»» Nội dung bài viết:
Cấu trúc của một bài thơ trữ tình
1. Nhan đề bài thơ.
Nhan đề bài thơ là nơi thể hiện tinh thần cơ bản của nội dung bài thơ, gợi ý cho người đọc hiểu chủ đề chính của bài thơ, giúp họ nhớ và phân biệt với hững bài thơ khác. Cũng có khi có những bài thơ không có đề (vô đề). Ở đây, có thể tác giả muốn để người đọc, qua nôi dung bài thơ, suy ngẫm và tưởng tượng mà tự hiểu. Nhan đề bài thơ có thể chỉ nên được coi như một định hướng để hiểu đúng bài thơ.
Nhan đề bài thơ thâu tóm tinh thần cơ bản của nội dung bài thơ, làm cho người đọc nhớ và phân biệt với các bài thơ khác nhau. Ví dụ, Thu điếu, Theo chân Bác, Người đi tìm hình của nước, …
Đối với những bài thơ có đề cần đọc kĩ toàn bài và suy nghĩ từ đề thơ tìm hiểu thêm nội dung sáng tác của tác giả. Còn những bài thơ không đề (vô đề), không đề không phải vì bài thơ không có một tư tưởng trung tâm nào. Tác giả muốn để người đọc từ nội dung bài thơ tự mình suy ngẫm tưởng tượng mà tự hiểu.
2. Dòng thơ và câu thơ.
Dòng thơ là đặc điểm quan trọng nhất của sự tổ chức ngôn ngữ thơ. Trong các thể thơ cách luật, số chữ mỗi dòng có sự quy định chặt chẽ. Số chữ của mỗi dòng thơ có quy định trước, thường phải bằng nhau (4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, 6 và 8 chữ). Ở thơ tự do, không có sự quy định đó nhưng thường mỗi dòng thơ cũng không quá 12 chữ.
Câu thơ là dòng thơ khi nó diễn đạt trọn vẹn một ý. Thường, mỗi câu thơ là một dòng thơ. Tuy nhiên, có khi hai hay nhiều dòng thơ mới thành một câu thơ:
“Ơi! Kháng chiến, mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường”.
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
3. Khổ thơ và đoạn thơ.
Khổ thơ là sự kết hợp của các câu thơ thành từng nhóm thống nhất với nhau về vần, nhịp, cú pháp, ngữ điệu. Mỗi khổ thơ được kết thúc bằng một khoảng nghỉ dài. Trong những bài thơ ngắn, mỗi khổ thơ có thể là một đoạn thơ nhưng trong nhiều trường hợp, nhiều khổ thơ mới thành một đoạn thơ.
Ðoạn thơ là sự tập họp nhiều câu thơ nhằm diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn, hoàn chỉnh. Sự phân đoạn một bài thơ chủ yếu dựa vào ý chứ không phụ thuộc vào vần, nhịp, cú pháp như khổ thơ. việc phân đoạn dựa vào ý thơ là một yếu tố khó xác định nên các nhà nghiên cứu có thể có sự phân đoạn các bài thơ cụ thể không giống nhau.
Khổ thơ có thể là một đoạn thơ, nhất là trong một bài thơ. Theo cách trình bày văn bản ngày nay, tác giả thường để giữa đoạn một khoảng cách rộng hơn khoảng cách giữa hai khổ thơ.
4. Tứ thơ và bài thơ.
Tứ thơ là ý lớn xuyến suốt bài thơ nhưng ý ấy không được nói thẳng ra mà hòa quyện, biến hóa qua hình tượng có nhiều tìm tòi, sáng tạo về mặt thể hiện ý của toàn bài một cách mới mẻ, thú vị. Tứ thơ là hình thức đặc biệt để biểu hiện ý nghĩa bài thơ một cách trực tiếp. Trần Đình Sử cho rằng: “Nhưng phân biệt kĩ, tứ và ý là hai bình diện khác nhau. Cái ý mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà tứ thơ gợi lên”. Tứ thơ thể hiện đậm nét cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, … của nhà thơ.
Bài thơ là một tác phẩm hoàn chỉnh, có cấu trúc nội tại, là tổng hợp từ đề thơ, dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, tứ thơ. Bài thơ khác với dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ ở chỗ là một tác phẩm hoàn chỉnh. Nói hoàn chỉnh là nói đến sự thống nhất nội tại. Mỗi bài thơ có độ dài ngắn khác nhau và dĩ nhiên giá trị của mỗi bài thơ phụ thuộc vào nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của nó chứ không phải ở chỗ ngắn dài.