người nhận không thoải mái, tạo ra áp lực hoặc người khen trở thành kẻ giả tạo, xu nịnh,… |
Giải pháp | + Nhận thức+ Hành động | + Ai cũng thích những lời khen, nhưng khen – chê phải chân thành, đúng mực, hướng tới điều tốt đẹp, không dè xẻn, không lạm dụng + Biết cách khen một cách khéo léo, nhã nhặn. + Đón nhận lời khen một cách tỉnh táo, thông minh. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | – Hiểu rằng, khen là cả một nghệ thuật và chân thành là chìa khóa của lời khen giá trị. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cải thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ – Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Người lái đò Sông Đà. – Dạng bài: So sánh, phân tích, chứng minh có – Yêu cầu: Phân tích những vẻ đẹp từ được khắc hoạ trong hai tùy bút, từ đó chỉ ra nét tương đồng và khác biệt trong việc khắc hoạ hình tượng. | ||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
0,5 điểm | Vài nét về tác giả – tác phẩm | – Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà: + Nguyễn Tuân là một trong chín tác gia lớn của văn học nước nhà. Chữ “ngông” chính là từ dùng khi người ta nhắc về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Cái ngông trong nghệ thuật thể hiện ở sự tài hoa và uyên bác trong trang văn, trong cách sử dụng Tiếng Việt, mới, lạ, không giống ai trong hệ thống đề tài… Mỗi một nhà văn vẽ lại thế giới theo cách riêng của mình, Nguyễn Tuân là nhà văn tô điểm cho thế giới bằng cái đẹp. Đối với Nguyễn Tuân, văn phải đẹp, phải trau chuột. Cả một đời người nghệ sĩ ấy say mê và truy tìm cái đẹp, cái thật, làm phát lộ nó dưới ngòi bút tài hoa của mình. + Người lái đò sông Đà là một tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà 1960, đó là thành quả của một chuyến đi gian khổ nhưng rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 – 1960. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất Tây Bắc, tìm ra thứ “vàng mười” đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người miền Tây Bắc. – Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông? + Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức về nước gắn bó sâu sắc với quê hương. Ông là nhà văn có sở trường về bút kí, tùy bút. Như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng ca ngợi: Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa. + Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết năm 1981 bằng tình yêu, sự gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế, Tác phẩm được in trong tập bút kí cùng tên năm 1986. + Như vậy, có thể thấy được rằng, hai hình tượng chính đều được vẽ bằng những ngòi bút hết mực tài hoa và bằng cả niềm yêu mến dâng đầy. |
Giải thích | – Chất trữ tình trong thơ văn là những cảm xúc, rung động của nhà thơ, nhà văn trước cái đẹp. Bởi vậy, vẻ đẹp trữ tình phải là một vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn. Một vẻ đẹp là xao xuyến lòng người, vẻ đẹp ấy khiến người chứng kiến ngân lên những rung động, xúc cảm diết da. Bằng tình yêu và niềm ngưỡng mộ, cả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm bật lên được vẻ đẹp trữ tình của hai dòng sông, “hai kì quan” tuyệt đẹp của đất nước. – Vẻ đẹp trữ tình – một trong những yếu tố làm nên dấu ấn của hình tượng sông Đà và sông Hương. | |
TRỌNG TÂM3,5 điểm | Điểmtương đồng | – Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân đồng vật trữ tình có tính cách, đặc biệt hơn là nổi bật qua vẻ đẹp. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái trẻ trung mang trong mình những vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Với dòng sông Hương, ta cảm nhận thấy dòng sông mang trong mình nó nét dẹp dịu dàng, đằm thắm, như người con gái xứ Huế kín đáo, e lệ, tinh tế vô cùng. – Cả hai nhà văn đều khắc họa hình tượng dòng sông với vẻ đẹp, dáng vẻ phong phú, đa dạng ở nhiều khoảng thời gian, không gian, với điểm nhìn khác nhau. + Dòng sông Đà được nhìn ngắm qua những góc nhìn rất độc đáo, góc nhìn từ trên cao, góc nhìn của một người thân quen lâu ngày không gặp… Về thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm ngưỡng ở cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông – mỗi mùa lại đem đến cho tác giả những xúc cảm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho người đọc một cái nhìn đa dạng, toàn diện về vẻ đẹp của con sông Nha yêu thương. + Với dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện thành công vẻ đẹp hoàn chỉnh về nhiều góc độ của nó. Nhà văn đã ghi lại được vẻ đẹp phong phú của sông Hương trong cuộc hành trình từ thượng nguồn đến xuôi về bể của nó. Và như vậy dường như vẫn chưa đủ, ông còn mang đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn ra sông Hương qua vẻ đẹp trong lịch sử, cuộc đời và thi ca. + Có thể nói, cả hai nhà văn đã tái hiện thật độc đáo và đa dạng vẻ đẹp của dòng sông gắn bó tha thiết với mình qua nhiều phương diện khác nhau. Để độc giả được chiêm ngưỡng những hình tượng độc đáo, những vẻ đẹp khó phái mơ đó, tất yếu đều phải nhờ đến ngòi bút tài năng lấy ra. + Có thể nói rằng, những con sông đã được phơi “dáng ngọc” nhờ cái thần của hai cây bút. Hai dòng sông không chỉ thuần tả qua dáng hình, mà được tập trung làm nổi bật trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ. |
Những nét đẹp, những dấn ấn riêng | – Vẻ đẹp của sông Đà: + Sông Đà là nơi hội tụ hại nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng. Con Sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình. + Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà, bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đăm đắm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Trong vẻ đẹp của Sông Đà, họ phát hiện ra nó đẹp như một bức tranh đường thi vẽ cảnh “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu” của Lý Bạch. Vẻ đẹp như trang nghiêm trong mạch cổ Đường thi, vừa lắng đọng về một thời Lý, Trần, Lê vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống đâm chồi nảy lộc. – Vẻ đẹp của sông Hương: + Còn Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế. Sông Hương chính Em hết là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không gian văn hóa – văn hóa Huế. + Dòng sông Hương, trước hết được hiện lên trong nét đẹp, trong sự gắn bó cùng lịch sử, như chứng nhân từ quá khứ cho đến tận bây giờ. Từ dòng sông trong sách địa dư của Nguyễn Trãi; nhẹ nhàng soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, hoà mình với lịch sử bị tráng của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX hay là chứng nhân cho bão táp cách mạng tháng Tám, cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968. Thứ nhì, Sông Hương – con sông của thi ca và nhạc họa. Vẻ đẹp sông Hương ẩn trong chiều sâu linh hồn của sông Hương, nó chứa đựng bản sắc rất đặc trưng và thật nhà thi tri, độ phong phú của một nền văn hoá cố đô, mà dòng chảy của nó khảm này thì hôm bao tinh hoa văn hóa dân tộc suốt từ ngàn đời. + Sau cùng, sông Hương thể được nhìn nhận trong cuộc sống đời thường. Nhìn ở lăng kính này, sông Hương nhẹ nhàng như vẻ đẹp người con gái xứ Huế hay e lệ, dịu dàng và mộng mơ. | |
LÝ GIẢI 0,5 điểm | Lý giải sự khác biệt | – Đặc điểm của hai con sông ngoài đời thực rất khác nhau: + Sông Đà nước xiết bởi độ dốc cao, lại có một đoạn của ngược từ Đông Nam lên Tây Bắc nên gợi vẻ đẹp trữ tình nhưng vẫn hùng vĩ, có cái vẻ mặn mà, đằm thắm, diễn tả vẻ trù phú, yên ả ven sông. + Sông Hương chảy qua kinh đô, xuôi một chiều và dòng chảy rất chậm nên có một vẻ đẹp e lệ, dịu dàng đài các và đặc biệt đậm chất văn chương, nghệ thuật. – Sự khác biệt của hai phong cách văn: Nguyễn Tuân ưa lối viết sáng tạo và tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thường đưa vào văn tri thức với lối viết hàm súc. |
Đề bài 3:
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:
Ý THỨC TỰ GIÁC
[..] Đường cao tốc chính là một ẩn dụ chính xác nhất cho Trung Quốc hiện nay, trên con đường chạy băng băng hướng đến thành công, mỗi một người chúng ta đều khoác lên mình một cái vỏ bọc đường hoàng đẹp đẽ. Trên con đường này, anh không nhường tôi, tôi không nhường anh, chỉ cần có kẽ hở thì cứ thế len vào, có thể kiếm chác được thì cứ kiếm. Chỉ cần bản thân có được lợi ích, thì mặc kệ người khác ra sao. Ai cũng đều chê trách bản thân mình chạy chậm, nhưng mà cuối cùng ai cũng đều không chạy được nhanh, ai cũng đều không thể chạy thoát.
Mỗi một người Trung Quốc đều đang theo đuổi cuộc sống thể diện hơn, đường hoàng hơn, nhưng chúng ta ăn mặc sạch sẽ gọn gàng, lại tiện tay vứt rác, vứt đầu thuốc lá ở mọi nơi. Chúng ta nói với bố mẹ rằng: Con có tiền rồi, muốn được dẫn bố mẹ ra quán dùng một bữa ăn ngon, nhưng trong nhà ăn lại lớn tiếng quát mắng người phục vụ; nói với con mình rằng, bố đã đổi chiếc xe mới rồi, để bố dẫn con ra ngoài hóng mát cho vui, nhưng lại giành đường với người đi bộ ở ngã tư đừng.
Lẽ nào đây là thể diện mà chúng ta mong muốn sao? Lẽ nào đây là thể diện mà chúng ta muốn thể hiện trước mặt con cái sao?
Có một lần, tôi đến Nhật Bản, ở một địa danh không quá nổi tiếng, tôi đi vào một phòng vệ sinh, thấy rất là sạch sẽ, dưới sàn ngay cả một giọt nước cũng không có.
[…] Về sau, hướng dẫn viên du lịch nói với tôi, các em nhỏ Nhật Bản từ nhỏ đã được dạy rằng tuyệt đối không được vẩy nước ra ngoài bồn rửa mặt. Một là, các em cần phải giữ vệ sinh môi trường công cộng sạch sẽ; hai là, người khác nếu chẳng may dẫm phải vũng nước trơn trượt, có thể sẽ bị té ngã. Họ chính là có thể ở ngay một nơi không thể diện nhất – nhà vệ sinh, mà dạy cho chúng ta biết thế nào là thể diện.
Tôi cảm thấy thể diện tuyệt không phải là cái vỏ xa hoa lộng lẫy bên ngoài, mà là trong tâm chúng ta vì người khác, vì môi trường, tự mình câu thúc hành vi của bản thân mình.
[…] Chúng ta đều mong đợi có thể được một kì nghỉ thể diện thật sự. Chúng ta không dám chiếm dụng làn đường khẩn cấp, cũng sẽ tự giác nhường đường cho xe cứu thương.
Một quốc gia, không kể là kinh tế, quân sự lớn mạnh thế nào, nếu như người dân trong nước không làm được những việc thể diện, thì chúng ta sẽ không có được sự tôn trọng đáng nên được có. Pháp luật hiện toàn, thì cần phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, ai ai cũng đều tự giác ước thúc bản thân mình, chúng ta có được “Thể”, thì đất nước mới có “Diện” được.
(Theo NTDTV, Thiện Sinh biên dịch, dẫn theo daikynguyenvn.com)
Câu 1. Văn được viết theo phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2. Từ “thể điện” trong văn bản trên có thể được hiểu là gì? Nên hiểu thế nào về câu: “chúng ta có được “Thế”, thì đất nước mới có “Diện” được?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Bằng đoạn văn khoảng 200 chữ, hãy bình luận về vai trò của ý thức tự giác trong cuộc sống.
Câu 2 (5 điểm)
Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp của sông Hương trong lòng thành phố trong bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường Liên hệ với khổ thơ thứ hai trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để thấy được sự tương đồng và khác biệt trong cách cảm nhận về cảnh và tình xứ Huế của hai tác giả.
———– HẾT ———-
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
– Phong cách ngôn ngữ chính là chính luận.
Câu 2.
– Thể diện hiểu theo tác gải bài viết là khi con người tự giác làm tròn bổn phận của bản thân, có ý thức, đạo đức xã hội thì sẽ được người khác tôn trọng. Quan niệm này chủ đích phản đối lại cách hiểu của phần đông người dân Trung Quốc: khi có tiền của, phong cách hào nhoáng, đó là có thể diện, “Thể diễn thuyết không phải là cái vỏ xa hoa lộng lẫy bên ngoài, mà là trong tâm chúng ta vì người khác, vì môi trường, tự mình cấu trúc hành vi của bản thân mình.”
– Theo tác giả, “chúng ta có được “Thể”, thì đất nước mới có “Diện” được” nghĩa là khi mỗi người dân có được ý thức tự giác thì đất nước đó mới được quốc tế tôn trọng.
Câu 3.
– Tác giả bài viết muốn gửi tới người đọc thông điệp rằng: tiền bạc và sự giàu có không mang lại thể diện đúng nghĩa, không khiến người khác tôn trọng cá nhân hay cộng đồng đó. Từ đó, thức tỉnh mọi người về ý thức xã hội, mong muốn mỗi người đều biết tự giác tuân thủ pháp luật, chuẩn chỉ theo đạo đức xã hội.
– Tác giả chọn vấn đề này bởi lẽ cô nhận thấy sự tha hóa nghiêm trọng của đạo đức xã hội, sự trượt dốc của ý thức tự giác và sự tàn phá những lễ nghi truyền thống của người dân Trung Quốc đương thời, nhận thấy cần có sự cảnh tỉnh mọi người.
Câu 4.
– Về hình thức: 5 – 7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
– Về nội dung:
- Nêu quan điểm cá nhân.
- Bàn luận làm sáng rõ quan điểm.
Sau đây là một gợi ý:
Một quốc gia muốn phát triển ý thức xã hội thì cần quan tâm song song giữa việc giáo dục đạo đức và kiện toàn pháp luật. Bởi lẽ, hai vấn đề này sẽ bổ sung hữu hiệu cho nhau trong quá trình xây dựng một chuẩn mực về ý thức xã hội, Pháp luật nghiêm minh sẽ là tiền đề cơ bản để mỗi người dân biết coi trọng nguyên tắc cộng đồng, hình thành thói quen tốt. Ngược lại, giáo dục đạo đức khiến mỗi người tự giác tuân theo pháp luật và chuẩn mực xã hội. Khi đó, xã hội sẽ hành pháp một cách nhẹ nhàng, êm đẹp, ý thức xã hội sẽ từ đó mà phát triển lên rất cao.
II. LÀM VĂN
Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hương trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Giải thích | + Ý thức tự giác trong cuộc sống. + Ý thức tự giác là khi chúng ta tự mình suy nghĩ hoặc thực hiện một hành động nào đó từ động lực trong chính bản thân mình chứ không vì một sự thúc ép bên ngoài. |
Luận bàn | Vai trò của ý thức tự giác | + Ý thức tự giác giúp con người thực hiện được kế hoạch của cá nhân, tự nâng cao giá trị bản thân, dễ đạt được thành công.+Ý thức tự giác giúp một cá nhân, tập thể được xã hội tôn trọng, đề cao; giúp xã hội tiến bộ và văn minh hơn. (Ví dụ về ý thức của người Nhật)+Ý thức tự giác không phải kĩ năng bẩm sinh, nó được rèn luyện theo năm tháng và môi trường (một đứa trẻ sẽ tự giác cất gọn đô khi thấy bố mẹ ông bà luôn ngăn nắp). |
Phản biện | Đôi khi tự giác mà ngược lại với đám đông? | + Người có ý thức tự giác trong một xã hội ý thức tự giác chưa phát triển cao, có thể bị dè bỉu. Vì vậy, cần sự vững vàng tự rèn luyện và can đảm đứng trước dư luận. |
Giải pháp | Rèn luyện ý thức như thế nào? | + Bản thân nỗ lực, chống lại thói lười biếng, ỷ lại, chần chừ, cần thực hiện đều đặn, tạo thói quen tốt ngay khi không có giám sát. + Giữ thái độ tôn trọng tập thể, “mình vì mọi người”. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | Lập thời gian biểu, quản lý thời gian, lên kế hoạch cho mỗi công việc. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0,5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ – Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Dạng bài: Phân tích, liên hệ – Yêu cầu: Làm rõ đối tượng trọng tâm, từ đó tìm ra được điểm tương đồng, và điểm riêng của đối tượng liên hệ | ||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường Tin nhà hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ tuyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rǜ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình… Thực ra, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc”. Đó là những lời nhận xét xác đáng mà cũng đầy trân trọng của nhà thơ Ngô Minh dành tặng Hoàng Trang Phủ Ngọc Tường. – Sự tài năng của ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được thể hiện đặc sắc qua bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bài bút ký viết trong mười ngày nhưng nhà văn đã dành nửa đời người để chiêm nghiệm. Đặc biệt khi khám phá vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố mới thấy được khi hết cái Tội đầy tài hoa của nhà văn. |
TRỌNG TÂM 3.0 điểm | Vẻ đẹp sông Hương trong lòng thành phố | – Điệu chảy của sông Hương trong lòng thành phố Huế rất chậm, dường như là không trôi, giống như mặt hồ tĩnh lặng. Ngoài nguyên nhân về Hương mặt địa hình, còn có hai lý do khiến cho sông Hương chảy rất chậm trong lòng trong lòng thành phố là bởi xuất hiện những chi lưu khiến cho lưu tốc thành phố càng giảm đi, và độ cản của hai hòn đảo nhỏ, khiến cho sông Hương đã trở thành dòng sông hiền hòa nhất trong mọi dòng sông. – Thế nhưng trong cảm quan nhà văn, đó là điệu chảy dành riêng cho thành phố Huế, một điệu slow nhẹ nhàng, tình cảm, rất lãng mạn, rất sâu lắng, chậm rãi và da diết. Cũng giống như người con gái chung tình, phải trải qua cả một hành trình thật gian nan, tìm đến người tình là cả một sự kì công, vì vậy khi bên người tình, người con gái Hương giang ấy muốn ở thật lâu, trong vòng tay của người tình. – Trong lòng thành phố, sông Hương tỏa thành nhiều nhánh, những chi lưu ấy như những cánh tay mềm mại, ôm ấp lấy người tình thủy chung. |
– Trong niềm tự hào của một người con đã sống thủy chung cùng xử Huế hơn bốn mươi năm, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương với những dòng sông đẹp, nổi tiếng trên thế giới. Là dòng sông Xen của Pa-ri, sông Đa- nuýp của Pu-đa-pét, sông Nê-va. Những dòng sông như biểu tượng của thành phố nơi nó chảy qua, và là cả niềm tự hào của đất nước với bạn bè thế giới. – Đặt sông Hương bên cạnh những dòng sông đẹp đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kín đáo nâng dòng chảy Hương giang ngang hàng với những dòng chảy tuyệt mỹ. – Thế nhưng còn hơn thế, trong con mắt mến yêu, nhà văn họ Phủ còn thấy sông Hương đặc biệt hơn, độc đáo hơn những dòng sông kia. Cùng chảy vào giữa lòng thành phố như sông Xen và Đa-nuýp, nhưng sông Hương chỉ chảy qua một thành phố duy nhất, Hay nói cách khác, sông Hương giống như người con gái chung tình. Và với sông Nê va, dòng sông đẹp với những khối băng như thủy tinh chảy về biển Ban-tích. Nhà văn lại cảm thấy dòng chảy ấy quá nhanh,như là sự hụt hẫng, chấp chới, bởi dòng chảy ấy nhanh quá, vụt trôi quá, chẳng kịp để lại nỗi niêm. Vì vậy, nhà văn lại nhớ đến dòng Hương giang, lại thấy quỷ điệu chảy lặng lờ, dùng dằng của nó. Nói cách khác, nếu như sông Hương thủy chung với người tình xứ Huế thì Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ thủy chung với dòng chảy Hương giang. | ||
LIÊN HỆ 1 điểm | Bức tranh xứ Huế trong Đây là thôn Vĩ Dạ | – Đây thôn Vĩ Dạ thực chất là một cuộc hành trình tưởng tượng của thi sĩ họ Hàn. Khổ hai đã vẽ nên xứ Huế trong một đêm trăng thật đẹp. Trước hết là cảnh sông nước: Xuất hiện thật thi vị, có gió, mây, dòng nước lặng lẽ, hai bên bờ là hoa bắp. Gió nhè nhẹ thổi, mây lững lờ bay Thông tin chung trong một đêm thanh vắng, tưởng chừng như cả gió và mây đều có khẽ khàng để không phá tan bầu yên tĩnh. Góp chung không khí đó là dòng sông Hương lững lờ, tưởng chừng như không hề trôi. Và hoa bắp khẽ là gi cho tiết lay động, tất cả về nên khung cảnh tĩnh tờ dọc bên bờ trù phú. – Cả bờ sông ngập tràn ánh trăng, trăng làm cảnh vật thêm lung linh, thêm đẹp. Ta thấy xuất hiện thuyền trăng (có thể hiểu con thuyền chở Bà đầy trăng, hoặc bay bổng hơn, trăng như một chiếc thuyền đang trôi trên dòng sông ánh sáng), sông trăng (con sông ngập tràn ánh trăng, di mua hoặc cũng có thể hiểu ánh trăng chảy chiếu như một dòng sông) và bến trăng. – Nhưng đằng sau bức tranh lung linh ấy, ta vẫn thấy một nỗi niềm, cái tình thì nhân ẩn chứa. “Gió theo lối gió, mây đường mây”: Ý thơ đã làm rõ sự chia ly, chia lìa. |
LIÊN HỆ 1 điểm | Bức tranh xứ Huế qua hai ngòi bút tài năng | – Cùng tái hiện được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc con người xứ Huế xứ Huế cả hai cây bút đều đã làm bật lên được những cảnh sắc rất riêng, rất thơ cả hai cây bút để qua hai mộng, chỉ tới Huế mới có. Có được điều đó chứng tỏ mảnh đất, con ngòi bút tài người Huế đã chiếm chỗ sâu bền nhất trong lòng các tác giả. – Huế và dòng Hương giang đã được tô vẽ bằng những cây bút tài hoa, tinh tế, nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng mạn, phong phú. Vì vậy mà cảnh sắc như tình hơn, màu nhiệm hơn qua lăng kính các tác giả. – Tuy nhiên, với thiên bút ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có điều kiện để nhìn dòng sông Hương, xứ Huế qua rất nhiều lăng kính, đi sâu, khái quát các góc cạnh để cảnh sắc được hiện lên đa diện, đầy đủ. Đó cũng như là tấm lòng của một người đã gắn bó với xứ cố đô, đã dành trọn tình yêu thuỷ chung cho chốn này.- Với Hàn Mặc Tử, cảnh xứ Huế, dòng Hương giang và Vĩ Dạ đều được hiện lên qua dòng ký ức, qua nỗi nhớ, vì vậy, cảnh sắc khi thì sáng rõ, khi thì lung linh, lúc lại mờ ảo chập chờn. – Với khổ 2, bằng ngòi bút tài năng, thi nhân đã vẽ nên bức tranh đêm trăng bên dòng sông tuyệt đẹp. Nhưng cũng phú nhuốm màu buồn, màu li biệt. Tâm trạng ấy vừa đến trong bức tranh tĩnh lặng của xứ Huế, vừa xuất phát từ niềm riêng, từ nỗi đau của thi nhân. |
Đề số 4:
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1 (3 điểm) Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:
MỤC ĐÍCH LÀM GIÀU
Tỷ phú Dự Bình Niên vừa qua đời ở tuổi 93 (thượng thọ). Ông đã chuyển toàn bộ tài sản trị giá 9,3 tỷ NDT (2 tỷ USD) vào quỹ từ thiện của ông hoạt động trong nhiều năm nay. Dư là tỷ phủ Trung Quốc đầu tiên thoát khỏi “tình thương mù quảng Á châu” khi cho đi toàn bộ tài sản của mình. Nếu các con tôi tài giỏi, chúng sẽ không cần tới số tiền này. Còn nếu chúng không đủ năng lực, thì gia sản này trước sau gì cũng mất”. Muốn con cái phồn vinh mãi mãi, thì việc đầu tiên là xác định “tiền ai nấy làm nấy hưởng”. “Bất cứ ai xài tiền của người khác, đều là người kém cỏi cả, trừ người khuyết tật và trẻ em dưới 18 tuổi chưa được phép lao động” – ông nói. Thương con thật sự là phải như vậy.
Ông khuyên mọi người không nên để lại tài sản cho con cháu vì như vậy sẽ hại con. Dù tài sản lớn như một cơ nghiệp hay chỉ là một miếng đất, một cái nhà nhỏ… đều không nên cho con cháu. Vì khi biết có tài sản thừa kế, thế hệ sau sẽ ở y vào đó, mất đi động lực, ý chí phấn đấu, cái quan trọng nhất để thành công.
Ông Dư sinh năm 1922 ở Hồ Nam. Năm 1958, ông tới Hong Kong làm đủ nghề để kiếm sống, từ lao công cho tới công nhân xây dựng, khuân vác, giao hàng. Sau đó, ông mở công ty bất động sản, du lịch, khách sạn, y tế.
Ông Dư là Chủ tịch hãng bất động sản Foo Tak lừng lẫy, ông từng chia sẻ bí quyết thành công là làm tốt nhất nhiệm vụ mình được giao “Kể cả khi lau chùi toilet, tôi vẫn là người lau chùi sạch nhất”. Ông khuyên các bạn trẻ đừng nề hà việc gì, dù là lau chùi toilet để kiếm sống, rồi từ từ đi lên…
Vậy ông làm giàu để làm gì nếu không phải cho con cháu. Ông nói, “chỉ là để thỏa mãn đam mê, bung hết khả năng cuộc đời mình”. Còn con cháu, đó là những cá thể khác, chúng tự do sống khác.
Và người Trung Quốc đã tìm thấy người doanh nhân đầu tiên của mình.
(Doanh nhân đầu tiên của Trung Quốc, Tony Buổi Sáng, dẫn theo facebook Tony Buổi Sáng, ngày 8/ 5/2015)
Câu 1. Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2. Xác định vấn đề chính mà văn bản đề cập.
Câu 1 (2 điểm)
Khi được hỏi về mục đích của làm giàu, tỉ phú Bánh Dư Niên nói “chỉ là để thỏa mãn đam mê, bung hết khả năng cuộc đời mình”. Bằng một đoạn văn khoảng 200 chữ, nêu quan điểm của anh/ chị về mục đích chân chính của làm giàu trong xã hội hôm nay.
Câu 2 (5 điểm)
Phân tích vẻ đẹp khát vọng của hình tượng người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Từ đó liên hệ với vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ để thấy được tấm lòng của mỗi nhà văn với nhân vật, cǜng như thông điệp gửi gắm.
———– HẾT ———-
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận. (Tác giả giới thiệu với mọi người về tỉ phú Bình Dư Niên và bàn luận về quan niệm sống của nhân vật này)
Câu 2.
Văn bản tập trung bàn luận về vấn đề: có nên để lại tài sản cho con cháu không? Và khuyên mọi người nên quyết định và hành động như tỉ phú Bánh Dư Niên trong văn bản.
Câu 3.
- Cụm từ “tình thương mù quáng Á châu” chỉ truyền thống của người châu Á vô cùng yêu chiều con cái, để lại toàn bộ tài sản cho con cháu kế thừa và hưởng thụ mà không quan tâm chúng có thực sự quý trọng và có thể giữ gìn, phát triển tài sản đó hay không. Điều đó có thể tạo cho thế hệ sau sự chây lười và thái độ sống hưởng thụ, dẫn đến tình trạng gia sản suy
- Dẫn chứng: chế độ “tập ấm” của các gia tộc giàu có, quan chức trong xã hội phong kiến, con cháu sẽ nối truyền nhau hưởng mộ chức quan và tài lộc của cha ông, không quan tâm đến tài đức của người được hưởng.
Câu 4.
– Về hình thức: 5 – 7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
– Về nội dung:
+ Giải thích: Tác giả coi Bánh Dư Niên là doanh nhân đầu tiên của Trung Quốc có nghĩa là trong quan niệm của tác giả về một người doanh nhân không chỉ có tài năng và sự nghiệp kinh doanh thành đạt, đem lại lợi ích, giá trị cho bản thân và xã hội, mà theo đó, doanh nhân còn phải là người biết chia sẻ, làm từ thiện giúp đỡ cộng đồng, biết đặt lợi ích của doanh nghiệp lên trên lợi ích cá nhân của gia tộc, con cháu mình, vượt qua truyền thống “thừa kế” ngàn đời cố hữu trong quan niệm châu Á. Như vậy, mới là một doanh nhân chân chính. Và cũng tạo cho thế hệ sau một động cơ lao động thực sự.
+ Đánh giá: Đó là quan niệm tiến bộ, đúng đắn, được nhiều doanh nhân thành đạt ngày nay ủng hộ và làm theo.
II. LÀM VĂN
Câu 1 (2 điểm).
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề+ Giải thích | + Mục đích làm giàu chân chính. + Đam mê là ước mơ, là lí tưởng mà một người khao khát, dám gắng hết sức lực để thực hiện nó. Nói làm giàu là thỏa mãn đam mê, là để bung hết khả năng của cuộc đời có nghĩa là đối với vị tỷ phú đó, việc làm giàu chính là một ước mơ cháy bỏng, để khẳng định bản thân. |
Luận bàn | Bàn luận về mục đích làm giàu chân chính | + Mỗi người có một mục đích làm giàu khác nhau: tiền bạc, hưởng thụ, tôn trọng của xã hội, quyền lực,… ⇒ Mục đích khác nhau nhưng đều chân chính và lương thiện thì vẫn đáng trân trọng. + Việc làm giàu để thỏa mãn đam mê và khẳng định bản thân là một nhu cầu chính đáng và cao quý của vị tỉ phú kia. Nhu cầu này nằm ở bậc cao nhất trong tháp Maslov về thang nhu cầu của con người. (Ví dụvè Bill Gates) |
Phản biện | Có người làm giàu vì những mục đích xấu xa. | + Cần tránh để làm giàu trở thành một mục tiêu mà quáng, không từ thủ đoạn để thực hiện. |
Giải pháp | Rèn luyện ý thức như thế nào? | + Cần xác định rõ ràng mục tiêu cho mình+ Cần biết sẻ chia |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | + Xây dựng động lực và mục tiêu cá nhân, nỗ lực để thực hiện mục tiêu đó. |
Câu 2 (5 điểm):
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết, không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – Kim Lân (01/08/1920 – 20/07/2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ học hết tiểu học rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong, vừa viết văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim). Kim Lân là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi hiện đại, cây bút chuyên viết truyện ngắn, chuyên viết về nông thôn với những con người nông thôn hiền hậu, chân chất. – Tác phẩm nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng đang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lặp lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cǜ để viết truyện ngắn này. Vị trí: một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Đề tài: Bức tranh hiện thực thể thảm của nhân dân ta thời kǶ trước Cách mạng tháng Tám, mà cụ thể là nạn đói năm 1945. |
TRỌNG TÂM 3.0 điểm | Vẻ đẹp khát vọng người vợ nhặt | – Thị là nhân vật không tên, cǜng chẳng hề có quê quán, chẳng tài sản, không gia đình, cũng không có nghề nghiệp. Thị như người trôi dạt giữa cơn lǜ của nạn đói. Thật tội nghiệp.Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm, điều đó được thể hiện từ lời nói đến hành động. Trước hết là trong lời nói, vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chồng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. – Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuôn đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng sau câu đùa của Tràng. Nói đúng hơn là thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Nhưng có lẽ bởi Thị cảm được cái chân thật, cái tốt bụng của anh Trang, Tràng có lẽ là duyên phận, xuất hiện như chiếc phao cứu sinh với đời Thị. Cho nên hành động theo Tràng của thị, một mặt xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Nhưng ta còn thấy trong đó, một mong muốn tựa nương, một bến bờ sau những trôi dạt của số phận. – Về đến nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý tử cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. – Sáng hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của thị trước kia không còn nữa. Thay vào đó, chúng ta đã được cảm nhận vẻ đẹp rất nữ tính của thị. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng năm thì hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chóng lon như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị. – Người vợ nhặt có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng và của tác phẩm. Dù trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa, có cận kề với cái chết thì những vẻ đẹp tiềm ẩn của con người không bao giờ mất đi. Khát vọng sống, hạnh phúc vẫn luôn nguyên vẹn, tình thương yêu con người chiến thắng tất cả. Người vợ nhặt có một khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc mạnh mẽ, vươn lên hoàn cảnh và chiến thắng số phận. |
LIÊN HỆ 1 điểm | Liên hệ nhân vật Liên | – Liên là cô bé tảm tuổi, như mầm cây trên mảnh đất khô cằn phố huyện. Trong tâm hồn cô bé cũng bị nhuốm nỗi buồn nơi đây, nơi thiếu sinh khí, sức sống, niềm vui, ngược lại chứa đầy những lo toan, điểm bóng tối u ám, và những kiếp người lay lắt đến tội nghiệp. – Niềm vui cùng, sự giải thoát của cô bé chính là chuyến tàu đêm nơi phố huyện. Bởi, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp. Liên lặng lẽ mơ tưởng đến Hà Nội xa xăm…, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng khi thấy chưa mất việc. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này. – Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến người ta hình dung ra một thế giới giàu sang, đông đúc, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng. Việc Liên và An đón đợi đoàn tàu xuất phát từ nhu cầu bức thiết về tinh thần muốn thoát khỏi cuộc sống buồn chán hiện tại và được sống trong một thế giới mới tươi đẹp hơn. – Đợi tàu, dù cho nó chỉ xuất hiện vào lúc khuya muôn, nhưng sự cố gắng đợi chờ đó cho ta thấy một khát vọng không bao giờ bị dập tắt, là hi vọng nhỏ nhoi, mong manh, nhưng cǜng mãnh liệt vô cùng. – Tuy nhiên, với Hai đứa trẻ, nhà văn Thạch Lam còn muốn rung lên hồi chuông cảnh tỉnh sâu sắc: Đừng tồn tại, hãy sống. – Còn với nhà văn Kim Lân, ông gửi bức thông điệp đầy nhân văn qua hình tượng nhân vật của mình: Dù trong tình huống bị thâm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người. |
ĐỀ SỐ 5:
1. ĐỌC – HIỂU (3 điểm) Đọc văn bản:
LÒNG TỰ TIN
Tôi có đọc bài phỏng vấn Ngô Thị Giáng Uyên, tác giả cuốn sách được nhiều bạn trẻ yêu thích “Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương”. Trong đó cô kể rằng khi đi xin việc ở công ti Unilever, có người hỏi nếu tuyển vào không làm marketing mà làm sales thì có đồng ý không. Uyên nói có. Nhà tuyển dụng rất ngạc nhiên bởi hầu hết những người được hỏi câu này đều trả lời không. “Tại sao phỏng vấn marketing mà lại làm sales?”. Uyên trả lời: “Tại vì tôi biết, nếu làm sales một thời gian thì bộ phận marketing sẽ muốn đưa tôi qua đó, nhưng đã quá muộn vì sales không đồng ý cho tôi đi.”
Chi tiết này khiến tôi nhớ đến câu chuyện về diễn viên Trần Hiểu Húc. Khi đó cô đến xin thử vai Lâm Đại Ngọc, đạo diễn Vương Phú Lâm đã đề nghị cô đóng vai khác. Hiểu Húc lắc đầu “Tôi chính là Lâm Đại Ngọc, nếu ông để tôi đóng vai khác, khán giả sẽ nói rằng Lâm Đại Ngọc đang đóng vai một người khác.” Đâu là điều giống nhau giữa họ? Đó chính là sự tự tin. Và tôi cho rằng, họ thành công là vì họ tự tin.
Có thể bạn sẽ nói: “Họ tự tin là điều dễ hiểu. Vì họ tài năng, thông minh, xinh đẹp. Còn tôi, tôi đâu có gì để mà tự tin”. Tôi không cho là vậy. Lòng tự tin thực sự không bắt đầu từ gia thế, tài năng, dung mạo… mà nó bắt đầu từ bên trong bạn, từ sự hiểu mình. Biết mình có nghĩa là biết điều này: Dù bạn là ai thì bạn cǜng luôn có trong mình những giá trị nhất định.
(Nếu biết trăm năm là hữu hạn – Phạm Lữ Ân, NXB Hội Nhà văn, 2012)
Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1. Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2. Đặt nhan đề cho văn bản.
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh chị về câu: “Lòng tự tin thực sự không bắt đầu từ gia thế, tài năng, dung mạo… mà nó bắt đầu từ bên trong bạn, từ sự hiểu mình”.
Câu 2 (5 điểm)
Có ý kiến cho rằng cả Tràng (Vợ nhặt – Kim Lân) và Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) đều là hình tượng tiêu biểu cho thân phận, cho bản chất của người nông dân. Qua tình huống nhặt vợ của Tràng, tình huống gặp Thị Nở và khao khát lương thiện của Chí Phèo, hãy bình luận.
———– HẾT ———-
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
– Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận. (Tác giả nêu ra quan điểm của bản thân và làm rõ chúng bằng những dẫn chứng cụ thể. Ngôn ngữ được sử dụng mang tính chặt chẽ, rõ ràng, thuyết phục.)
Câu 2.
HS có thể lựa chọn nhan đề sao cho hợp lí, nên theo đề tài hoặc chủ đề đang bàn bạc. Ví dụ: Lòng tự tin, Sức mạnh của tự tin,…
Câu 3.
HS nêu quan điểm của bản thân và trình bày ngắn gọn làm rõ quan điểm:
- Đồng ý: vì sự tự tin mang lại cho họ phong thái chuyên nghiệp, khiến người khác có niềm tin và cho họ cơ hội làm việc, họ vượt qua các ứng viên khác chính nhờ sự tự tin.
- Không đồng ý: vì sự tự tin chi cho họ cơ hội, nhưng họ thành công và năng lực thực sự của họ thể hiện khi đảm nhiệm công việc,
- Vừa đồng ý, vừa không đồng ý: tự tin cần trong cuộc sống bởi nó cho ta cơ hội thể hiện mình, cho ta niềm tin rằng “mình sẽ làm được”, nhưng để thành công thì cần nỗ lực rất nhiều và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
Câu 4.
– Về hình thức: 5 – 7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
– Về nội dung:
+ Tự tin chính là nhận thức được giá trị của bản thân mình, không tự ti cǜng không ảo tưởng sức mạnh.
+ Sự tự tin rất cần thiết trong cuộc sống, tạo ra thời cơ, nhất là cuộc sống hiện đại hôm nay.
II. LÀM VĂN: Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề+ Giải thích | + Lòng tự tin trong cuộc sống. + Tự tin là tin vào bản thân mình. Đó là tinh thần chủ động, độc lập, quyết đoán của cá nhân trong suy nghĩ và hành động. |
Luận bàn | + Nguồn gốc của sự tựtin+ Biểu hiện của sự tự tin | + Lòng tự tin rất quan trọng trong cuộc sống, hình thành từ nhiều yếu tố (dung mạo, tài năng,…), trong đó, quan trọng hơn cả là sự hiểu rõ về bản thân mình và việc mình làm, tin tưởng vào thành công của bản tin thân. + Tin tưởng mình đảm nhận được công việc một cách tốt nhất, nỗ lực hết mình nếu được giao, giúp họ hoàn thành nhiệm vụ, đạt được thành công. + Tạo được cơ hội cho chính mình thể hiện năng lực của bản thân. |
Phản biện | Có phải lúc nào tự tin cũng thành công? | + Tự tin có thể vẫn thất bại, quan trọng là không chấp nhận sau thất bại, thất bại chỉ giúp ta hiểu rõ được điểm mạnh điểm yếu của mình. + Tự tin cần đi liền với thực lực, chứ không phải ngu ngốc, cố chấp, duy ý chí. |
Giải pháp | + Nhận thức+ Hành động | + Sự tự tin hình thành từ việc chúng ta tìm ra giá trị thực sự của bản thân. + Rèn luyện lòng tự tin trong cuộc sống từ những việc nhỏ (thế mạnh của bản thân để chắc chắn mình có thể thành công), rồi dần đến những điều lớn hơn. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | Tìm ra điểm mạnh của mình, rèn luyện lòng tự tin. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cải thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
trong yêu cầu. | ||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – Từ những trang viết độc đáo về nông thôn, với những truyện ngắn được xếp vào hàng kinh điển trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX như Vợ nhặt, Làng có người đã gọi Kim Lân là cây bút độc đáo của phẩm – làng quê Việt Nam. Nhà văn Nguyên Hồng cǜng từng nhận xét về người bạn đồng nghiệp của mình rằng: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. Hay nói cách khác, Nhà văn Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam đương đại. – Tác phẩm nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư- được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo, Là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân đã xây dựng câu chuyện nhặt vợ trên cái nền hiện thực thể thảm của Nhân dân ta thời kǶ trước Cách mạng tháng Tám, mà cụ thể là nạn đói năm 1945. – Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực phê phán thời kì 1940 – 1945, là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kǶ kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954. Các tác phẩm của ông vừa rất mực chân thành vừa có một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, vừa gân guốc, lại vừa thắm thiết trữ tình. Nhà văn có sở trường trong miêu tả tâm lý con người, nhất là khi đi vào miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp. – Chí Phèo (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam. |
Giải thích | – Hình tượng tiêu biểu, điển hình: Nhân vật điển hình thường khái quát số phận và tính cách của một loại người, một tầng lớp hay một giai cấp. Xây dựng điển hình nhà văn phải phát hiện những chi tiết cá biệt, độc đáo, không lặp lại để làm nổi bật những nét, những tính cách quan trọng, những quan hệ tiêu biểu trong đời sống. – Chí Phèo và Tràng chính là những điển hình tiêu biểu cho người nông dân trong hai giai đoạn quan trọng, trước và khi có cách mạng. Phản ánh được bản chất, khát vọng của giai cấp đông đảo nhất trongxã hội. | |
TRỌNG TÂM 4,0 điểm | Nhân vậtTràng và tình huống nhặt vợ | – Trang được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thể thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây tình huống ra năm 1945. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong nhặt vợ. một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo, dở khóc, dở cười giữa Trang và Thị, một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. – Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc, tình yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế: nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ. – Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa. – Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Trang. Anh cu Trang cục mịch, khử khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quả, khiến Trang rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi. Chàng thanh niên nghèo khó “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cải nhà của hắn lạ lùng. Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ nung, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy Thị là một điều nghiêm túc. Khát vọng mải ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói. Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con để cải ở đấy. Cái nhà như cải tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ. |
Chí Phèovà nămngày bên Thị Nở | – Trong một lần say rượu, vô tình, Chí Phèo đã gặp Thị Nở – một và năng người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của Thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương trị còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. – Chính Thị Nở đã làm Chí tỉnh rượu, và khi đã tỉnh rượu, các giác quan trở lại, hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuôi cá, tiếng chim hót… Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Hắn nhở lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. – Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. – Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Kì diệu làm sao bát cháo hành Thị Nở, một liều thuốc tiên vừa giải cảm vừa giải độc. Chảo hành đã tẩy ố đi men rượu, gột rửa những tội lỗi con người.. – Niềm hi vọng: Ước mơ lương thiện trở về, Chỉ thấy thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người… Chí đặt hi vọng lớn vào Thị Nở: “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được… Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Chỉ hình dung về tương lai tươi đẹp khi chung sống cùng với Thị Nở. | |
Đánh giá và bàn luận | – Có thể thấy cả hai hình tượng đều làm bật lên được những thân phận khốn cùng của người nông dân, đó là những kiếp người bị hoàn cảnh xã hội đẩy vào những bước đường cùng, làm cho bị biến đổi. Họ phải oằn mình đối diện trước cái đói và miệng ăn. – Họ đều là những con người dù có bao cơ cực, vẫn giữ cho mình sự lương thiện, thuần hậu, và những khát khao rất đời thường, đặc biệt, là khát khao mái ấm luôn cháy bỏng. – Tuy nhiên, hình tượng Chí Phèo là bức chân dung cho người nông dân bị kịch không lối thoát trước cách mạng tháng Tám. Còn Tràng là bức chân dung người nông dân trong thời đại mới, tươi sáng hơn. |
ĐỀ SỐ 6
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm) Đọc văn bản:
TINH THẦN MẠO HIỂM
“Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Xưa nay những đấng anh hùng làm nên những việc gian nan không ai làm nổi, cũng là nhờ cái gan mạo hiểm, ở đời không biết cái khó là cái gì.[…]
Còn những kẻ ru rú như gián ngày, làm việc gì cũng chờ trời đợi số, chỉ mong cho được một đời an nhàn vô sự, sống lâu giàu bền, còn việc nước việc đời thì không quan hệ gì đến mình cả. Như thế gọi là sống thừa, còn mong có ngày vùng vẫy trong trường cạnh tranh này thế nào được nữa. Hãy trông những bạn thiếu niên con nhà kiều dưỡng, cả đời không dám đi đâu xa nhà, không dám làm quen với một người khách lạ, đi thuyền thì sợ sóng, trèo cao thì sợ run chân, cứ áo buông chùng quần đóng gót, tưởng thế là nho nhã, tưởng thế là tự văn; mà thực ra không có lực lượng, không có khí phách; hễ ra khỏi tay bảo hộ của cha mẹ hay kẻ có thế lực nào thì không có thể tự lập được.
Vậy học trò ngày nay phải tập xông pha, phải biết nhẫn nhục; mưa nắng cũng không lấy làm nhọc nhằn, đói rét cǜng không lấy làm khổ sở. Phải biết rằng: hay ăn miếng ngon, hay mặc của tốt, hễ ra khỏi nhà thì nhảy lên cái xe, hễ ngồi quá giờ thì kêu chóng mặt,… ấy là những cách làm mình yếu đuối nhút nhát, mất hẳn cái tinh thần mạo hiểm của mình đi”. Lý
(Mạo hiểm, Nguyễn Bá Học, Dẫn theo Sgk Ngữ văn 11, tập hai, NXB Giáo dục, 2014, tr.114)
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1. Văn bản trên sử dụng thao tác lập luận chính là gì?
Câu 2. Tìm và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau:
“Vậy học trò ngày nay phải tập xông pha, phải biết nhẫn nhục; mưa nắng cũng không lấy làm nhọc nhằn, đói rét cǜng không lấy làm khổ sở”?
Câu 3. Anh chị hiểu câu nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” như thế nào?
Câu 4. Ngày nay, có rất nhiều người chọn cách sống “an nhàn vô sự”. Anh/ Chị nhận xét gì về cách sống ấy?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm):
Bằng đoạn văn khoảng 200 chữ, hãy nêu ý kiến của anh chị về “tinh thần mạo hiểm”.
Câu 2 (5 điểm):
Phân tích hình tượng người dǜng sĩ Tú, liên hệ với hình tượng Đăm Săn trong sử thi Đăm Săn để thấy được vẻ đẹp độc đáo của nhân vật anh hùng sử thi.
———– HẾT ———-
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1. Thao tác lập luận chính: bình luận.
Câu 2.
Biện pháp tu từ: liệt kế, đối và điệp ngữ (điệp từ, điệp cấu trúc)
- Liệt kê: phải tập xông pha, phải biết nhẫn nhục, mưa nắng cǜng không lấy làm nhọc nhằn, đói rét cǜng không lấy làm khổ sở.
- Đối: phải tập xông pha – phải biết nhẫn nhục . Mưa nắng cǜng không lấy làm nhọc nhằn – đói rét cǜng không lấy làm khổ sở
- Điệp ngữ: …phải…, …cũng không lấy làm…
Tác dụng:
+ Về hình thức: Giúp lời văn nhịp nhàng, cân đối
= Về nội dung: nhấn mạnh điều học trò ngày nay cần phải rèn luyện, tu dưỡng để trưởng thành.
Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề + Giải thích | + Tinh thần mạo hiểm. + Tinh thần mạo hiểm: là thái độ dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dũng cảm đương đầu với các thử thách, hiểm nguy, dù biết đó là nghiệt ngã, dù biết có khi phải trả giá rất đắt, kể cả sinh mạng=> tinh thần mạo hiểm rất cần thiết trong cuộc sống. |
Luận bàn | Bàn luận về tinh thần mại hiểm+ Vai trò+ Biểu hiện | + Người có tinh thần mạo hiểm luôn có nhiều ý tưởng mới mẻ, thần mại hiếm sáng tạo, và là người dễ thành công, dễ tạo nên kǶ tích cuộc sống ý nghĩa và nhiều cảm hứng.+ Người có tinh thần mạo hiểm sẽ chiến thắng tâm lí, tự tin đứng dậy và tiếp tục phấn đấu…+ Người có tinh thần mạo hiểm thường mạnh mẽ, không biết Sợ hãi, không lùi bước trước gian khó, họ dám đối mặt với tình hình nghiêm trọng, dám chấp nhận thất bại. |
Phản biện | Mạo hiểm có thể dẫn đến những thất bại nặng nề? | + Tinh thần mạo hiểm khác với liều lĩnh một cách vội vàng, nôn nóng.+ Tinh thần mạo hiểm cần đi liền với thực lực, không bảo thủ, duy ý chí, đi liền với sự nỗ lực, quyết tâm thực sự. |
Giải pháp | + Nhận thức+ Hành động | + Phê phán những người yếu đuối, lười vận động, lười suy nghĩ tìm hiểu, không dám nghĩ dám làm, không dám phiêu lưu mạo hiểm…+ Dám thử thách, vượt qua giới hạn bản thân từ những việc nhỏ. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | Nhiều bạn học sinh THPT chấp nhận mạo hiểm thi vào những thân trường tốt nhất theo đúng đam mê, sau đó bằng nỗ lực để thi đỗ. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | Nguyễn Trung Thành là nhà văn lớn lên và trưởng thành trong cả hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Ông đặc biệt thành công về đề và nhà tài văn học viết về miền núi Tây Nguyên. Như PGS.TS. Lã Nhâm Thìn từng nhận xét: Nguyễn Ngọc là một trong những nhà văn sớm mở cánh tác phẩm của văn học vào mảnh đất Tây Nguyên, trên mảnh đất ấy, nhà văn đã xây dựng được những lâu đài nghệ thuật nguy nga, tráng lệ. Những sáng tác của ông mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn, thường đề cập đến những vấn đề trọng đại, lớn lao của dân tộc. – Truyện ngắn “Rừng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa. |
Giải thích: Hình tượng sử thi,người anh hùng | – Trong văn học Việt Nam giai đoạn chống Mĩ, khuynh hướng sử thi là một khuynh hướng lớn. Tính sử thi được thể hiện trong đề tài, chủ đề tượng sử mang ý nghĩa thời đại, bàn đến những vấn đề lớn lao, những vấn đề thi: Người cộng đồng, cùng với đó là ngôn ngữ đầy trang trọng. – Nhân vật trong anh hùng sử thi là nhân vật tiêu biểu cho cả cộng đồng, là người anh hùng, người dũng sĩ của thời đại mang sức mạnh, phẩm chất lý tưởng, thể hiện qua lời nói, hành động dǜng cảm, với những chiến công hiển hách. Nhân vật anh hùng sử thi không thể tồn tại nếu không vượt qua được mọi khó khăn thử thách để giành chiến thắng. Tnú được xây dựng trên cảm hứng sử thi ấy. | |
TRỌNG TÂM 3.0 điểm | Phân tích hình tượng Tnú | – Nhân vật tiêu biểu, mang tích cách điển hình cho đồng bào Tây Nguyên .. + Tnú mang trong mình những phẩm chất đáng quý: trung thực, gan góc, dũng cảm. Những phẩm chất ấy được biểu hiện từ khi Tnú còn nhỏ đến khi đã là một chiến sĩ cách mạng. Đó là khi Tnú học cái chữ, học thua Mai đã tự lấy đá ghé vào đầu mình. Là những lần vượt con thác dữ, mình như con cá kình, tìm những khúc xiết mà vượt khiến kẻ thù không ngờ. Là đôi bàn tay như mười ngọn đuốc rực đỏ nhưng không một tiếng van xin, chỉ có ánh mắt căm hờn lửa cháy. + Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Thủ không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mǜi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. + Tnú mang trong mình tình yêu thương và lòng căm thù cháy bỏng. Tình yêu thương được thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa Tnú với buôn làng và với những người dân trong buôn. Làng Xô Man là cội nguồn, là nơi nuôi dưỡng Tnú. Nơi đây có những người thân thuộc, có gia đình bé nhỏ của anh. Những nơi thân thuộc, những người thân tế trong thương của anh đã bị giặc giày xéo. Anh chứa trong lòng niềm căm làn ha. thù: mối thù ấy được tích góp qua năm tháng, đó là những vết chém Thi và hàng dọc ngang lưng khi Tnú còn nhỏ, là đôi bàn tay chỉ còn hai đốt, nhưng Bà này là ng sâu sắc nhất, ám ảnh nhất là bọn giặc đã cướp đi gia đình nhỏ của anh, nữ t rong đi những con người thân thiết nhất của anh. – Nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên: + Bi kịch của Tnú là một bi kịch điển hình. Khi anh dùng tay không để đấu tranh với toàn giặc, gia đình anh không cứu được, trái lại còn bị đốt chảy đôi bàn tay. Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù. + Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hờn và tôi luyện ý chí chiến đấu. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vǜ khí: Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo, dùng bạo lực cách mạng mới có thể tiêu diệt được cái oa nhanh và ác, cái bạo lực. – Đôi bàn tay quả báo – sức mạnh của lòng căm thù và ý chi phí thường: + Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghê vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây… + Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Thủ chính là đoạn cao trào của truyện, cǜng là đoạn đời bi tráng nhất của nhân vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cà ruột gan Thú, anh “nghe lựa chảy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi”. Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Thú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lǜ giặc, mở ra trang sử đấu tranh mới của dân làng. + Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm. Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cǜng như số phận và chiến công của Tnú đểu gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy. |
LIÊN HỆ 1 điểm | Liên hệ hình tượng người anh hình Đăm săn | – Hình tượng Đăm Săn là hình tượng người anh hùng vô cùng đẹp đã, mang sức mạnh phi thường, tầm vóc. Điều này được thể hiện qua người anh những chiến công vang danh khắp thiên hạ của chàng. Từ việc chiến thắng các tù trưởng hùng mạnh, chặt đổ cây thần, đi bắt nữ thần mặt trời về làm vợ… chàng đã hiện lên như một tù trường mạnh mẽ nhất, oai dǜng nhất, mang chở niềm ước mơ của cộng đồng về cuộc sống phồn thịnh, mở mang. – Hình ảnh của người anh hùng này nổi bật lên trong chi tiết đó là cuộc chiến đấu để cứu Hợ Nhị, cuộc chiến với tù trưởng sắt Mtao Mxây, dù kẻ thù mưu mô, nhưng bằng sự dǜng cảm, phẩm chất tuyệt vời, cộng với sự trợ giúp của cộng đồng, Đăm Săn đã chiến thắng vẻ vang. |
Vẻ đẹp của người anh hùng sử thi | – Ta đều thấy, những anh hùng sử thi với những phẩm chất phi thường, người anh hiện lên ngạo nghễ, dũng mãnh với những kì tích mà hiếm kẻ thường hùng sử nào làm được. Đó là những người anh hùng đại diện cho phẩm chất, cho sức mạnh, cho tính cách và trở thành niềm tự hào của cộng đồng – Cả hai tác phẩm đều thể hiện được quá trình trưởng thành và phát triển của nhân vật anh hùng, đồng thời cho thấy niềm vinh quang, về đẹp của người anh hùng không rời xa lợi ích, mối quan hệ với cộng đồng. Người anh hùng chỉ đẹp khi gắn với mối quan hệ cộng đồng. |
ĐỀ SỐ 7
I. ĐỌC-HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
KHỞI NGHIỆP
MUÔN THỰC HIỆN GIẤC MƠ – VIỆC ĐẦU TIÊN LÀ TÍNH GIÁC!
Status trước của tôi được hơn 25 ngàn like, được hơn 2.000 share, và rất nhiều người gửi tin nhắn PM riêng hẹn cafe và chia sẻ các câu chuyện bản thân. Một khởi đầu rất thú vị cho những ngày đầu tiên khởi nghiệp – sau 15 năm làm thuê.
Tôi không phải là Giáo sư hay Bác học lỗi lạc – nhưng tôi tin rằng xã hội sẽ tốt đẹp hơn nếu như người đi trước thẳng thắn chia sẻ với người đi sau, người được 5 điểm dạy người được 2 điểm…
Xã hội tốt đẹp hơn khi ta giúp đỡ những người quanh ta từ việc nhỏ nhất!
Một câu hỏi mà nhiều người hỏi tôi nhất: rằng nên bắt đầu từ đâu? Tôi nghĩ rằng bạn nên bắt đầu từ việc hãy Vận động và Tỉnh giấc.
Hãy cafe với người mình thích, hãy đọc 1 cuốn sách và chia sẻ với người mình quỷ, hãy cafe với người mình tôn trọng, hãy tìm 1 ai đó tư vấn định hướng cho cuộc đời mình. ..
(Dẫn theo facebook Hiếu Chí Trần, ngày 28/04/2017)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?
Câu 2. Văn bản nói về nội dung gì?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Tác giả của văn bản trên đã xin thôi việc và bắt đầu khởi nghiệp ở lứa tuổi 40. Quá trình làm việc trước đó, tác giả tự gọi là “quá trình trải nghiệm”, kéo dài tới hơn 15 năm. Ngược lại, ngày nay, có rất nhiều bạn trẻ khát khao thành công và cho rằng cần bắt tay khởi nghiệp từ những ngày tháng trẻ tuổi đầy nhiệt huyết.
Bằng một đoạn văn khoảng 200 chữ, anh chị hãy bàn luận về vấn đề trên.
Câu 2 (5 điểm)
Có ý kiến cho rằng, cả Trương Ba và Chí Phèo đều là những kiếp người bị quyền lực nhào nặn, đầy đưa vào chốn đường cùng của số phận. Phân tích bi kịch tha hoá của Chí Phèo và Trương Ba để làm sáng tỏ.
———– HẾT ———-
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính: nghị luận. Tác giả nêu quan điểm và đưa lí lẽ bàn luận về vấn đề khởi nghiệp theo ý kiến riêng của mình.
Câu 2.
Văn bản nói về ý định khởi nghiệp của tác giả và điều quan trọng đầu tiên khi khởi nghiệp, đó là có định hướng rõ ràng.
Câu 3.
“Bắt đầu” có nghĩa là bắt đầu khởi nghiệp, bắt đầu thực hiện ước mơ lí tưởng và đam mê thực sự của cuộc đời mình, sống một cuộc đời đầy cảm hứng.
Quan niệm cần bắt đầu từ sự vận động và Tỉnh giấc là muốn nhắc nhở mỗi người cần sự chuẩn bị cả hai phương diện: vận động là chuẩn bị sẵn sàng về thể lực, vật chất, phải dám xông pha, sẵn sàng đối diện với những vất vả, gian nan, khó khăn. Tỉnh giấc là sự chuẩn bị về tinh thần, ý thức, hiểu rõ mình thực sự muốn gì, quyết tâm thực hiện nó, sẵn sàng đón nhận những tư tưởng mới mẻ, độc đáo và thậm chí là phản biện lại những gì trước đây mình đã biết.
Từ đó, nhắc nhở những ai muốn xây dựng hoài bão lí tưởng phải biết trau dồi hành trang cho mình về mọi mặt: tư tưởng, tinh thần, thể lực, vật chất, người đồng hành,…
Câu 4.
– Về hình thức: 5 – 7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
– Về nội dung:
+ Nêu tên và giới thiệu sơ lược về tiểu sử của nhân vật hoặc nội dung chính của cuốn sách.
+ Nêu cảm nhận bản thân và lí do thích nhân vật cuốn sách đó: sự nghiệp nhân cách đáng trân trọng của nhân vật; giá trị nghệ thuật nhân đạo nhân văn giáo dục giải trí của cuốn sách,…
+ Thông điệp rút ra từ nhân vật cuốn sách: lòng quyết tâm, tinh thần nhiệt huyết, sự kiên trì,… (nên là một thông điệp nhân văn và mang tính giáo dục).
II. LÀM VĂN Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề+ Giải thích | + Khởi nghiệp + Khởi nghiệp là một mốc bắt đầu cho tiến trình xây dựng ước mơ, hoãi bão lí tưởng của một người hoặc một tập thể, nhằm thể hiện khả năng bản thân và đóng góp công sức của mình, giá trị của mình cho cộng đồng, xã hội. Tất nhiên, hoài bão cá nhân không được đi ngược lại với tư tưởng đạo lí, với những quy chuẩn chung của xã hội. |
Luận bàn | Khởi nghiệp khi nào là hợp lí? | + Khởi nghiệp vô cùng quan trong trọng trong xã hội, giúp – phát triển xã hội, khẳng định bản thân. + Thời điểm, hoàn cảnh, động lực và quyết định khởi nghiệp của mỗi người đều khác nhau.Bởi lẽ: ước mơ của mỗi người một khác nhau điều kiện của mỗi người đều khác biệt+ Khởi nghiệp cần có quá trình chuẩn bị về nhiều mặt, chỉ có người trong cuộc mới có thể hiểu rõ khi nào là hợp lí để bắt đầu. + Khởi nghiệp là tiến trình của cá nhân nhưng không có ai khởi nghiệp đơn độc, ai cũng cần sự hỗ trợ, giúp đỡ, động viên và cần một cơ hội. |
Phản biện | Khởi nghiệp có khi chỉ là ngẫu nhiên, không do mình quyết định. | Cơ hội đến ngẫu nhiên nhưng quyết định thực hiện hay không là do con người. |
Giải pháp | Làm gì khi khởi nghiệp | + Cần có ý chí khởi nghiệp + Cần mạnh dạn hành động, không ngại khó ngại khổ + Khởi nghiệp nên đi từ nhỏ đến lớn, biết lượng sức và biết hoài bão. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | Xác định mục tiêu ngay từ hôm nay để chủ động tìm kiếm thân thời cơ. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | + Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một tài năng nhiều mặt, một nhà văn xuất sắc của văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông sáng tác nhiều thể loại và ở thể loại nào cǜng gây được tiếng vang. Đặc biệt ở thể loại kịch, ông được đánh giá: Cây bút vàng của sân khấu kịch Việt Nam. Tài năng ấy đột ngột qua đời trong một vụ tai nạn giao thông thảm khốc khi tài năng đương ở độ chín. + Quan niệm của Lưu Quang Vũ trong sáng tác đã được ông phát biểu như sau: Động lực xui giục tôi viết kịch ấy chính là động lực khiến tôi làm thơ. Đó là khát vọng được bày tỏ, được thể hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, để tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến. + Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành công một vở kịch nói hiện đại, thể hiện tư tưởng triết lý, ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Vở kịch chia làm 7 cảnh, đoạn trích là cảnh cuối cùng. – Nếu như ví văn học dân tộc giống dãy núi non trùng điệp, thì Nam Cao chính là một đỉnh cao trên miền non cao đó, đoản mệnh trong đời, những tên tuổi Nan Cao sẽ còn sống mãi cùng văn học nghệ thuật, đặc biệt là dấu ấn ông để lại trong trào lưu hiện thực phê phản giai đoạn 1930 – 1945. Các tác phẩm của ông vừa rất mực chân thành vừa có một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, vừa gân guốc, lại vừa thắm thiết trữ tinh, Nhà văn có sở trường trong miêu tả tâm lý con người, nhất là khi đi vào miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp. – Chí Phèo không những là tác phẩm xuất sắc nhất trong văn nghiệp của nhà văn Nam Cao, nó còn xứng đáng là một kiệt tác của văn học giai đoạn đương thời. Một tác phẩm lớn về nhiều mặt dù chỉ chứa đựng trong dung lượng của một truyện ngắn. |
Giải thích | – Những kiếp người bị quyền lực nhào nặn: Ở đây để nói về những tầng lớp thống trị, những bàn tay quyền lực chi phối đến đời sống nhân dân, đặc biệt là với những kẻ thấp cổ bé họng. Họ không có quyền lựa chọn cuộc sống, cách sống. Họ bị chi phối bởi những thế lực lớn mà không cưỡng lại được. Bi kịch tha hoá: Để nói về sự thay đổi mang ý nghĩa tiêu cực, đó là một quá trình biến đổi và đẩy nhân vật vào chốn bị kịch, đặc biệt là sự xa lánh của mọi người, Muốn quay trở lại cũng không được. | |
TRỌNG TÂM 4,0 điểm | Bi kịch tha hóa của Trương Ba | – Trương Ba là một ông lão làm vườn hiền hậu, yêu thiên nhiên cây cỏ, một người cha, người chồng, người ông mẫu mực, một trí tuệ mẫn tiệp. Vì lỗi của Nam Tào, Bắc Đẩu mà bị chết oan. Để sửa sai, đấng nhà trời đã cho ông nhập xác hàng thịt. Hồn một đẳng, xác một nẻo. – Trải qua thời gian, Trương Ba dần bị xác thịt làm cho mụ mị, tha hoá, biến đổi đến mức ông ngỡ ngàng, không còn nhận ra chính mình. Màn độc thoại mở đầu đoạn trích giữa Trương Ba và xác hàng thịt đã bật lên sự tha hoá của Trương Ba. – Nếu như trước đây, Trương ba là một người thanh cao, một con người đứng đắn, thì nay hồn Trương Ba ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng thấp hèn của thân xác: “Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cố nghẹn lại… Đêm In áo thu n hôm đó, suýt nữa thì…”. Là người có tuổi, lại rất tự trọng, điều đó khiến Trường Ba đau đớn, và khó có thể tha thứ cho bản thân. – Chính hồn đã lâng lâng cảm xúc trước các món ăn dung tục “tiết canh, cổ hủ, khẩu đuôi”. Những món ăn của phường đồ tể nay lại khiến một con người thanh đạm thích thú, đó là điều khó có thể chấp nhận. – Trương Ba từ một người cha mẫu mực, luôn khuyên dạy con những điều hay lẽ phải, thì giờ trở thành con người thô lỗ, phũ phàng. Khi khuyên thằng con đi vào con đường ngay thẳng không được, ông đã nổi giận “tát thằng con toẻ máu mồm, máu mũi”, trong cái tát nảy lửa đó, có sự góp sức của bàn tay đồ tể. Và cả tính cách đồ tể nữa.- Một chi tiết thêm để nói về sự tha hóa của Trương Ba trong cuộc đối thoại với đứa cháu gái. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cải chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái điều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nỏ, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Hay nói cách khác, ông Trương Ba làm vườn khéo léo nay còn đâu, chỉ còn con người thô vụng, đụng đâu hỏng đó. – Dần dần, Trương Ba bị xa lánh, bị người thân cự tuyệt. Ông đau khổ vì đánh mất chính mình. Tìm đến Đế Thích, ông chọn cái chết để được giải thoát. |
Bi kịch tha hoa của Chí Phèo | – Chí Phèo vốn là anh nông dân chất phác và lương thiện. Chú giàu lòng ở lại hoá của B tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị: “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. – Thế nhưng, trước sự ghen tuông của Bá Kiến, Chí đã bị đẩy vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân đã phát huy tác dụng. Ra tù, Chí Phèo mang bộ mặt gớm ghiếc, biểu hiện của sự thay đổi về nhân hình (bước đầu tiên của quá trình tha hóa): “Cải đầu thì trọc lóc, cải răng cạo trắng 4 hớn, cái mặt thì đen mà rất công câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nải đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét trạm trổ rồng phượng với một ống tướng cầm chùy, cả hai cảnh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. – Anh Chí – anh canh điền khỏe mạnh, lành như đất, mỗi lúc bóp chân cho bà Ba lại xấu hổ, đỏ mặt đã không còn một chút bóng dáng nào trong cái bộ dạng ấy.Chí Phèo về làng tức là được trả lại quyền công dân, được về với con người nhưng oái ăm thay Chỉ lại hoàn toàn lạc loài, hoàn toàn xa lạ. Hắn không chỉ thay đổi về nhân hình mà còn thay đổi cả nhân tính. – Lần đầu sau khi ra tù, Chỉ đến Bá Kiến với ý định trả thù. Nhưng ý đồ ấy còn mơ hồ và nhanh chóng bị đánh gục trước sự xảo quyệt của cụ Bá. Song, tội ác của Bá Kiến còn lớn hơn khi hắn đẩy con người này xuống hàng thú vật, biến Chí Phèo thành công cụ của mình. Đến nhà Bá Kiến lần thứ hai với bộ dạng liều lĩnh và gàn dở, Chí Phèo đã rơi vào sách lược “dùng thẳng đầu bò trị thằng đầu bò” của Bá Kiến. – Từ đây, Chí Phèo trượt dài trên dốc tha hoá và hắn bị đẩy hẳn ra khỏi xã hội loài người. Hắn quên cả cuộc đời của chính hắn, không còn ý thức về sự tồn tại trong không gian, thời gian.Cuối cùng con quỷ dữ đã chết trong sự ghẻ lạnh của mọi người, Chỉ đủ đã thức tỉnh và khao khát lương thiện, nhưng xã hội không chấp nhận hắn. Hắn bị đẩy đến chỗ cùng đường tuyệt lộ. | |
Bàn luận đánh giá | – Có thể nói, cả hai nhân vật đều là những nạn nhân khố khổ, bị tầng lớp đánh giá thống trị thao túng, đưa đẩy, dẫn dắt cuộc đời. Và bằng ngoại cảnh mới, môi trường mới, tiếp xúc với những điều xấu xa, họ bị tha hoá, rồi đánh mất chính mình.Bản chất của hai nhân vật đều thiện lương, và phần người đó đã đánh thức họ, khiến cả hai quyết định không thể sống tiếp cuộc sống không phải chính mình đó. Không thể chấp nhận được con người hiện tại đó. – Thế nhưng, với Chí Phèo, kết thúc của hắn thật đau đớn, bởi hắn không nhận được sự cảm thông, và sẻ chia. Hơn thế nữa, hắn chết, nhưng hiện tượng Chí Phèo còn tiếp diễn, nghĩa là một bi kịch vòng lặp lại tái diễn.Còn với Trương Ba, chấp nhận cái chết, thật ra đó là một cái kết có hậu, bởi vì Trường Ba chết để được là chính mình. Chỉ khi được là chính mình, mới có hạnh phúc. Và Trương Ba, ông Trương Ba hiền hậu còn sống mãi trong trái tim người thân, gia đình ông, như một tấm gương về đạo đức sống. |
ĐỀ SỐ 8
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Giá trị bản thân khi biết cách cho đi
Ngôi sao Hồng Kông Lý Liên Kiệt, trong một lần trả lời phỏng vấn, đã kể câu chuyện của bản thân anh ấy.
Người dẫn chương trình hỏi: “Anh đóng phim, vừa có tiền bạc, lại có danh tiếng, đã quá bận rộn mà sao vẫn không ngừng vất vả bỏ công sức, tiền bạc làm từ thiện? Qua những việc ấy, anh có được niềm vui như thế nào?”
Lí Liên Kiệt nói: “Thứ cho đi mới là của bạn!”
Người dẫn chương trình nghi ngờ hỏi: “Chẳng phải thông thường chúng ta cho rằng, thứ mang về mới là của mình sao?”
Lí Liên Kiệt nói: “Có một câu chuyện như thế này. Tôi có một chiếc đồng hồ, là bạn tôi tặng sinh nhật, vô cùng quý giá. Thường thì những món quà chúng ta đã tặng đi rồi sẽ không còn nhớ tới nữa. Chiếc đồng hồ này tôi đã đeo mười năm rồi, mỗi lần đeo chiếc đồng hồ này tôi lại nhớ đến người bạn ấy. Đồng hồ đeo trên người tôi, nhưng kết quả vẫn là của anh ấy”.
Lí Liên Kiệt nói tiếp: “Cho đi mới là của bạn! Thứ giữ trên người bạn, chỉ là tạm thời bảo quản, cuối cùng khi bạn nằm xuống, cho dù bạn có muốn hay không thì đều phải bỏ lại chúng.”.
Đúng như Lí Liên Kiệt đã nói, […] nếu không biết tài sản kiếm được là để có thể cho đi nhiều hơn, thì cho dù chúng ta đeo vàng đầy người thì cǜng như không có gì. Bởi vì chúng ta không làm chính mình, chỉ là đang làm nô lệ cho công thức gen. Cái tôi thật sự là cái tôi có thể cho đi. Cho dù thứ cho người khác là tiền bạc, hay nụ cười và sự quan tâm, cho dù chúng ta cho đi bao nhiêu, chỉ cần chúng ta có thể cho đi, đó chính là đang làm cái tôi thật sự.
Giá trị của chúng ta chính là ở bản thân chúng ta, niềm vui của chúng ta cǜng vậy. Bản thân bạn chính là bạn lúc này, hãy thử nghĩ xem hiện tại, có thể đem cho người khác điều gì, bạn sẽ hiểu mình đang làm cái tôi thật sự hay là nô lệ của gen. Tìm lại cái tôi đã mất, còn phải phát hiện: Cái tôi có nghĩa là có thể cho đi.”
(Tìm lại cái tôi đã mất – Trình Chí Lương, dẫn theo https://www.downloadsachmienphi.com)
Câu 1. Văn bản trên sử dụng phương thức biểu đạt chính nào?
Câu 2. “Nô lệ của công thức gen” có thể hiểu như thế nào? Theo tác giả, khi nào ta là “nô lệ cho công thức gen”?
LÀM VĂN (7 điểm) Câu 1 (2 điểm)
Bàn luận về ý kiến: “Giá trị của chúng ta chính là ở bản thân chúng ta”.
Câu 2 (5 điểm)
Phân tích nghệ thuật lập luận trong Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Từ đó liên hệ với Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi để thấy được sức mạnh lập luận, sự sắc bén của hai ngòi bút tài năng.
——–Hết——
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
Câu Văn bản sử dụng phong cách ngôn ngữ chính luận.
Câu 2.
Nô lệ của công thức gen là khi bạn “không làm chính mình”, bạn bị chi phối bởi những điều được quy định sẵn trong gen.
Theo tác giả, ta sẽ chỉ là nô lệ cho công thức gen nếu như “không biết tài sản kiếm được là để có thể cho đi nhiều hơn”, vì “cái tôi thực sự là cái tôi có thể cho đi”..
Câu 3.
Về hình thức: 5 – 7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
Về nội dung:
+ Nêu quan điểm của bản thân: đồng tình, không đồng tình,…
+ Bàn luận ngắn gọn làm rõ cho ý kiến cá nhân. Sau đây là một gợi ý:
“Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Người biết cho đi cũng là người giàu có hơn hết. Bởi lẽ, thứ cho đi mới là của bạn. Bạn cho đi được tức bạn đã thực sự quyết định được vận mệnh của vật đó. Và quan trọng hơn, tuyệt vời làm sao khi người nhận mang vật bạn cho bên mình mà không bao giờ quên người mang đến cho họ chính là bạn. Và có những thứ bạn cho đi, bạn không thấy mất gì cả, những người nhận thì được nhiều biết bao nhiêu. Đó là gì mà thần kì vậy? Không Không hệ thần kì, mà là kì diệu. Là nụ cười. Là tình yêu. Là sự tử tế ở đời…
Câu 4.
- Tự nêu theo quan điểm cá nhân về điều quý giá nhất có thể cho đi: trí tuệ, lòng trắc ẩn, tiền của,…
- Đưa ra lí lẽ thuyết phục.
II. LÀM VĂN Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hương trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề + Giải thích | + Giá trị của bản thân con người là ở đâu? Theo Tinh Chi Lương, giá trị của chúng ta chính là ở bản thân chúng ta. + Tức là, chính mỗi người tạo nên giá trị, ý nghĩa cho cuộc đời họ. |
Luận bàn | Giá trị con người là do chính mỗi người quyết định | + Giá trị vật chất chi ý nghĩa khi đó là đồng tiền tự kiếm được. + Giá trị trí tuệ là khi con người biết trau dồi, bồi dưỡng trị thức qua quá trình học tập, lao động. + Giá trị tinh thần chỉ có khi con người biết sống tử tế, biết sẻ chia,… |
Phản biện | Vậy những kẻ vô nhân tính vẫn đứng ở tầng trên của xã hội? | Giá trị có thể là giả trong một khoảnh khắc nào đó. + Một kẻ cướp giàu có, một kẻ ăn bám sung sướng đủ đầy + Một giáo sư ít học mua bằng + Một kẻ ác giả nhân giả nghĩa |
Giải pháp | + Cộng đồng+ Cá nhân | + Sẽ có lúc bị xã hội vạch mặt + Quan trọng hơn, những kẻ đó có thể che mắt mọi người, nhưng tự bản thân họ không thể nhìn nhận giá trị của họ, họ không thể tự lừa dối mình. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | Bồi đắp cả Tâm – Trí để thực sự trở thành con người có giá trị thực |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: (0.5 điểm)
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
- Điểm cộng cho bài viết sáng tạo.
Yêu cầu nội dung: (4.5 điểm)
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – Hồ Chí minh – vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu của dân tộc. Cuộc đời của Người là cuộc đời của một trí tuệ lớn, nhân cách lớn. – Hồ Chí Minh còn được biết đến là một nhà văn, một nhà thơ. Những sáng tác của Người để lại có thể xem là những di sản quý giá cho kho tàng văn học dân tộc. – Hồ Chí Minh xem văn học là vũ khí chiến đấu. Khi cầm bút, Người luôn xác định rất rõ ràng mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức tác phẩm. – Phong cách sáng tác trong văn chính luận: Ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ lí lẽ đanh thép. Những áng văn chính luận tiêu biểu của Hồ Chí Minh cho thấy tác giả viết không chỉ bằng lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo… mà còn bằng cả tấm lòng yêu nước nồng nàn. – Bản Tuyên ngôn Độc lập chính là văn kiện sáng giá, thể văn phong, nghệ thuật lập luận của một ngòi bút chính luận bậc thầy. – Trong hoàn cảnh đất nước đang ở trong tình thế vô cùng cấp bách: khi nền độc lập mới giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động quốc tế, đặc biệt là thực dân Pháp muốn quay lại hòng cướp nước ta một lần nữa, Tuyên ngôn Độc lập đã ra đời trong tình thế ngặt nghèo như thế. Đối tượng hướng tới của bản Tuyên ngôn là quốc dân đồng bào và toàn thế giới. Những lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm một lần nữa nô dịch đất nước ta, đặc biệt là bọn thực dân. |
TRỌNG TÂM 3.0 điểm | Nghệ thuật lập luận trong Tuyên ngôn Độc lập | – Lập luận kế thừa, sáng tạo trong cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn:+ Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ. Hai lời trích dẫn nhấn mạnh vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân – đó là những chân lý lớn của nhân loại, không ai có thể bác bỏ được. Hơn nữa đây là lời tuyên ngôn của chính hai nước lớn cho nên lời trích có hiệu quả cao: chặn đứng âm mưu tái chiếm nước ta của đối phương bằng cách dùng “gậy ông đập lưng ông”, bọn Thực dân và Đế quốc không thể vi phạm, không thể phản bội lời thề của tổ tiên thuật lập họ, đồng thời cũng khẳng định tư thế đầy tự hào của dân tộc khi đặt luận trong ba cuộc Cách mạng, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau. + Từ việc trích tuyên ngôn của nước Mĩ, Bác đã dùng phương pháp Độc lập suy luận trực tiếp “suy rộng ra” để khẳng định dân tộc Việt Nam có quyền hưởng tự do, bình đẳng như tất cả mọi dân tộc khác. Sau lời khẳng định đó, Người trích dẫn thêm bản tuyên ngôn của Pháp đề nhấn mạnh, khẳng định dân tộc Việt Nam có đủ tư cách hưởng độc lập, tự do, bình đẳng. Từ những luận cứ như thế sẽ dẫn đến kết luận tất yếu “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. + Đoạn mở đầu lập luận chặt chẽ, thể hiện tính chất khéo léo, kiên quyết và đầy sáng tạo. – Lập luận chứng minh, bác bỏ trong cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn: + Để bác bỏ luận điệu Pháp có công khai hóa nước Việt Nam, Bác dùng những dẫn chứng trên hai phương diện: chính trị và kinh tế:Pháp rêu rao “khai hóa tự do” cho Việt Nam nhưng “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Pháp rêu rao “khai hóa bình đẳng” cho Việt Nam nhưng “lập ra ba chế độ khác nhau ở Bắc, Trung, Nam để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”. Pháp rêu rao “khai hóa bác ái” cho Việt Nam nhưng “chúng thi hành những luật pháp dã man”. + Để bác bỏ luận điệu Pháp có công bảo hộ, Tuyên ngôn dùng sự thật lịch sử để thuyết phục: “Năm 1940, Nhật đến Đông Dương, thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật”. Năm 1945, Nhật hất cẳng Pháp “Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng”. Khẳng định “Trong 5 năm Pháp đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. + Để bác bỏ luận điệu Pháp ủng hộ đồng minh, Bác đưa ra sự so sánh bằng sự thật lịch sử: “Pháp hai lần bán nước ta cho Nhật. Việt Minh. kêu gọi Pháp liên minh chống Nhật thì Pháp lại “thằng tay khủng bố Việt Minh”. + Những lập luận chứng minh về lập trường chính nghĩa của nhân dân ta: Nhân dân ta đã đứng về phe Đồng Minh chống Phát xít. Nhân dân ta đã làm nên cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tiên phong chống Nhật, giành lấy đất nước từ tay Nhật, để lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa “Pháp chạy. Nhật hàng. Vua Bảo Đại thoải vị”. Quyền độc lập của dân tộc Việt Nam phù hợp với nguyên tắc dân chủ, bình đắng của Đồng Minh ở hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn. – Đoạn này, với sự lập luận chặt chẽ, logic theo quan hệ nhân quả, dẫn chứng xác thực và đầy sức thuyết phục để làm nổi bật cở sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn. – Kế thừa từ các lập luận về cơ sở pháp lý và thực tế, Hồ Chí Minh đã đưa ra lời tuyên bố: + Khẳng định “Nước Việt Nam có quyền” và “Sự thật đã trở thành một nước độc lập”. Đây là lời khẳng định và là lời tuyên bố công khai.+ Bày tỏ quyết tâm “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”, thể hiện quyết tâm, kêu gọi đồng bào cả nước chung sức giữ gìn độc lập, tự do vừa giành được. – Văn phong của bạn Tuyên ngôn đanh thép, sắc sảo mà vô cùng trong sáng, giản dị, súc tích, giàu nghệ thuật. – Từ ngữ sử dụng chính xác, giản dị, dễ hiểu, gần gǜi. Lời văn trong sáng nhưng không làm mất đi tính hiện đại. Đó là trường hợp không ngại sử dụng những câu đài có cấu trúc phức tạp, các loại câu khẳng định liên tiếp (khẳng định, phủ định đối tượng bằng câu khẳng định, phủ định của phủ định), các câu liệt kê, câu song hành… phối hợp với sự liên kết cấu, đoạn chặt chẽ, mang giai điệu phù hợp, đầy hình ảnh và phép tu từ. Tất cả lại thật gãy gọn, khúc chiết. |
LIÊN HỆ | So sánh Bình Ngô đại cáo | – Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ra đời vào cuối năm 1427 đầu năm 1428, sau khi nghĩa quân Lam Sơn đã giành chiến thắng lẫy lừng đại cáo trước quân Minh. Đó là bản tổng kết đầy hào hùng về quá trình gian nan của nghĩa quân Lam Sơn từ buổi đầu đến ngày giành thắng lợi. – Điểm tương đồng giữa Tuyên ngôn Độc lập và Bình Ngô đại cáo: + Hai tác phẩm đều có chung ý nghĩa tuyên bố rộng rãi cho toàn thể nhân dân được biết về nền độc lập tự do của dân tộc. + Hai bản tuyên ngôn đều xuất phát từ tư tưởng nhân đạo của dân tộc, đó là tư tưởng an dân, là quyền tự do, bình đẳng, đều có nội dung tối cáo tội ác “trời không dụng đất không tha” của giặc, lược thuật tóm tắt quá trình chiến đấu của nhân dân vì độc lập tự do. Và đồng thời, hai bản tuyên ngôn đều có lời tuyên bố hòa bình, và ý chí quyết tâm giữ gìn nền tự do độc lập đó. – Điểm riêng của Bình Ngô đại cáo: + Về đối tượng hướng tới: ngoài dân chúng, Bình Ngô đại cáo đã khẳng định quyền độc lập của nước Nam với đất nước phương Bắc. + Về cách mở đầu: Bình Ngô đại cáo mở đầu bằng một chân lý lịch sử. + Cơ sở pháp lý: Bình Ngô đại cáo dựa trên đạo lý nhân nghĩa: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Quân Lam Sơn do Lê Lợi dấy nghĩa trước để yên dân,lấy đạo lý, lấy nhân nghĩa mà đứng lên trừ bạo tàn.Đó là gốc cội để quân nghĩa quân dấy nghĩa mà trừ bạo tàn. |
0,25điểm | Đánh giá, nhận xét | – Có thể nói, cả hai tác phẩm đều thuộc thể văn chính luận có bố cục, chặt chẽ (3 phần) lập luận sắc sảo, lý lẽ hùng hồn, mang tính luận chiên cao; dân chứng rõ ràng cụ thể, chính xác, tình cảm thiết tha.. .- Không chỉ đơn giản là bản tổng kết quá trình đấu tranh, nêu cao chân lý, tuyên bố quyền độc lập, hai bản Tuyên ngôn còn gây được xúc động mạnh mẽ, chính bởi sức mạnh trong từng lời văn: đó là sức mạnh của cách dùng từ, cách triển khai luận điểm, luận cứ, cách sử dụng các lập luận khéo léo mà đanh thép, dõng dạc mà thuyết phục. – Qua đó, ta càng khâm phục những ngòi bút đã làm nên những ảng thiên cổ hùng văn, đó chính là những ngòi bút chính luận mẫu mực, bậc thấy. |
ĐỀ SỐ 9
I.ĐỌC – HIỂU (3 điểm) Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:
TỰ BẰNG LÒNG
Nhiều khi đã dạy ta mềm mỏng
Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành
Nỗi buồn đánh thức hy vọng
Giữa thế giới không nhiều may mắn
Ta học cách vừa lòng với mình
Chia sẻ sự bình tâm của cỏ
(Hy vọng, Nguyễn Khoa Điềm, dẫn theo https://www.thivien.net)
Câu 1. Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2. Tác giả đã đưa ra những khái niệm đối lập nào? Sự đối lập đó có ý nghĩa gì?
Câu 3. Anh Chị hiểu thế nào về “sự bình tâm ”mà tác giả nhắc đến?
Câu 4. Từ văn bản, nếu thông điệp có ý nghĩa nhất với anh/ chị.
II. LÀM VĂN (7 điểm) Câu 1 (2 điểm)
Bằng đoạn văn 200 chữ, bàn luận về quan niệm “Ta học cách vừa lòng với mình”.
Câu 2 (5 điểm)
Có ý kiến cho rằng, cả Nguyễn Minh Châu và Trần Tế Xương đều đã xây dựng nên những hình tượng người phụ nữ giàu đức hi sinh, những viên ngọc trong cuộc đời lấm láp. Qua việc phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa) và nhân vật người vợ (Thương vợ). Hãy làm sáng tỏ.
———– HẾT ———-
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Câu 2.
– Tác giả nêu ra ba cặp khái niệm đối lập: Cứng rắn (đá) – mềm mỏng
– Sự tàn nhẫn – điều lành Nỗi buồn – Hi vọng
– Ý nghĩa: Những khái niệm đối lập luôn tồn tại trong cuộc sống, chúng bổ sung cho Qua đó, người viết muốn nêu lên một cách nhìn nhận lạc quan, những khó khăn, tiêu cực lại nhắc nhở ta nghĩ tới những điều tích cực.
Câu 3.
– “Bình” là bằng phẳng, an yên
– “Tâm” là tấm lòng, là tinh thần, suy nghĩ
– “Bình tâm” là giữ được tinh thần luôn bình yên, không bị những thăng trầm của cuộc sống làm cho xao động, bất định.
Có nhiều hương trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề+ Giải thích | + Vừa lòng với chính mình + Vừa lòng với chính mình là một thái độ, quan điểm sống biết đủ, biết điều chỉnh những ham muốn và yêu cầu về cuộc sống. |
Luận bàn | Bàn luận về thái độ vừa lòng với mình Tích cực Hạn chế | + Mặt tích cực: •Đó là biểu hiện của sự lựa chọn hạnh phúc: yêu những gì mình có. •Cuộc sống trở nên dễ chịu và đơn giản khi mỗi người biết yêu chính mình. •Tránh được thái độ so sánh, đố kị. • Nhìn nhận thất bại một cách lạc quan. + Mặt hạn chế: • Có thể dẫn đến thái độ ỷ lại, không cầu tiến. • Phân biệt tự bằng lòng với bỏ cuộc, nản lòng. |
Phản biện | Tự vừa lòng có khiến ta không thể phát triển được bản thân? | Vậy làm sao có thể có những thành tựu lớn khi ta cứ tự bằng lòng với chính mình. |
Giải pháp | Làm thế nào để biết tự vừa lòng một cách tích cực. | + Vừa lòng với chính mình phải dựa trên cảm giác hạnh phúc, dựa trên, mục đích mình để ra, chứ không phải dở chừng bỏ cuộc.+ Hãy ngừng so sánh, đơn giản hóa cuộc sống.+ Giữ thái độ lạc quan và tinh thần khoáng đạt, yêu bản thân mình. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | Suy nghĩ tích cực hơn, đề ra mục tiêu vừa sức. |
Câu 2 (5 điểm)
– Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cản thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ: – Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Chiếc thuyền ngoài xa và Thường vợ – Dạng bài: So sánh, bàn luận ý kiến – Yêu cầu: Làm rõ được vẻ đẹp của hai nhân vật (so sánh từ đó nhận xét về vẻ đẹp của hai nhân vật được khắc hoạ. | ||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là gương mặt nhà văn tiêu biểu trong văn học giai đoạn chống Mỹ và sau giải phóng. Từ những năm 80 của thế kỉ XX, sáng tác của Nguyễn Minh Châu chứng minh ông luôn đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Ông là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kǶ đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự. Trong thời kì nào Nguyễn tài xỉu khi thi Minh Châu đều sáng tác theo phương châm đi tìm “hạt ngọc” ẩn giấu trong tâm hồn mỗi con người. – Chiếc thuyền ngoài xa được in lần đầu trong tập Bến quê, sau được tác giả lấy làm tên chung cho cả tập truyện ngắn từ truyện Bức tranh trở đi, in năm 1987. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu trong văn nghiệp của Nguyễn Minh Châu, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. – Tú Xương, một gương mặt đặc biệt trong số những nhà Nho cuối mùa, sống trong giai đoạn đây tạo loạn của lịch sử. Ba bảy năm của cuộc đời Tú Xương (1870 – 1907) nằm trọn trong thời kǶ đất nước vô cùng rối ren. Tú Xương vẫn được hay nhắc đến bởi tài năng, bút lực dồi dào của một nhà trào phúng xuất sắc. – Tuy nhiên, Tú Xương còn được người đời ngợi ca bởi mảng thơ trữ tình, đặc biệt là những bài thơ viết về người vợ tảo tần của ông, niềm hạnh phúc mà có lẽ duy nhất ông có suốt cuộc đời đầy những thất bại và niềm phẫn uất. Thương vợ là một tác phẩm như thế. |
Giải thích | Hình tượng người phụ nữ – những viên ngọc giữa cuộc đời lấm láp: hình ảnh ẩn dụ viên ngọc để nói đến những phẩm chất tuyệt vời đã được hai tác giả khắc hoạ trong tác phẩm của mình. Dù cuộc đời có nhiều những cơ cực, họ vẫn toả sáng, vẫn hiện lên đầy đẹp đẽ. | |
TRỌNG TÂM | Hình tượng bà Tú | – Cuộc đời lấm láp: + Nỗi khổ, là nguyên nhân chính cho bao xung đột, khổ đau với người đàn bà hàng chài chính là nghèo đói. Cái nghèo đói khiến người chồng trở nên cục cằn thô lỗ. Cái nghèo khiến những đứa con phải chịu món ăn khủng khiếp ròng rã, ngày này tháng nọ. Và tất cả những khó chịu ấy, nỗi đau ấy, người đàn bà phải hứng chịu gấp đôi so với những thành viên còn lại. Bởi, khi túng quẫn, người chồng đã trút sự bế tắc vào lưng vợ. Và có người mẹ nào, nhìn thấy những đứa con đói khát lại cam tâm. + Nỗi khổ thứ hai bám riết gia đình người đàn bà hàng chài là đồng con, với những gia đình ngư dân, nhà nào cũng một sắp con trên dưới 10 đứa. Ta có thể tưởng tượng cảnh trên con thuyền lưới vỏ chật chội, bầy con nheo nhóc, công việc thì cực nhọc, lại thêm bụng mang dạ chửa. + Nỗi khổ thứ ba với người đàn bà hàng chài chính là nỗi khổ từ nạn bạo hành. Người đàn bà bị đánh đập từ chính người mình yêu thương và hết mực mang ơn. Cho nên, không chỉ gây nên nỗi đau đớn về mặt thể xác, nỗi đau về mặt tinh thần lại càng thêm nặng nề. – Vẻ đẹp toả sáng: + Lòng bao dung, nhân ái, vị tha: Chị nhận hết phần thua thiệt về mình, nhận hết trách nhiệm về mình. Chị nhận mình là kẻ không nhan sắc: “từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu xí”. Nhận mình khổ là do đẻ nhiều: “Cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi để nhiều quả”. Với chồng, trong suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình người là đàn bà không tỏ ra oán giận người chồng. + Sự thấu hiểu lẽ đời: Với người đàn bà hàng chài, ẩn đằng sau lớp vỏ thất học, lam lǜ kia, chị lại là người phụ nữ rất thấu hiểu lẽ đời. + Đức hi sinh – lòng thương con vô bờ bến: Người phụ nữ truyền thống ấy luôn quan niệm: lấy chồng thì phải theo chồng rồi nuôi cho con khôn lớn. Chị chấp nhận tất cả vì con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Tình thương con ở người mẹ ấy sâu sắc đáng ngưỡng mộ. Vì thương con mà chị quặn lòng gửi thẳng Phác lên rừng ở với ông ngoại nó. Vì thương con và để tránh sự tổn thương cho những tâm hồn con trẻ nên chị đã bảo lão chồng “có đánh thì đưa tôi lên bờ mà đánh”. Tình thương con ấy không chỉ gắn liền với cảm xúc, tình cảm mà còn gắn liền với lý trí và trách nhiệm của một người mẹ. Chị luôn nhìn về các con, lấy các con làm điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần để Tin thô thiểu nổ tu sống. + Bà Tú đã hiện lên trong không gian chông chênh “mom sông”, thời gian “quanh năm” với công việc buôn bán đầy những mưu toan, nhọc nhằn. Người phụ nữ ấy đang phải gánh vác trách nhiệm công l à nơi thu tinh là việc mà người đàn ông phải làm: trụ cột gia đình khi phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Để có thể mưu sinh, bà phải “Lặn lội khi quãng vắng/Eo seo mặt nước buổi đo đông”. Học tập ca dao, ông Tú đã thấy bóng dáng bà Tú qua hình ảnh con cò. Nhớ đến con cò, bao khúc dân ca, ca dao hiện về trong tâm trí người Việt: “Con cò lặn lội chồng tiến bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”, “Con cò mày đi ăn đêm /Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao…”. Con cò trong tâm trí dân tộc đó là hình ảnh gầy guộc, chăm chỉ và cần mẫn, mong manh và thật đáng thương sao. – Vẻ đẹp toả sáng:+ “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ “đi” ấy cho thấy cả một bàn tay chu đáo, tảo tần, và vất vả. Vì gia đình ấy đâu có ít miệng ăn, không chỉ nuôi con, còn phải chăm chồng. Không chỉ là nọ, mà còn đủ. Đủ cả vật chất lẫn tinh thần, thế mới thấy người phụ nữ ấy vô cùng đáng khâm phục vô cùng. + Trước duyên phận, với bao mưa nắng, phản ứng của người phụ nữ ấy là: “âu đành phận” vả nào “dám quản công”. Đó là sự hi sinh, là đức hi sinh vô bờ bến. Việc làm vợ, làm mẹ đã khó, ở đây, bà còn làm cả trong trách của người chồng. Nhưng không một lời than. Có lẽ, với bà Tú, việc hi sinh, việc chăm lo và gánh vác gia đình là bổn phận, trước hết bà chấp nhận điều đó như một lẽ đương nhiên. Nhưng có rất nhiều giai thoại kể về việc, bà không chỉ giỏi buôn bán, còn giỏi văn thơ, còn sửa thơ ông Tú, thế mới thấy, người phụ nữ ấy không chỉ tài năng, còn thật thấu hiểu, và cao cả, là thành công lớn nhất trong cuộc đời toàn chỉ thất bại của ông Tú. Là hạnh phúc viên mãn nhất cuộc đời chỉ toàn nổi bật bình của ông Tú. |
Bàn luận đánh giá | – Có thể nói, cả người đàn bà hàng chài, bà Tú đều là những hình ảnh Khi người đánh giá rất đẹp, rất tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt, dù cho bao sóng gió dập vui, cũng chẳng thể nào làm mất đi vẻ đẹp phầm cách của họ. – Tuy xây dựng hai hình tượng ở hai giai đoạn rất khác nhau của lịch sử, hoàn cảnh sống khác, những cơ cực khác nhau, nhưng ta đều thấy sự hi sinh, lòng vị tha và tình mẫu tử rất đẹp của họ. Ở họ, gia đình vốn là lẽ sống, là niềm vui, là động lực để họ có thể vượt qua được bao cơ cực ở đời. |
ĐỀ SỐ 10:
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm) Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:
KHÁT VỌNG – THÀNH CÔNG
Xin trút một đời vào sức nặng bàn chân
Góp với đô thành, đô thành nổi dậy
Nếu trái đất là trái tim vĩ đại
Tim sẽ đập vì bước chân Việt Nam
Bạn thấy không cả nước đã lên đường
Tôi yêu quả những ngả đường gặp gỡ
Những đội ngũ.
Những đường lên cửa mở
Những giá trị định hình trong sức gió ta đi.
(Trích Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm, NXB Giải Phóng, 1974)
Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Nêu ý hiểu của anh chị về câu thơ: “Nếu trái đất là trái tim vĩ đại Tim sẽ đập vì bước chân Việt
Nam”.
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu thơ: “Xin trút một đời vào sức nặng bàn chân”.
Câu 4. Nêu cảm nhận của anh/ chị về khí thế lên đường chiến đấu được truyền tải trong đoạn trích.
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Viết đoạn văn 200 chữ bàn luận về quan hệ giữa khát vọng và thành công.
Câu 2 (5 điểm)
Hình tượng người phụ nữ xưa và nay được nhiều nhà văn thể hiện thông qua số phận và vẻ đẹp tâm hồn, đặc biệt là khát vọng. Phân tích hình ảnh nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, liên hệ với các hình tượng nhân vật nữ trong tác phẩm văn học trung đại để làm sáng tỏ ý kiến.
———– HẾT ———-
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là biểu cảm. Nhà thơ thể hiện những tình cảm, cảm xúc của mình về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Câu thơ “Nếu trái đất là trái tim vĩ đại/ Tim sẽ đập vì bước chân Việt Nam” nói lên sức mạnh kinh trời của dân tộc.
II. LÀM VĂN
Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí. Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề+ Giải thích | + Khát vọng và thành công +Khát vọng là đam mê cháy bỏng, quyết tâm thực hiện. + Thành công là đạt được mục đích đề ra, là kết quả hoàn hảo mà mình mong muốn. |
Luận bàn | Mối quan hệ giữa khát vọng và thành công | + Người có khát vọng sẽ nỗ lực hết mình để đạt được thành công(dẫn chứng nhà khoa học Nobel)+ Người không có khát vọng dễ dàng bỏ cuộc khi gặp khó khăn. |
Phản biện | Có phải ai có vọng cǜng thành khát công? | Ai có khát vọng cǜng thành công? Không phải, vì ngoài khát vọng, còn có nhiều yếu tố khác mới đảm bảo cho thành công.Nhưng nếu không có khát vọng thì không thể đạt được điều gì lớn lao. |
Giải pháp | Cân bằng giữa khát vọng và thành công như thế nào? | + Hãy biết khát vọng!+ Nhưng cần dựa trên khả năng thực hiện, nếu không khát vọng sẽ thành ảo tưởng.+ Đề ra mục đích và nỗ lực thực hiện. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | Khát vọng cần nhất cho tuổi trẻ. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản, Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm .
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ – Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ – Dạng bài: Phân tích, liên hệ đến cao Giang Hà. – Yêu cầu: dạng để nâng cao, làm rõ hình tượng nhân vật Mị, liên hệ phổ rộng đến các nhân vật trong văn học trung đại, cần có sự chọn lọc để phù hợp với đối tượng liên hệ. | ||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. – Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực phẩm cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. |
Giải thích. | – Hình tượng người phụ nữ xưa và nay được nhiều nhà văn thể hiện thông qua số phận và vẻ đẹp tâm hồn, đặc biệt là khát vọng: Ý kiến này đã nêu lên một vấn đề trong cách xây dựng nhân vật của nhà văn. Nhà văn sáng tác tác phẩm, xây dựng nhân vật ở hai điểm chính: số phận éo le, có nhiều ngang trái, biến cố, từ đó đi sâu vào nội tâm để làm bật lên vẻ đẹp, phẩm chất hình tượng, mà tiêu biểu là các nhân vật nữ. | |
TRỌNG TÂM 4,0 điểm | Nhân vật Mị trong văn học | – Từ số phận đau thương: + Mị sinh ra đã mang gánh nặng trên vai, cuộc đời Mi là cuộc đời của thân phận con nhà nghèo, cho nên, Mi tiếp tục được “thừa hưởng”. gánh nợ của cha mẹ, trở thành kiếp con dâu gạt nợ nhà thống lý. Lấy Mị về, A Sử đã biến Mị thành công cụ lao động biết nói. Mị phải làm việc không kể ngày đêm, làm việc quần quật từ sáng đến tối. Dù là tư cách người vợ, nhưng Mi bị hành hạ dã man, không khác gì con vật nuôi trong nhà thống Lý. Và người con gái ấy, không dưới một lần đã nghĩ đến cái chết để giải thoát, nhưng lại không thể chết vì còn thương cha. + Khi chìm trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan ấy, Mị phải cay đắng chấp nhận, chấp nhận sự thật nghiệt ngã về thân phận của mình. Và rồi cô gái xinh đẹp, yêu đời đã trở thành chai sạn, trợ lý, vô cảm. Trở B án nhà thành công cụ, thành con vật trong nhà thống lý. – Sự thức tỉnh trong đêm mùa xuân: + Từ sự tác động của ngoại cảnh, đặc biệt là tiếng sáo, men rượu, khiến Mị hồi sinh, Mị nhận ra Mị còn trẻ (sự ý thức được về bản thân, về ngoại hình, nhan sắc), Mị muốn đi chơi (Sự ý thức được nhu cầu đòi hỏi về mặt tinh thần). + Mị so sánh mình với bao người phụ nữ khác: Bao nhiêu người có – chồng vẫn đi chơi ngày tết. Và cô gái ấy trở lại cái đau đớn khi nhận ra cuộc hôn nhân phi lí của mình. Nhắc lại điều đó, ý muốn tự tử của Mị lại trở lại. Hay nói cách khác, nghĩ đến nắm lá ngón, đến cái chết lại là dấu hiệu cô Mị đã hồi sinh, nhận ra mình muốn chết là ý thức được về những nỗi thống khổ, là sự phản ứng lại trước số phận nghiệt ngã, là khao khát muốn được tự do. + Và Mi, đã có những hành động, không phải vô tri, thói quen, mà là hành động của thức tỉnh. Trước tiên, Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, k xắn một miếng bỏ vào đĩa cho đèn thêm sáng. Sau đó, Mị quấn lại – tóc, lấy cái váy họa chuẩn bị đi chơi, Mị đã bước đi theo tiếng gọi của tiếng sáo, của nhu cầu bản thân, Mị đang vượt qua những ràng buộc, để sống thật với con người minh, khao khát của mình. + Nhưng A Sử về, A Sử ở đó như đại diện cho cường quyền, thần quyền, chặn đứng khát khao, nhu cầu của Mỹ, A Sử trói đứng Mị vào cột, thế nhưng A Sử không thể trói được tâm hồn Mi, Mi bị trói nhưng Mị vẫn vùng bước đi. Cái vùng bước đi ấy, đó là cả một sức sống tiềm tàng trỗi dậy mãnh liệt, dù lúc này nó chưa đủ sức phá tan tin sinh ra dây trói, nhưng cái vùng bước đi ấy là một sự phản kháng, chống lại. |
Hình tượng người phụ nữ trongvăn học trung đại | – Trong sáng tác của Nguyễn Du, ta nhớ đến nàng Tiểu Thanh trong Tin người phụ Độc Tiểu Thanh ký với số phận thật bị thảm. Một nàng Kiều trong Đoạn trường tân thanh mà dân gian hay quen gọi là Truyện Kiều, với 15 năm lưu lạc đoạn trường, và rất giống với Mị, Kiều cũng hi sinh đi chữ tình vì chữ hiếu. – Ta gặp một người phụ nữ thân phận làm lẽ trong Tự tình II, giữa đêm khuya vắng cùng bao khát khao hạnh phúc bùng cháy. Người phụ nữ ấy cǜng như Mi, đòi hỏi được hạnh phúc, nhưng lại bị trói buộc trong những quyền lực hà khắc. | |
Bàn luận đánh giá | – Có thể nói, người phụ nữ xưa và nay, xuất hiện trong các tác phẩm đánh giá văn học đều mang những vẻ đẹp, nhưng cũng chịu những ngang trái, éo le của Số phận. Đồng thời, từ nghịch cảnh, họ đều toát lên những vẻ đẹp tâm hồn, những khao khát chính đáng .- Thế nhưng trong tác phẩm văn học hiện đại, đặc biệt là những sáng tác sau cách mạng tháng Tám, như Vợ chồng A Phủ, ta thấy cánh cửa tự do, giải phóng cho nhân vật. Không dừng lại ở sự thương cảm, rồi chìm trong tuyệt vọng, bế tắc như trong văn học trung đại. Văn học hiện đại đã gỡ sợi dây trói buộc, để nhân vật vùng lên đấu tranh và tự giải phóng cho mình. |
ĐỀ SỐ 11
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu
HỢP TÁC
“…(1) Nhưng tôi muốn các bạn ghi nhớ điều này. Chiến dịch của chúng tôi không bao giờ chỉ xoay quanh một người hay một cuộc bầu cử. Chúng tôi hướng về đất nước chúng ta yêu thương và xây dựng một nước Mỹ đầy hy vọng, rộng mở với mọi người và hào hiệp. Chúng tôi đã thấy đất nước bị chia rẽ sâu sắc hơn chúng tôi nghĩ, Nhưng tôi vẫn tin vào nước Mỹ, và tôi sẽ luôn như vậy.
Và nếu các bạn cũng thế, thì chúng ta phải chấp nhận kết quả này và hướng về tương Donald Trump sẽ trở thành tổng thống của chúng ta. Chúng ta nên mở lòng và cho ông ấy cơ hội lãnh đạo. Nền dân chủ của chúng ta coi trọng việc chuyển giao quyền lực hòa bình.
Chúng ta không chỉ tôn trọng mà còn trân trọng điều đó. Việc này làm nổi bật sự tôn trọng pháp trị; nguyên tắc mọi người đều bình đẳng về quyền lợi và vị thế; tự do sùng bái và bày tỏ ý kiến. Chúng ta tôn trọng và trân trọng những giá trị này và chúng ta phải bảo vệ chúng.
Tôi muốn nói thêm rằng nền dân chủ của chúng ta đòi hỏi sự tham gia của các bạn, không chỉ mỗi 4 năm, mà là toàn bộ thời Vì vậy, hãy làm tất cả những gì có thể để thúc đẩy những mục tiêu và giá trị mà tất cả chúng ta trân trọng, đồng thời bảo vệ đất nước và hành tinh. Hãy khiến nền kinh tế có lợi cho tất cả mọi người, không chỉ những người ở tầng lớp thượng lưu…”
(Trích “Toàn văn phát biểu sau bại trận của Hillary Clinton”, dẫn theo vnexpress.net)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ chức năng của đoạn trích trên. Tìm chủ đề của đoạn trích?
Câu 2. Nêu phép liên kết được sử dụng nổi các câu trong phần (2) của đoạn trích?
Câu 3. Theo anh/ chị, vì sao tác giả lại nói: “Nền dân chủ của chúng ta coi trọng việc chuyển giao quyền lực hòa bình”?
Câu 4. Anh/ Chị có nhận xét gì về thái độ của người nói khi phát biểu những lời trên. Thông điệp chính bà muốn gửi đến mọi người là gì?
II. LÀM VĂN (7 điểm) Câu 1 (2 điểm)
Bằng đoạn văn 200 chữ, bàn luận về tinh thần hợp tác.
Câu 2 (5 điểm)
Cảm nhận vẻ đẹp của những đoạn văn dưới đây, trích TuǶ bút Người lái đò Sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân.
…Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu, Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cǜng đang lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cǜng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cải giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nở hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sống dưới, Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dǜng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cà máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ngược lên một cái mặt giếng mà thành giềng xây toàn bằng nước sông xanh và một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem…
(…) Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên, Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng găn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuồng rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu đa cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả chân trời đá.
Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bên nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mỏ hơn cả cái mặt nước chỗ này.
———– HẾT ———-
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm).
Câu 1.
– Phong cách ngôn ngữ chính luận.
– Văn bản làm nổi bật chủ đề: nền dân chủ Mỹ coi trọng việc chuyển giao quyền lực hòa bình và mỗi người dân cần làm tất cả những gì có thể để thúc đẩy những mục tiêu và giá trị mà tất cả chúng ta trân trọng,
Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hương trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
Nêu vấn đề | + Vấn đề+ Giải thích | + Tinh thần hợp tác. + Hợp tác là thái độ và khả năng kết hợp tích cực với người khác hoặc tập thể để cùng đạt một mục tiêu. |
Luận bàn | + Biểu hiện hợp tác+ Sức mạnh của tinh thần hợp tác | + Bà Hilary thể hiện thái độ hợp tác, tôn trọng pháp quyền và tính dân chủ của cuộc bầu cử, mong muốn được hợp tác trong việc lãnh đạo đất nước. + Sẵn sàng hỗ trợ người khác.+ Cho người khác, cơ hội cùng làm việc. + Vai trò của tinh thần hợp tác: Tạo môi trường làm việc tích cực. Hợp tác giúp chuyên môn hóa, hiệu suất lao động cao. Hợp tác cho ta sức bền, tạo ra sức mạnh. |
Phản biện | Có những việc không cần sự hợp tác | Có những việc không có những công việc đặc thù không cần sự hỗ trợ, cần sự hợp tác chỉ nên làm một mình (sáng tác nghệ thuật: hội họa), nhưng vẫn cần sự hợp tác (như hỗ trợ cung cấp màu vẽ, giấy vẽ,…) |
Giải pháp | Làm sao để hợp tác? | + Rèn luyện qua các hoạt động tập thể: chơi bóng,…tạo dựng quan hệ tốt đẹp. + Suy nghĩ, quyết định dựa trên lợi ích tập thể. + Tin tưởng bạn đồng hành. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | + Biết hợp tác là thái độ và cung cách làm việc hiện đại, cần rèn luyện. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ – Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Người lái đò Sông Đà – Dạng bài: Phân tích, cảm nhận – Yêu cầu: làm rõ đặc sắc về nội dung, nghệ thuật đồng thời bàn luận và đánh giá về đoạn trích, tài năng của nhà văn | ||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu nhất của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nguyễn Tuân “là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vẻ đẹp văn chương, dấu ấn về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân tác được thể hiện trên những kiệt tác văn chương như Vang bóng một phẩm thời (1940), Sông Đà. (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972) … – Văn Nguyễn Tuân rất uyên bác, độc đáo. Các kiến thức về văn hoá, địalí, lịch sử, phong tục, những miền quê, những vùng đất… được ông kể rất đậm đà, duyên dáng. Ông là bậc thầy về ngôn ngữ văn chương giàu có, sáng tạo. – Người lái đò Sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không chỉ để thoả mãn cải thú tìm đến những miền đất lạ cho thoả niềm khát khao “xê dịch”, mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thử vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. – Những đoạn trích dưới đây là những áng văn hay nhất trong bài tuǶ bút, miêu tả lại đoạn Tà Mường Vát và khúc thác đá Sông Đà, đã làm bật lên hình ảnh con Sông Đà hung bạo, kẻ thù số một của loài người. |
TRỌNG TÂM 4,0 điểm | Hình ảnh Sông Đà đoạn Tà Mường Vát | – Nguyễn Tuân không tả như cách người ta vẫn tả, dẫn cảm xúc như cách người ta vẫn dẫn. Đoạn văn nói về cảnh Tà Mường Vát là một thước phim vô cùng độc đáo, hấp dẫn. Nó đến từ cách nhà văn khám Mường Vát phá những cái hút nước trên mặt sông đầy tài hoa, tỉ mỉ: – Trong điểm nhìn từ bên ngoài: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đem đến hàng loạt những so sánh về cả hình ảnh, âm thanh để phác họa những cái hút nước trên sông đoạn Tà Mường Vát + Trước hết là về hình ảnh, ông đã liên tưởng ngay đến những cái ) giếng bê tông. Hình dung trong độc giả sẽ hiện lên ngay cái miệng giếng rộng, đáy sâu, vô cùng vững chắc do được cấu tạo từ gạch, sỏi, cát và xi măng trộn lên mà thành. Hút nước trên sông Đà cũng vậy, nó chính là những cái giếng bê tông được xây trên mặt sông Đà, và đặc biệt hơn, tuy chất liệu của nó là nước, nhưng với trạng thái xoáy tít, độ vững chãi và sức phá hủy của nó cũng không thua kém bê tông. + Sức mạnh của những cái hút nước: Qua sự tái hiện hình ảnh một chiếc bè gỗ (chiếc bè lớn, cấu tạo chắc chắn, chở gỗ nặng, lại ngâm nước, do vậy mà vững như bàn thạch) khi vô tình lọt vào hút nước Sông Đà, ngay lập tức, cái hút ấy lôi tuột chiếc bè xuống, để nói sự mau lẹ, cái khoảnh khắc xoáy nước đã vồ lấy đối tượng vô tình đi qua nó. Và sau mươi phút “ngấu nghiến” chiến lợi phẩm, cái bè đã tan xác ở khuỷnh sống dưới .– Góc nhìn bên trong: Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn dụng công trong việc hình dung ra hình ảnh của những chiếc xoáy nước với giá tưởng đặt vào lòng nó một chiếc máy quay phim từ một anh quay phim liều lĩnh. Có thể nói đó là cảnh tượng xưa nay chưng từng có: + Hình ảnh bên trong xoáy nước là về độ cao từ đáy đến mặt sông: cao đến vài sải. Từ dưới đáy nhìn lên thấy một màu xanh ve của nước sông, cảm tưởng như đó là một khối thủy tinh được tạo bởi nước, vẻ đẹp bên trong khiến người ta xuýt xoa, bởi chẳng ai dám lại gần, chứ đừng nói mạo hiểm khám phá cả bên trong . |
Hình ảnh Sống Đà đoạn thác đá | 1. Thác đá qua cảm nhận thính giác: – Thác đá khi ở xa: được cảm nhận qua bốn tính từ, van xin, khiêu khích, gằn, chế nhạo. Có thể nói, không như cách miêu tả âm thanh thông thường, với những từ chỉ âm thanh để miêu tả tiếng nước thác như ầm ầm, rào rào… mà nhà văn còn sử dụng những từ chỉ trạng thái, thái độ của con người để gán lên âm thanh tiếng nước thác. Với cách dịch chuyển này, nhà văn đã đem lại cho người đọc cảm giác, ở xa kia, không còn là thác nước nữa, chờ đón con thuyền chính là con quái vật hung hăng, đây hiểm ác. – Thác đá khi lại gần: nó đã biến thành một tổ hợp trường đoạn âm thanh khủng khiếp, chưa từng thấy. Nó đem đến sự giật thột, cái bàng hoàng trước luồng âm thanh va đập, phòng thẳng vào màng nhĩ. Đi bóc tách các luồng âm thanh này, ta sẽ thấy lần lượt hiện lên: + Là tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang hoảng sợ, tiếng nổ của rừng vậu tre nứa bị chảy: với cấu tạo đặc biệt là rỗng ruột, khi cháy, vầu, tre, nứa sẽ có tiếng nổ lớn. Là tiếng xèo xèo của da 1 trâu cháy. Và đặc biệt nhất, đó là bước chân chạy của những con trâu mộng đang hoảng sợ, giẫm đạp, phá tuộng, hoảng loạn. Ta có thể hình dung ra ngay khung cảnh hỗn loạn đó, với thân hình to lớn, hồn tôi hat đồ sộ, lại đông đảo, cùng chạy khỏi rừng lửa, những bước chân trâu không chỉ làm nên âm thanh, nó còn làm chấn động, làm trong chanh, rung chuyển cả không gian trên bờ, dưới mặt. + Qua mô tả âm thanh, có thể nói, chưa cần phải nhìn, ta đã cảm nhận được sự kì vĩ của thác đá Sông Đà. Và bằng nghệ thuật miêu tả độc đáo: Lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, Nguyễn Tuấn đã cho ta thấy sức mạnh của ngòi bút tài hoa, của trí tưởng tưởng tuyệt vời, của một bản lĩnh hiếm ai có. 2. Thác đá qua cảm nhận thị giác: – Cái nhìn khái quát; Chỉ bằng câu văn: “Sóng bọt đã trắng xóa cả chân trời đá”. Câu văn đã giúp ta cảm nhận được cả độ cao của thác và tính chất lòng sông. Để Sóng bọt tung trắng xóa cả không gian, trước hết thác phải rất cao, thứ hai lòng sông phải toàn đá, cỏ như vậy độ va đập khi nước chạm lòng sông mới làm văng lên những bọt nước, mới trắng xóa, che lấp cả tầm nhìn gần. Nhưng ấn tượng hơn là cụm từ “chân trời đá”. Cụm từ này nói lên hình ảnh thật kì vĩ, bằng góc nhìn ra xa, lên cao, đến tận cuối chân trời, không nhìn thấy chân mây, hay mặt đất quen thuộc, mà chỉ thấy lổm ngổm, ngổn ngang toàn đá là đá, đá vươn dài, bỏ đến tận chân trời. – Cái nhìn cận cảnh: + Đá ở đây ngàn năm mai phục, lǜ đá Sông Đà chính là những binh tướng lão luyện, dạn dày qua hàng trăm trận đánh, qua hàng nghìn năm tích lǜy kinh nghiệm, do đó mà vô cùng dũng mãnh. Sở trường của chúng là ẩn nấp, mai phục.. + Thế đòn hiểm của đá là biết chồm cả dậy để vồ lấy thuyền, vô cùng bất ngờ, đẩy đổi phương vào thế bị động. Cách miêu tả của nhà văn thật kì thú, trong hình dung của ông, sự dập dềnh của sóng nước phủ lấy đá, làm đá lúc ẩn, lúc chồi như sự mai phục, như thể đá biết nhào, về những con thuyền. Đặc biệt hơn, khi chiếu vào từng hòn đá, mới thấy từng hòn biểu lộ sắc thái, vẻ mặt riêng, không hòn nào giống hòn nào, nhưng đều có điểm chung là hung hăng, hiếu chiến. . + Đá ở đây không chỉ dạn dày trận mạc, cái ác hiểm nhất của chúng là cách sắp xếp thành trung vi thạch trận với ba vòng đầy hiểm ác. Vị tổng tư lệnh Sông Đà đã bày binh bố trận thành trận đồ bát quái đẩy học hiểm, khó lòng mà vượt thoát.+ Và trong con mắt nhà văn, khúc sông này, tựa như một khu căn cứ kiên cố, được cài đặt trong đó những boong ke chìm, pháo đài đá nổi, nhà văn gọi những con thuyền chèo qua đây là những con thuyền du kích, để nói khu căn cứ quân sự chết chóc ấy, đến dấu ấn của vị tổng tư lệnh Sông Đà – kẻ thù số 1 của con người nơi đây. |
Đánh giá bình luận | – Người lái đò Sông Đà chính là cuộc đổ bộ ngôn từ mà Nguyễn Tuân đã chỉ huy cực tài ba. Hai hình tượng Sông Đà và ông lái đò đã đáp gọi được nhiệt hứng, nguồn mạch của cây bút ham thích cái dị biệt – Nguyễn Tuân đã huy động cả nghệ thuật văn chương – lẫn các hình thức nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, vǜ đạo, điện ảnh… Ông thường sử dụng nghệ thuật điện ảnh khiến cho những trang văn như phập phồng, tạo sức gợi.- Chất tài hoa của Nguyễn Tuân còn ở cách sử dụng và huy động vốn Tiếng Việt thật tài tình. Tổ Hữu đã gọi Nguyễn Tuân là bậc “chuyên viên cao cấp của Tiếng Việt” quả không hổ danh. |
ĐỀ SỐ 12
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
ĐẤT LÀ MẸ
… “(1) Không khí quả là quý giá đối với người da đỏ, bởi lẽ bầu không khí này là của chung, muông thú, cây cối và con người cùng nhau hít thở. Người da trắng cǜng cùng chia sẻ, hít thở bầu không khí đó. Nhưng hình như người da trắng chẳng để ý gì đến nó. Nếu chúng tôi bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải nhớ rằng không khí đối với chúng tôi là vô cùng quý giá và phải chia sẻ linh hồn với tất cả cuộc sống mà không khí ban cho. Ngọn gió mang lại hơi thở đầu tiên của cha ông chúng tôi và cũng nhận lại hơi thở cuối cùng của họ. Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng liêng cho ngay cả người da trắng cũng có thể thưởng thức được những làn gió thấm đượm hương hoa đồng cỏ.
Như vậy, chúng tôi mới cân nhắc những ý muốn mua mảnh đất này của Ngài. Nếu có quyết định chấp nhận yêu cầu của Ngài, chúng tôi phải đưa ra một điều kiện – đó là, người da trắng phải đối xử với các muông thú sống trên mảnh đất này như những người anh
Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu bất cứ một cách sống nào khác. Tôi đã chứng kiến cả ngàn con trâu rừng bị chết dần chết mòn trên những cánh đồng trơ trọi vì bị người da trắng bắn mỗi khi có đoàn tàu chạy Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu nổi tại sao một con ngựa sắt nhả khói lại quan trọng hơn nhiều con trâu rừng mà chúng tôi chỉ giết để duy trì cuộc sống. Con người là gì, nếu cuộc sống thiếu những con thú? Và nếu chúng ra đi, thì con người cǜng sẽ chết dần chết mòn vì nỗi buồn cô đơn về tinh thần, bởi lẽ điều gì sẽ xảy đến với con thú thì cǜng chính xảy ra đối với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc.
Ngài phải dạy cho con cháu rằng mảnh đất dưới chân chúng là những năm tro tàn của cha ông chúng tôi, và vì thế, chúng phải kính trọng đất đai, Ngài phải bảo chúng rằng đất đai giàu có được là do nhiều mạng sống của chủng tộc chúng tôi bồi đắp nên. Hãy khuyên bảo chúng như chúng tôi thường dạy con cháu mình: Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con của đất. Con người chưa biết làm tổ để sống, con người giản đơn là một sợi tơ trong cái tổ Sống đó mà thôi. Điều gì con người làm cho tổ sống đó, tức là làm cho chính mình…”.
(Trích “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” – Xi-at-tơn, theo tài liệu Quản lí môi trường phục vụ phát triển bền vững, dẫn theo Ngữ văn 6, tập 2)
Câu 1. Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ chức năng nào? Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản?
Câu 2. Nêu đề tài và mục đích của đoạn trích?
Câu 3. Nêu các phép liên kết được sử dụng trong phần (1) của đoạn trích?
Câu 4. Đoạn trích khơi gợi ở anh chị tình cảm gì? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7 điểm) Câu 1 (2 điểm)
Bằng hiểu biết của mình và qua ý kiến của người viết trong đoạn trích, hãy bàn luận về quan niệm: “Đất là Mẹ” và thái độ của con người ngày nay đối với đất đai (trong một đoạn văn khoảng 200 chữ).
Câu 2 (5 điểm)
Phân tích sức mạnh vùng lên giải phóng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông giải cứu A phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài. Liên hệ với hai câu thơ trong Tự tình II của Hồ Xuân Hương:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đảm Đâm toạc chân mây đả mấy hòn”.
Để nhận xét về sức mạnh tiềm tàng của các hình tượng nhân vật nữ trong văn học.
———– HẾT———-
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án:
ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1.
Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt chính luận. Vì văn bản này là bức thư trao đổi giữa vị thủ lĩnh với Tổng thống Mỹ Franklin, nêu quan điểm về vấn đề bán đất và bảo vệ môi trường sống của người
Đoạn trích khơi gợi tình yêu thiên nhiên, tôn trọng tự nhiên và ý thức bảo vệ gìn giữ môi trường. Bởi vì:
- Thiên nhiên là bà mẹ của cuộc sống trên Trái Đất này, mà con người chỉ là một phần của sự sống đó.
- Tác giả nhắc đến thiên nhiên với thái độ trân trọng, quý giá.
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
- Xác định đúng vấn đề nghị luận.
- Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
- Đảm bảo bố cục: mở – thân – kết, độ dài 200 chữ.
- Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đảm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hương trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu | Nội dung | Đoạn văn |
+Giới thiệu | + “Đất là Mẹ”:+ Đất nghĩa hẹp là đất đai, nghĩa rộng là Trái Đất, tức mọi thứ của tự nhiên. + Mẹ ban cho mỗi người sự sống, chăm sóc và nuôi dưỡng cả thân thể và tâm hồn.Đất cũng vậy. Đất sinh ra con người, cho con người nơi ở, nước uống, thức ăn, đồ mặc,…. Đất nuôi dưỡng tâm hồn con người bằng những đồi hoa, bằng những vườn trái chín, bằng con sông uốn lượn,… + Quan niệm đúng đắn, cách ví von giản dị mà giàu sức gợi tả, dù hàng tắm năm vẫn ý nghĩa và thiết thực | |
Luận bàn | +Lí giải | + Vì sao tác giả coi “Đất là Mẹ”?Vì đó là quan niệm từ cổ xưa: Đất mẹ, thần đất mẹ Gaia, Demete,…Vì Đất là khởi nguyên và liên quan trực tiếp đến sự sống con người.Cách so sánh gợi được vai trò của Đất với nhân loại. + Ngày nay, ta chưa hiểu được tầm quan trọng của đất, ta đang tàn phá đất đai, đó là tự hủy hoại mình. |
Phản biện | Không thể không khai thác đất đai. | + Khai thác đất đai là cần thiết cho cuộc sống, nhưng không vì thế mà tàn phá tài nguyên đất. |
Giải pháp | Làm sao để bảo vệ đất? | + Ý thức: bảo vệ đất đai là bảo vệ cuộc sống. + Cần phục hồi những miền đất bị con người biến thành khô cắn, sỏi đá. + Biện pháp khai thác bền vững. |
Liên hệ | Bài học cho bản thân | Quý trọng đất đai, nhất là một đất nước có lịch sử văn hóa thân nông nghiệp. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0.5 điểm
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
- Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết, không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4.5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ – Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ – Dạng bài: Phân tích, liên hệ Yêu cầu: Làm nổi bật hình tượng Mị trong đêm mùa đông, liên hệ với Hồ Xuân Hương cùng khát vọng muốn bung toa, để thấy được những vẻ đẹp tiềm ẩn trong hình tượng người phụ nữ. | ||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | ||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | PHÂN TÍCH CHI TIẾT |
CHUNG 0,5 điểm | Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm | – Tô Hoài – nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nguyên Sen là tên khai sinh của ông, là người con của mảnh đất Hà Thành văn hiến nhưng ông lại được sinh ra và có tuổi thơ gắn với 1 thời gia tác làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông chính là quê ngoại của Tô Hoài. Là nhà văn giỏi về phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, về miêu tả thiên nhiên, các phong tục tập quán, tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có. – Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất – giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tác phẩm thể hiện chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến cũng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời. |
TRỌNG TÂM 4,0 điểm | Phân tích chi tiết. | – Trong thân phận người con dâu trừ nợ, thời gian ban đầu về làm dâu nhà thống Lý, đã có lúc Mị tìm đến cái chết để giải thoát, bởi người con gái ấy cảm nhận được cái đau khổ, cải tuyệt vọng. Chết như một cách chống lại thực tại dồn ép, đè nén, để giải thoát khỏi những đau khổ, dù có là tiêu cực. – Đêm mùa xuân, khi Mị lắng nghe tiếng sáo gọi bạn: tiếng sáo ấy như gõ vào trong ký ức của Mị, làm ký ức sống lại. Làm trỗi dậy niềm khát khao lâu nay nguội lạnh. Mị muốn đi chơi. A Sử trở về và trói Mi, Mị không biết mình bị trói, cô gái ấy đang chìm trong quá khứ tươi đẹp. A Sử có thể trói được thân thể ấy, nhưng không thể trói được tâm hồn, trói được khao khát tự do đang bùng lên. – Mị và A Phủ “gặp nhau” tại nhà thống lĩ. Người thì là con dâu gạt nợ. Người vì tội đánh con quan mà trở thành người “vay nợ, ở nợ”, Cả hai đều là con trâu, con ngựa của nhà thống lí. Chính cảnh ngộ, tỉnh thương và lòng căm thù đã thức tỉnh ý thức Mị, tâm hồn Mị.Ban đầu, Mị còn chẳng cảm nhận thấy nỗi đau của mình, vì thế mà người con dâu trừ nợ thấy dửng dưng khi A Phủ bị trói. Có lẽ, sống lâu trong cái khổ đã khiến Mị chai sạn đi. Thế nhưng, khi Mị “lẻ mắt trông sang”, Mị xúc động nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt đã xám đen lại” của A Phủ. Mị nhở lại đêm năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế Mị khẽ thốt lên lời than: “Trời ơi!…”. Mị nguyền rủa cha con thống lí: “chúng nó thật độc ác”. – Bao cảnh thương tâm đồng hiện trong tâm hồn Mị: bắt trói đúng người ta đến chết, nó bắt mình chết cǜng thôi, nó bắt trói chết người đàn bà ngày trước cǜng ở cái nhà này. Giọt nước mắt A Phủ làm thức tỉnh Mi, thức tỉnh cái khổ đau mà lâu nay tưởng chai lì.Mị tự thương cảnh ngộ mình; thường A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết sức chi đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị nghĩ về thân phận mình, tưởng như là cam chịu: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rǜ xương ở đây thôi...”. Mị ý thức được A Phủ không thể chết, “việc gì mà phải chết thể”. Con đường thức tính của con người thức tỉnh là con đường vòng, có lúc ngập ngừng do dự, có lúc quyết liệt. Mị cũng thế, Mị tưởng tượng A Phù trốn thoát, Mi sẽ bị trói trên cái cọc oan nghiệt ấy! Hình Trang chủ Trang Bán như bóng tối cho Mi sức mạnh, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ. – Thương người cùng khổ, cùng cảnh ngộ. Mị đã đi đến hành động rất nhanh: cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn. Hành động ấy là hành động đồng thời phản ánh quá trình thức tỉnh và đấu tranh của Mị. Đấu tranh vì Mị đã dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đấu tranh để tìm đến tự do, thoát khỏi địa ngục đọa đày. |
Tự tình II | “Xiên ngang mặt đất rêu từng đảm Đâm toạc chân mây đá mấy hồn” – Qua lời tự tình trào dâng bao xúc cảm, Hồ Xuân Hương đã nêu lên thân phận của kiếp làm lẽ với những tủi hờn, uất ức, với bao khát trong lực là khao hạnh phúc nhưng dường như luôn quá tầm với. Đặc biệt là khát vọng mạnh mẽ trong hai câu luận. – Rêu, đá cũng là ẩn dụ cho sức sống, cho nỗi niềm phẫn uất của của nhân vật trữ tình. Nếu như “mặt đất”, “chân mây” là ẩn dụ cho lề thói, cho những định kiến đã trở thành cố hữu thì nhà thơ muốn “xiên ngang”, “đâm toạc” những định kiến đã thít chặt quanh những người phụ nữ ấy. Đó là niềm phẫn uất cho thân phận, số kiếp .- Hồ Xuân Hương dù thông minh tài sắc, dù đầy cá tính vẫn chẳng thể đi ra ngoài kiếp bạc mệnh ấy. Nhưng khác với những người phụ nữ khác, ôm niềm riêng trong hờn tủi, rồi xuôi theo số phận, cam chịu cho cuộc đời đã an bài. Với nữ sĩ, bà cương quyết chống lại, bà căm hờn phản kháng. Chỉ là người phụ nữ “chân yếu tay mềm” nhưng nữ sĩ muốn đổi trội cả hệ thống lễ giáo phong kiến, muốn dỡ bỏ nó, muốn phá tuông đi những định kiến đã trói buộc cuộc đời người phụ nữ. | |
Bàn luận đánh giá | – Có thể thấy, dù là xưa hay nay, người phụ nữ luôn ẩn chứa sức sống đánh giá mãnh mẽ, sức mạnh tiềm ẩn. Qua nhân vật Mị, người vợ lẽ trong Tục tình II, các tác giả đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ người phụ nữ Việt Nam. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh. – Tuy nhiên, điểm khác nhau giữa hai hình tượng, cũng là sự khác biệt của lăng kính thời đại. Với thế kỷ XVIII, khi xã hội phong kiến tuy đã suy nhưng vẫn còn vững chắc với những định kiến hà khắc, thì người phụ nữ cá tính như Hồ Xuân Hương dù vùng lên lại bị nhấn chì trong hố sâu của tuyệt vọng, ngao ngán. Trái lại, với Vợ chồng A Phủ, đó là người phụ nữ của thời đại mới, một thời đại mà cường quyền, thần quyền phải bị dỡ bỏ. Và Mị chính là bàn tay đại diện, để cắt đứt những sợi dây trói đó. |