chung-minh-xuc-cam-cua-nha-van-thach-lam-thuong-bat-nguon-va-nay-no-len-tu-nhung-chan-cam-doi-voi-nhung-con-nguoi-o-tang-lop-dan-ngheo

Chứng minh: Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo…

“Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè. Thach Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm thất văn học”. (Nguyễn Tuân)

Dựa và một số sáng tác của Thạch Lam, hãy chứng minh ý kiến đó.


  • Mở bài:

Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, nhất là những người phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm lặng, chịu đựng, giàu lòng hi sinh. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, giàu chất thơ, sâu sắc, thâm trầm, thường để lại một ấn tượng ngậm ngùi, thương xót. Nhận xét về Thạch Lan, nhà văn Nguyễn Tuân viết: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè. Thach Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm thất văn học”.

  • Thân bài:

Giống như cái cây xanh ngoài kia hút màu từ đất mẹ, tác phẩm văn học phải bắt rễ sâu chắc vào mảnh đất cuộc đời để từ đó toả ra tán lá rộng, dày góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Hơn thế tác phẩm nghệ thuật phải là tiếng nói xuất phát từ những rung động chân thực của nhà văn trước hiện thực, nẩy nở lên từ những tình cảm của nhà văn dành cho con người. Nhà văn phải biết sống hết mình. Nếu thiếu đi trái tim đầy tình yêu thương của nhà văn thì cái hiện thực kia sẽ mãi mãi nằm trong yên lặng. Vâng, không gì khác ngoài tình yêu và tâm huyết của nghệ sĩ đã làm nên giá trị cho tác phẩm.

Giá trị của những truyện ngắn của Thạch Lam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nguyễn Tuân cho rằng: ” Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè”. Sống trong lòng chế độ thực dân nửa phong kiến, chứng kiến biết bao bất công tàn bạo của một chế độ mục rữa, thối nát, Thạch Lam đã dám nhìn thẳng vào sự thực ở đời để thấy được bao kiếp người đang quằn quại đau khổ, đang vật vã trong những bế tắc không lối thoát. Mảnh đất hiện thực nghiệt ngã ấy đã tác động vào tâm hồn nhà văn, khơ gợi lên những cảm xúc, những rung động yêu thương chân thành.

Có lẽ Thạch Lam đã đau nỗi đau của con người trong thời đại ông đến thế nào, ông mới có thể bước qua những ngưỡng cửa văn học lãng mạn để đến với văn học hiện thực. Chúng ta không quên quan niệm bất hủ của ông về văn chương:” Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Chính nhận thức đúng đắn ấy đã giúp cho Thạch Lam có được những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Những “chân cảm”- phải chăng Nguyễn Tuân muốn nhấn mạnh độ chân thực trong cảm xúc, tình cảm của Thạch Lam? Và có lẽ Nguyễn Tuân đã nói lên được dòng tư tưởng, tình cảm dào dạt trong những sáng tác của Thạch Lam, cái đề tài mà mà ông quan tâm hướng tới.

Hiện thực cuộc sống là rộng lớn, là vô cùng. Và mỗi nhà văn với chiếc xẻng nghệ thuật trong tay mình đã đào xới một mảnh đất để lật lên những vỉ hiện thực và tìm cho mình thế giới hình tượng trong đó. Nếu như Vũ Trọng Phụng xuất sắc ở mảng đề tài về cuộc sống thành thị của xã hội “chó đểu”, nếu như Nguyễn Công Hoan tài năng trong việc khắc học bức tranh thế giới quan lại khả ố, bất lương và Nam Cao rực rỡ trong những sáng tác về người nông dân và trí thức tiểu tư sản thì Thạch Lam lại hướng ngòi bút vào cuộc sống của những người ở tầng lớp dân nghèo với những khám phá tinh vi về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần bên cạch những nỗi khổ “áo cơm ghì sát đất”

Chúng ta không khỏi đau xót khi chứng kiến thảm cảnh “Nhà mẹ Lê” – một người mẹ khốn khổ cùng với một người con nheo nhóc, đói khát. Bức tranh hiện thực hiện lên qua mấy trang văn ấy cũng sắc sảo không kém phần bất kỳ một tác phẩm nào viết về cái đói, cái nghèo. “Nhà mẹ Lê” là một nỗi đau của Thạch Lam. Cái chết của người mẹ đáng thương ấy cùng với nỗi bất hạnh của đàn con thơ dại mà “đứa lớn nhất mới mười bảy tuổi, còn đứa bé nhất thì đang bế trên tay” chính là vấnđề đáng quan tâm nhất, chính là cái hiện thực tàn ác mà nhà văn chân chính không thể thờ ơ. Viết về cái gì đi chăng nữa thì số phận con người vẫn mãi là lời gọi tha thiết nhất đối với ngòi bút nhà văn.

Với Thạch Nam cuộc sống nơi phố huyện nghèo, tăm tối đã thu hút ông khám phá. Và ông thấy được ở trong cái lạnh lẽ của cơm gió lạnh đầu mùa kia có cả nỗi khổ của bé Hiên không có áo ấm mùa đông, nỗi khổ của người mẹ ngày ngày đi bắt cua, bắt ốc không kiếm được cho con tấm áo.
Những con người ấy thân thuộc với ông quá, trong lòng ông đã rung lên những sợi dây tình cảm khi viết về cảnh đời của những con người nhỏ bé. Có nhà triết học cho rằng, biết xúc cảm cũng là một năng lực. Tôi thấy điều đó đúng với thạnh Lam. Cái năng lực ấy vố dĩ không phải của trời ban mà nó được hình thành từ chính tấm lòng tràn đầy tình yêu thương của nhà văn đối với người lao động.

Viết riêng về tầng lớp dan nghèo, Thạch Lam không chỉ quan tâm đến nỗi khổ vật chất mà với ông, cái đáng sợ là sự xói mòn về tâm hồn. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã chỉ ra bi kịnh ấy. Cái mới của Thạch Lam trong việc thể hiện nỗi khổ con người là ông phát hiện ra nỗi khổ phải sống trong cảnh quẩn quanh,tù túng, bế tắc, phải chìm nghỉm trong cáim”Ao đời phẳng lặng” (Chữ của Xuân Diệu).
Cuộc sống của Liên và An có khác gì sự giam hãm về tinh thần?

Mỗi ngày cứ đi qua trong sự im lặng đáng sợ của bóng tối, trong lặng lẽ của quầy hàng không có khách. một cuộc sống không sôi nổi, không biết động, không mơ ước, cuộc sống ấy không đáng bị thay đổi lắm sao? Ngay cả đến cảnh thiên nhiên cũng nhuốm vẻ u buồn:”Chiều, chiều tối. Một buổi chiều chầm chậm lặng lề của cuộc đời và đáng sợ nhất vẫn là bóng tối, bóng tối trùm lên phố huyện”.

Cái hay của Thạch Lam là đã diễn tả bóng tối qua ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu nơi chõng hành chị Tí hay ánh lửa trong gánh phở bác Siêu. Cái leo lét nhập trời nữa cũng không chống chọi nổi sự bao phủ của màn đêm. Nó chỉ cho ta thấy sự đối lập khủng khiếp giữa ánh sáng và bóng tối. Và cuộc đời của những con người kia, những Liên, những An, những chị Tí bác Siêu, bà cụ Thi cũng có khác gì ngọn đèn leo lét đó, không thể toả sáng được giữa bóng đêm mịt mù của cuộc đời. Truyện giản dị, nhẹ nhàng mà gợi cho ta bao suy tư về số phận con người. Chính những xúc cảm của nhà văn đã đem đến cho người đọc sự xúc động, để lại những băn khoăn, day dứt trong mỗi chúng ta.

Đọc văn Thạch Lam ta nhận thấy chưa hẳn nhà văn của chúng ta đã hoàn toàn thất vọng về cuộc sống.Cũng giống như cái cảm giác ban trưa ngột ngạt mà có làn gió mát thổi qua,tôi cảm nhận được luồng gió vô tình mà Thạch Lam mang lại sau những trang văn tưởng như bế tắc không có lối thoát ấy. Ông tin rằng chính linh hồn con người sẽ cứu sống con người ra khỏi sự tăm tối,chính những ước mơ,hoài bão và cả tình thương của con người sẽ giúp họ vượt qua nghiệt ngã của cuộc sống. Và ông đã xây dựng nên những tính cách như thế.

Thạch Lam đã thổi vào trong Gió lạnh đầu mùa sự ấm áp của tình người,của lòng thương. Ông đã để nhân vật Sơn đem tấm áo cho bé Hiên, để Hiên bớt đi cái lạnh, để Hiên cảm thấy cuộc sống chưa hẳn đã đau khổ. Gió vẫn cứ lạnh đấy nhưng dù gió có lạnh đến thế nào thì tình người vẫn cứ vượt lên trên tất cả. Nguyễn Tuân đã rất đúng khi cho rằng: “Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống,trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh”. Phải rồi, nếu không có sự quý trọng cuộc đời của nhà văn thì chắc hẳn những người như bé Hiên sẽ suốt đời không có được một manh áo ấm và triết lí về tình thương sẽ tuột khỏi tác phẩm, rơi vào trong cái lạnh lẽo của thiên nhiên.

Đọc Gió lạnh đầu mùa, ta không cảm thấy cái lạnh tràn về mà bỗng thấy lòng mình như được sưởi ấm bởi hơi nóng của tình yêu thương con người. Tình cảm thánh thiện trong tâm hồn của một đứa trẻ như Sơn sẽ xua đi mọi lạnh giá khắc nghiệt của thời tiết bởi vì “không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người”. Thạch Lam đã cho tôi thấm thía chân lí ấy và còn gì đẹp hơn một tác phẩm “ca tụng lòng thương,tình bác ái,sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” (Nam Cao).

Hi vọng chính là một nghệ thuật sống. Đọc như những trang viét của Thạch Lam, người ta cũng thấy một niềm hi vọng được nhen nhóm lên từ trong chính những đau khổ,mờ mịt của cuộc đời. Nhà văn đã yêu cuộc sống,trân trọng và nâng niu nó; đặt cả con tim mình lên câu chữ để đem theo cái hơi thở nồng nàn của sự sống đến cho người đọc.

Từ cái quẩn quanh, ngột ngạt của cuộc sống tù túng nơi phố huyện, người đọc vẫn thấy được niềm tin ở tương lai cho dù nó thật mong manh, yếu ớt – mong manh như chính cuộc đời của những con người nơi đây, yếu ớt như ánh sáng những ngọn đèn, ánh lửa trong đêm tối. Thạch Lam đã không làm mất đi trong ta ngọn lửa của niềm tin hi vọng. Tình yêu mến và trân trọng cuộc sống đã giúp ông xây dựng nhân vật Liên trong “Hai đứa trẻ”, để cho Liên có một ước mơ. Cảnh đợi tàu và mong ước ccủa chi em Liên là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì trong nhận thức của con người. Có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:

“Tôi thấy tôi thương những con tàu
Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”

Nhưng với Liên đó là cả một niềm khát khao. Con tàu trong suy tưởng của Liên không phải chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hi vọng của phố huyện này. Con tàu chở mơ ước của chị em Liên về một Hà Nội đầy ánh sáng, Hà Nội của niềm vui rực rỡ. Nếu cái ước mơ được nhìn thấy chuyến tàu ở chúng ta thật bình thường thì đối với Liên,nó thật mãnh liệt và lớn lao biết bao. Nhưng Thạch Lam muốn cho người đọc hiểu rằng: Liên mơ ước chuyến tàu cũng chính là đang mơ ước về một sức sống sôi nổi hơn,về một cuộc đời có nhiều ánh sáng hơn, nhiều niềm vui hơn. Và khi nhà văn miêu tả nỗi khát kha bé nhỏ hết sức tội nghiệp của chị em Liên, ông không chỉ muốn qua đó thể hiện bức tranh hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người mà hơn thế,nhà văn còn gợi lên trong ta những khát khao cao đẹp,những ước muốn được đấu tranh cho sức sống tươi đẹp của con người.

Nói như nhà văn Nga Sôlôkhôp: “Đối với con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai.Tôi mông muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”.Thạch Lam cũng đã gặp Sôlôkhôp trong quan niệm về văn học ấy khi ông khẳng định văn chương chính là thứ khí giới để làm cho “lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Với Thạch Lam ,“cái đẹp chính là sức sống” (Secnưsepxki). Không có gì cao cả hơn sức sống trên trái đất này. Thông qua Hai đứa trẻ, nhà văn đã mang đến cho ta một niềm tin về cuộc sống,thức tỉnh ta thoát khỏi kiếp sống mòn mỏi,bế tắc,ngột ngạt về tinh thần,khơi dậy trong ta ý thức đấu tranh cho cái đẹp trong tâm hồn những đứa trẻ,cũng là cho cái đẹp trên trái đất này. Thiếu đi tình yêu mến cuộc sống, lòng trân trọng sức sống của mọi người xung quanh,làm sao Thạch Lam có thể viết nên những tác phẩm có giá trị,những sáng tác để cho cái đẹp trên trái đất,cho lời kêu gọi đấu tranh về hạnh phúc,niềm vui và tự do,cho cái cao rộng của tâm hồn và cho cái rực rỡ như những mặt trời không bao giờ tắt?

Có một lần khi viết về Nguyễn Tuân,Thạch Lam đã khẳng định: “Trong cái vội vã cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây,những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực những tác phẩm đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp,coi công việc sáng tạo là một công việc quý báu và thiêng liêng”.Chúng ta cũng có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Đọc văn Thạch Lam,quả thực,ta thấy được “đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”.

Nguyễn Tuân đã cảm nhận ở Thạch Lam cái thần chắt chiu từ ngòi bút nhà văn, cũng chính là cái thần thái của con người Thạch Lam. Đó là một nhà văn dịu dàng trong hành động, nhân từ trong suy nghĩ, một nhà văn bằng cả cái tinh tế của hồn mình để cảm nhận được cái sắc màu của lá rơi, của những gì dịu dàng bé nhỏ nhất trong đời.

Văn Thạch Lam cũng có cái phong thái ấy. Đó là phong thái của những tác phẩm “cốt cách và phẩm chất văn học”. Trước hết nên hiểu thế nào là một tác phẩm có “cốt cách và phẩm chất văn học”? “Cốt cách” là cải riêng, cái độc đáo, phong cách thể hiện được hồn người , tình người. Một tác phẩn có “cốt cách” phải là một tác phẩn có giá trị, mang đến cho người đọc những hiểu biết và khơi gợi những tình cảm đẹp. Hơn thế, nó phải có “phẩm chất văn học” nghĩa là phải được chứa đựng trong một hình thức phù hợp, có phương tiên biểu hiện nghệ thuật tương xứng.

Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giời đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhăn, bình dị, đượm buồn trong lối viết của ông. Cái dư vị Thạch Lam tạo ra được chính là thực chất cuộc sống với những đau khổ của con người, những nỗi thương tâm của những chị Tí, những cô hàng xén và những cao đẹp trong hồn người: tình yêu thương con người của bé Sơn, khát vọng đáng quý của Liên, những rung cảm nhẹ nhàng trong tâm hồn Thanh (Dưới bóng hoàng lan) khi trở về quê,…

Những rung động ấy chính là cái dư vị của chât thơ trong trang viết Thạch Lam và đó cũng là “nhã thú” mà Nguyễn Tuân nói đến khi tiếp cận, đọc lại để lắng nghe chất thơ dịu nhẹ mà Thạch Lam lượm lặt đê góp lên trang viết của mình – một chất thơ bàn bạc toát ra từ tâm hồn người, nó cũng là cái đẹp. Nó đưa ta vào thế giới của những rung ngân tinh vi trong tâm hồn, Thạch Lam đã có được “niềm vui của những người nghệ sĩ chân chính là niềm vui của những người biết vươn tới tương lai” (Pauxtôpxki).

  • Kết bài:

Suốt đời tâm huyết với văn chương và những năm tháng ngắt ngủi của những ngày sống trên đơi này, Thach Lam đã đem trái tim mình đặt lên trang viết, cho nó sống mãi với ý nghĩa của những tác phẩm có giá trị. Bằng “những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học'” Thạch Lam xứng đáng với lòng yêu quý và trân trọng của mỗi người đọc chúng ta, xứng đáng với thiên chức của người nghệ sĩ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang