canh-cho-chu-trong-nha-nguc-la-canh-tuong-xua-nay-chua-tung-co

Vì sao Nguyễn Tuân lại gọi cảnh cho chữ trong nhà ngục là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

Vì sao Nguyễn Tuân lại gọi cảnh cho chữ trong nhà ngục là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

1. Bối cảnh:

– Không gian: Là một căn buồng tối ẩm ướt, chật hẹp, mạng nhện, phân chuột, phân gián, nơi xưa nay tồn tại cái xấu cái ác, lọc lừa tàn nhẫn.

– Thời gian: đêm tối nhưng lại là những giây phút cuối cùng của một con người tài hoa, dành trọn giây phút để dậm tô nét chữ, tặng lại cái đẹp cho đời, tặng cho tấm lòng tri âm, tri kỉ.

– Vị thế: Người cho chữ là người tử tù nhưng oai phong, đang trong tư thế ban ân huệ cuối cùng, những lời khuyên chí tình cho người khác. Kẻ xin chữ lẽ ra là kẻ có quyền hành hơn nhưng cúi đầu mang ơn.

– Đó là cuộc gặp gỡ đầy trớ trêu, éo le giữa người tử tù Huấn Cao với viên quản ngục chốn lao tù.Xét về phương diện xã hội, họ ở thế đối lập nhau (một bên là tử tù chờ ngày ra pháp trường; một bên là quản ngục nằm trong tay sinh mệnh của tù nhân). Nhưng xét về phương diện nghệ thuật,họ là những người có tâm hồn đồng điệu vì họ cùng yêu quý cái đẹp. Lúc đầu Huấn Cao khinh bạc nhưng sau khi hiểu ra “tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã đồng ý cho chữ viên quản ngục.

2. Cảnh tượng chưa từng có:

– Thủ pháp đối lập, tương phản dựng lên song hành cảnh nhà giam và cảnh cho chữ:

Cảnh nhà giam.  Cảnh cho chữ.
Cảnh tượng.Tối tăm, bẩn thỉu, hôi hám.– Sáng rực lên hình ảnh bó đuốc, vuông lụa trắng tình, mùi mực thơm.
Con người.– Quản ngục thầy thơ lại. – Tử tù cổ đeo gông.– Kẻ liên tài yêu cái đẹp, trọng cái tài gông, chân vướng xiềng xích

– Người nghệ sĩ thư pháp ung dung đĩnh đạc

Sự hình thành của cái đẹp đó là những nét chữ vuông tươi tắn, thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người.

– Tình huống cho chữ làm bộc lộ,thay đổi quan hệ,thái độ,hành vi khác thường của các nhân vật (Huấn Cao lặng nghĩ mỉm cười; quản ngục,thơ lại khúm núm,run rẩy; Huấn Cao tỏa sáng uy nghi giữa chốn ngục tù); làm tỏa sáng vẻ đẹp của cái tài,cái dũng,cái thiên lương. Tình huống cũng góp phần khắc họa tích cách của các nhân vật,tăng kịch tính và sức hấp dẫn của tác phẩm.

– Thông điệp: Niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của ánh sáng, cái đẹp, cái thiện.

3. Cảnh cho chữ là cảnh chưa nay chưa từng có vì một số lý do:

– Cảnh cho chữ diễn ra trong một không gian và thời gian đặc biệt: Thông thường người ta chỉ sáng tác nghệ thuật ở nơi có không gian rộng rãi, trang nghiêm hay ít nhất là nơi sạch sẽ, đằng này cảnh cho chữ lại diễn ra nơi cái ác ngự trị (nơi ngục tù bẩn thỉu, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián; cảnh diễn ravào lúc đêm khuya trong nhà ngục tối tăm).

– Con người đang ở trong trạng thái xung đột dữ dội: Người nghệ sĩ làm ra tác phẩm nghệ thuật phải thật sự thoải mái về tâm lý, thể xác trong khi Huấn Cao phải đeo gông, xiềng xích và nhận án tử vào ngày hôm. Người quản ngục là người có quyền bắt buộc tử tù nhưng ngược lại kẻ tử tù lại ở vị thế cao hơn, có quyền cho hay không cho chữ.

– Vị thế các nhân vật bị đảo ngược. Ttử tù thành thần tượng, ân nhân của cai ngục; cai ngục thành người ngưỡng mộ,chịu ơn tử tù. Ngục tù sụp đổ, cái đẹp của nghệ thuật thư pháp và tài hoa, thiên lương thăng hoa. Ánh sáng chiến thắng bóng tối; cái đẹp lên ngôi chiến thắng cái thấp hèn.

– Sự cảm hóa chưa từng có. Huấn Cao gửi đến Viên quản ngục lời khuyên chí tình: Con người chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương cho tâm hồn, muốn giữ được thiên lương phải tránh xa tội ác. Cái đẹp có thể sinh ra từ đất chết, từ nơi tội ác ngự trị nhưng không có thể sống cùng với tội ác. Quản ngục xúc động bái lĩnh, đón nhận.

Ý nghĩa của cảnh cho chữ:

– Ca ngợi tấm lòng thiện lương của hai nhân vật: Huấn Cao và viên quản ngục cùng với tâm hồn nghệ sĩ, vẻ đẹp của khí phách. Bày tỏ những quan điểm về cái đẹp, sự ngưỡng mộ đối với những người có tâm, bộc lộ khao khát giữ gìn giá trị đẹp đẽ của dân tộc, yêu quý trân trọng giá trị văn hóa truyền thống dân tộc à biểu hiện của lòng yêu nước thầm kín.

– Ca ngợi sự chiến thắng của cái đẹp dù ở nơi u ám nhất. Niềm tin chiến thắng của cái đẹp, cái lương thiện.

– Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người Huấn Cao.

– Tài năng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân: xây dựng nhân vật, sử dụng thành công thủ pháp đối lập, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, tạo tình huống truyện độc đáo.


Tham khảo:

Nguyễn Tuân gọi đây là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Có thể nói chủ đề của truyện ngắn “Chữ người tử tù” và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được bộc lộ sáng ngời trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục, bởi đây không đơn thuần là cảnh cho chữ, mà “đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ”. Cảnh cho chữ thể hiện tài năng viết truyện bậc thầy của Nguyễn Tuân.

Người tù Huấn Cao vốn là người có tâm hồn phóng khoáng, thích tự do và chán ghét những kẻ những nhiễu nhân dân. Ông còn là người nghệ sĩ tài năng yêu thích cái đẹp và luôn giữ gìn thiên lương trong sáng. Huấn Cao cũng có nguyên tắc riêng của mình, ông viết chữ nổi tiếng nhưng chỉ cho những người ông quý, không bao giờ cúi đầu trước uy quyền và đồng tiền. Quản ngục là một người có thiên lương, biết quý trọng người hiền và yêu cái đẹp nhưng lại làm nghề quản ngục. Khao khát được chữ của Huấn Cao treo trong nhà là khao khát lớn đời ông. Trong bối cảnh giữa một người tù và một tên quản ngục, ban đầu Huấn Cao không nhận ra tấm lòng của viên quản ngục nhưng sau đó người tử tù không thể từ chối mong muốn chính đáng của một người biệt nhỡn liên tài.

Viết chữ (thư pháp) vốn là một việc làm cao quý. Cảnh cho chữ thường diễn ra nơi thư phòng trang trọng, tôn nghiêm nhưng giờ lại diễn ra trong phòng giam tối tăm, bẩn thỉu. Người ta thường cho chữ vào đầu năm mới, với mong muốn mang đến cho người nhận chữ một sự an lành, phúc lộc trường tồn. Thế mà, thời gian cho chữ ở trong truyện lại là đêm cuối cùng của người tù trước khi nhận án tử hình. Người cho chữ thường là bậc tài cai học rộng, danh vị hơn người. Người nhận chữ phải là người trong sạch, có đạo đức, đáng trân trọng. Người cho chữ trong truyện lại là người tù, người nhận chữ là viên coi tù và vị thế của những con người trong cuộc như có sự hoán đổi cho nhau. Tâm thế của người cho chữ thường là lúc tự do, tự tại, đắm mình trong nghệ thuật và kinh thư. Người cho chữ trong truyện chân bị xiềng, cổ mang gông thật không phải là lúc để cho chữ thánh hiền. Những con người ở những vị thế đối lập nhau lại cùng bên nhau chiêm ngưỡng cái Đẹp.

Cảnh cho chữ diễn ra trong một không gian đặc biệt. Tình huống cho chữ diễn ra hết sức tự nhiên trong thời gian giữa đêm nhưng lại là thời gian cuối cùng của một con người tài hoa. Cảnh cho chữ thiêng liêng lại được diễn ra trong cảnh u ám của ngục tối. Bối cảnh được khắc họa trên nền đất ẩm thấp, mùi hôi của dán, chuột… Người cho chữ là người tử tù nhưng oai phong, đang trong tư thế ban ân huệ cuối cùng của mình cho người khác. Kẻ xin chữ lẻ ra là người có quyền hành hơn nhưng cúi đầu mang ơn.

Chính Nguyễn Tuân đã viết trong truyện, cảnh cho chữ là ”một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Vì sao vậy? Bình thường thì nói không có cảnh cho chữ đẹp đẽ và trang nghiêm trong chốn tù ngục tăm tối và nhơ bẩn này. Nhưng ở đây .lại có, bởi vì ở đây có sự chiến thắng của “thiên lương” con người. Và nhà văn, với nghệ thuật đặc tả tài tình, với thủ pháp tương phản sắc sảo, đã dựng lên những cảnh tượng đối lập để nêu bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của sự chiến thắng đó.

Sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Cảnh cho chữ diễn ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tối tăm, lại vào đêm khuya khoắt, càng dày đặc bóng tối. Nhưng “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”“lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã miêu tả đến hai lần cái “ánh sáng đỏ rực”, cái “lửa đóm cháy rừng rực” đã xua tan và đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Nhấn mạnh đến cái ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu ấy, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lí, mà sâu xa hơn và khái quát hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của con người: ánh sáng của lương trí, thiên lương và bóng tối của tàn bạo, độc ác. Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tốì của tàn bạo chính tại nơi tù ngục này. Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện.

Sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Sự phàm tục, sự nhơ bẩn ở đây được biểu thị rất rõ trong cảnh “một buồng chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”; còn cái đẹp, cái cao thượng lại được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng: màu trắng tinh của phiến lụa óng và mùi thơm từ châu mực bốc lên – điều dường như không thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lụa tượng trưng cho sự tinh khiết còn mùi thơm của thoi mực là hương thơm của tình người, tình đời.

Sự đốì lập nói trên đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn.Huấn Cao nói về mùi thơm của mực: “Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?…”. Thế là, không có nhà ngục nào tồn tại nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn mạng nhện, phân chuột, phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự tinh khiết của lụa – nó là sự thơm tho và tinh khiết của thiên lương con người.

Sự chiến thắng của tỉnh thần bất khuất trước thải độ cam chịu nô lệ. Đây là sự phối hợp giữa những con người trong cảnh cho chữ, và ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngôi: người tù lại như người làm chủ (đường hoàng, hiên ngang, ung dung, thanh thản); còn bọn quản lí nhà ngục lại khúm núm, sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của tù nhân (viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”).

Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ đã được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những con người trong cảnh ấy. Không còn là cảnh cho chữ bình thường mà là một cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa ngựời cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác gì một chúc thư về lẽ sống trước khi ông đi vào cõi bất tử. Và lời khuyên đầy tình người ấy đã có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Thủ pháp tương phản, độc đáo, sự đối lập gay gắt giữa bóng tối và ánh sáng; giữa cái hỗn độn xô bồ nơi phòng giam và sự tinh khiết của vuông lụa trắng, mùi thơm của thoi mực; giữa vẻ bình thản, ung dung của viên tử tù và vẻ khúm núm run run của quản ngục. Tất cả làm nên một cuộc hoán đổi kì lạ, chưa từng có. Thủ pháp tương phản làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên, thắng thế của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp trước cái xấu, sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn”Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.


Bài tham khảo:

Cảm nhận vẻ đẹp cảnh cho chữ trong “Chữ nguwoif tử tù” (Nguyễn Tuân)

  • Mở bài:

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn. Nhận định về cảnh ấy, Nguyễn Tuân khẳng định đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

  • Thân bài:

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách.

Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chì run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

  • Kết bài:

Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ tươi tắn nó nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.

Phân tích truyện ngắn Chữ Người Tử tù của Nguyễn Tuân

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang