»» Nội dung bài viết:
Phân tích bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống trong bài thơ “Chiều tối” (Mộ) của Hồ Chí Minh
- Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh, tập “Nhật kí trong tù”, bài thơ “Chiều tối”.
- Thân bài:
1. Bức tranh thiên nhiên (2 câu thơ đầu):
– Không gian nơi núi rừng lúc chiều muộn được khắc họa với vẻ yên bình nhưng thấm thía nỗi buồn:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
– Hình ảnh cánh chim “quyện điểu”: Được vận dụng bút pháp chấm phá – thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong Đường thi, bức tranh thiên nhiên của Hồ Chí Minh hiện lên qua hình ảnh cánh chim tuy giản đơn nhưng giàu sức gợi.
– Hình ảnh gợi thời gian: Dựa vào sắc thái của cánh chim “quyện” (mệt mỏi), ta hình dung ra một bầy chim tan tác, đang cố gắng vẫy đôi cánh mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn cực nhọc, chúng bỏ lại phía sau bóng chiều tàn, bỏ lại những vất vả để sinh tồn mà tìm về chốn nghỉ. Hoàng hôn trùm lên đất trời cũng là lúc đôi cánh “quy lâm” của chúng thêm nặng với thanh trắc của từ “quyện” đè nặng lên từng chuyển động.
– Hình ảnh gợi không gian: Không chỉ gọi xuống bóng xế tà, cánh chim mỏi ấy trở thành điểm nhấn, lột tả một không gian bao la, rộng lớn của núi rừng. Giữa khoảng trời mênh mông vùng sơn cước, xa xa phía bìa rừng là bầy chim nhỏ cất cánh bay, theo từng lần vỗ cánh, khi bóng của chúng càng thu nhỏ, bầu trời chiều càng trở nên im vắng, trống trải, mênh mông hơn. Đây chính là nghệ thuật lấy động tả tĩnh thường được bắt gặp trong thơ xưa.
– Hình ảnh gợi tâm trạng: Không phải người đi đường nào cũng có thể nhìn ra được vẻ mệt mỏi ẩn sau cánh chim chiều, Hồ Chí Minh phải là người có tình yêu thiên nhiên sâu sắc lắm, gắn kết với thiên nhiên vô cùng, mang cái hồn thi sĩ sâu lắng lãng mạn khôn tả mới dùng được chữ “quyện” để miêu tả bầy chim đang tất tả bay về rừng kia. Nhưng như vậy chưa đủ, Người không chỉ yêu, mà còn thấu hiểu cảnh. Bởi bản thân Hồ Chí Minh cũng như cánh chim kia, mệt mỏi, ủ rũ, chán chường và cực nhọc. Bầy chim về tổ sau một ngày kiếm mồi, tuy vất vả, nhưng vẫn còn tự do. Còn Bác, là tù nhân bị áp giải từ nhà lao này sang nhà ngục kia, hành trình “năm mươi ba cây số một ngày”, từ lúc “gà gáy một lần đêm chửa tan”. Qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của Đường thi, nỗi khổ của người tù xa xứ đã được bộc lộ trọn vẹn trước người đọc như vậy.
– Hai hình ảnh cánh chim và chòm mây không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên đẹp mà buồn, chúng còn bộc lộ con người Hồ Chí Minh, một tâm hồn yêu, gắn kết, cùng nhịp điệu với thiên nhiên, một trái tim lãng mạn với thơ ca, mọt người chiến sĩ đứng trước gian lao không chịu chùn bước khuất phục: người đọc thấy được cái buồn, cái mệt của Người, nhưng không mảy may tìm được dấu hiệu bỏ cuộc. Có thể nói, điều khiến cho bức tranh miền sơn cước đẹp lanh động lòng người còn là ý chí, tinh thần hiện đại của Hồ Chí Minh.
2. Bức tranh cuộc sống (2 câu thơ sau):
– Sự xuất hiện của người lao động bình dị và hình ảnh lò than rực hồng gợi không khí ấm áp với ánh sáng và niềm vui sum họp:
Thôn sơn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
– Hình ảnh cô gái xóm núi “thôn sơn thiếu nữ”: Trên đường chuyển lao của Hồ Chí Minh, Người không chỉ chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên mà còn ngắm nhìn cả cuộc sống con người vùng sơn dã. Lọt vào tầm mắt Người là hình ảnh cô gái miền núi đang lao động, một hình ảnh bé nhỏ gợi nên biết bao điều.
– Hình ảnh gợi sức sống: Hình ảnh “thôn sơn thiếu nữ” được đặt ở trung tâm bài thơ, làm điểm sáng nghệ thuật, điểm nhấn thu hút người đọc. Mọi ánh nhìn như đổ dồn vào người con gái khỏe khoắn, đầy sức sống, đang hăng say lao động. Từng vòng xoay của cối xay ngô qua phép điệp vòng “ma bao túc/ bao túc ma hoàn” gợi lên chuyển động nhịp nhàng, dẻo dai của người lao động đang vui vẻ chuẩn bị bữa tối. Đây là cảnh tượng dễ dàng được bắt gặp ở bất kỳ miên thôn sơn nào: con người đơn giản mộc mạc làm công việc bình dị quen thuộc. Bản dịch của Nam Trân với hai chữ “cô em” tuy đánh mất phần trang trọng song lại bù đắp sự thân thuộc, gần gũi trong tiếng gọi.
– Ý thơ phản phất nét cổ điển: Trong thơ xưa hình ảnh con người điểm xuyết trên nền bức tranh thiên nhiên cũng đã xuất hiện nhiều, như trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Ngư, tiều, canh, mục hiện lên bé nhỏ, mờ nhạt trong những bức cổ họa Đường thi.
– Hình ảnh thơ in dấu nét hiện đại: Một trong số ít những thi nhân sáng tạo thơ Đường, thể hiện sức sống nhộn nhịp, vui vẻ của con người trên bức tranh thiên nhiên có Nguyễn Trãi đã viết: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ“. Nếu như tác giả “Cảnh ngày hè” lấy âm thanh sống động để miêu tả cuộc sống, sinh hoạt của người lao động thì Hồ Chí Minh lại lấy những âm điệu nhịp nhàng từ chiếc cối xay ngô và dáng hình uyển chuyển của người thiếu nữ để họa con người. Người thiếu nữ không những không bị hòa lẫn vào cảnh vật im lìm lặng lẽ mà còn trở thành tâm điểm bức tranh.
– Hình ảnh người con gái xay ngô đánh thức trong tâm trí người chiến sĩ lưu lạc nơi đất khách về người dân lao động hiền lành, chất phác, như những con dân Việt Nam đang chịu cảnh lầm than cần người tài cứu giúp. Hình ảnh ấy thôi thúc tác giả cố gắng phấn đấu, bước tiếp trên con đường cứu nước gian khổ. Vì vậy, hình tượng “thôn sơn thiếu nữ” mang đậm tính tích cực không những là nguồn động lực, mà còn là lời nhắc nhở đến trái tim yêu nước nồng nàn của Hồ Chí Minh.
– Hình ảnh “lò than đã rực hồng” – “lô dĩ hồng”: Được đặt ở trung tâm bài thơ, cảnh tượng người con gái miền núi xay ngô chính là điểm sáng của tác phẩm. Tuy nhiên, đó không phải hình ảnh đắt giá duy nhất. Nhãn tự của “Chiều tối” lại nằm ở cuối bài, là ánh sáng tỏa ra từ lo than – “hồng” – ấm áp và rực rỡ.
– Để đảm bảo không đánh mất cái hay và tinh tế của từ ngữ, người đọc nên nhìn nhận thời gian trong bài “Mộ” qua phần phiên âm. Vì trong phần phiên âm không hề có chữ “tối” nên chữ “hồng” ở câu kết càng tỏa sáng hơn bao giờ hết. Ánh lửa chỉ có thể rực hồng khi nền trời đã ngả sang màu xanh thẫm. Người ta chỉ có thể nhìn ra ánh sáng bừng lên từ chiếc lò than bé nhỏ khi vạn vật xung quanh đã chìm trong bóng tối. Đây chính là ví dụ điển hình cho một đặc trưng của Đường thi – “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời) hay “họa vân hiển nguyệt” (vẽ mây hiện trăng).
– Nếu như ở trên, độc giả cảm nhận sự hiu quạnh, man mác buồn, cái se lạnh buổi chiều tàn thì ở đây, người đọc lại thấy ấm lòng khi nhìn ra ánh lửa bập bùng từ căn nhà nhỏ dưới chân núi. Lại một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định sức sống dẻo dai, khỏe khoắn của con người. Hơi ấm từ chữ “hồng” khiến ta nghĩ đến những con người lao động chân chất châm nên ngọn lửa ấy. Ngọn lửa ấy giúp họ nấu cơm nóng hổi, tạo hơi ấm trong những ngày lạnh giá, chiếu sáng khi màn đêm buông xuống, giúp tận hưởng cuộc sống dù vẫn còn nhiều thiếu thốn về vật chất song có hạnh phúc mộc mạc, có niềm vui bình dị.
– Sau một ngày chuyển lao mệt mỏi, cực nhọc, Hồ Chí Minh không nhìn về điểm cuối chân trời xa xăm không thấy tận cùng, cũng không nhìn về phía rừng sâu tối không thấy lối ra, cũng không thả hồn lên những đám mây lững lờ bay vô định. Người đặt trọn tầm nhìn của mình về phía “lò than đã rực hồng”. Ngọn lửa “hồng” tùy nhỏ nhưng cháy mãnh liệt ấy thu hút cả đôi mắt và trái tim của chủ thể trữ tình. Nhìn về phía đó, Bác thấy niềm tin về hạnh phúc luôn tồn tại ở đâu đó trong cuộc đời, phụ thuộc vào con người ta có chịu tìm kiếm, hay tạo ra hay không mà thôi. Cũng như ngọn lửa, nó không thể tỏa ánh hồng chiếu sáng cả vùng sơn cước bao la rộng lớn nếu không có bàn tay con người thắp nên. Cũng như đồng bào Việt Nam không thể thoát khỏi lầm than, khổ cực nếu không có những chiến sĩ dũng cảm dám đứng lên, ra đi tìm đường cứu nước. Từ đó, trái tim của Hồ Chí Minh được tiếp thêm sức mạnh, ý chí và nghị lực. Những mệt mỏi đã gửi vào cánh chim, chòm mây không còn, trong cặp mắt Người mới đây còn chứa nặng lo lắng, ưu tư nay chỉ thấy hi vọng, khát khao tìm ra chân trời mới.
– Chữ “hồng” tạo nên sự vận chuyển của hình tượng thơ: từ quạnh vắng đến tươi vui, từ bóng tối ra ánh sáng, từ mệt mỏi tới hân hoan, từ bế tắc về hi vọng. Trái với mường tượng của người đọc, “Chiều tối” không kết thúc bằng một khung cảnh u buồn với lời thở than của người tù, mà khép lại trong niềm hạnh phúc êm đềm, thanh bình. Qua đó, người đọc cảm nhận được tình yêu cuộc sống, tinh thần “thép” và tâm hồn đẹp của Hồ Chí Minh. Chính những nét đẹp đó, kết hợp với nghệ thuật tài tình đã tạo nên tứ thơ cô đọng, giàu ý nghĩa.
– Phát hiện ra bức tranh cuộc sống đó, nhân vật trữ tình bộc lộ sự đồng cảm với niềm vui đời thường, đằng sau đó là ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người đang lưu lạc xa nhà xa quê.
3. Nghệ thuật miêu tả cảnh đặc sắc:
+ Có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại.
+ Ngôn ngữ được sử dụng linh hoạt và sáng tạo.
+ Sự chuyển dịch từ miêu tả thiên nhiên sang miêu tả cuộc sống, chuyển dịch trong không gian và thời gian nghệ thuật góp phần tạo sự vận động của tứ thơ.
– Chân dung tinh thần tác giả Hồ Chí Minh thể hiện qua bài thơ: yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống, phong thái ung dung tự chủ và niềm lạc quan, nghị lực kiên cường: dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu vẫn luôn hướng về sự sống và ánh sáng.
- Kết bài:
Bài thơ sử dụng thành công thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại. Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc với những hình ảnh vận động tự nhiên, bất ngờ từ bóng tối đến ánh sáng… Bút pháp gợi tả thiên nhiên với những hình ảnh bình dị, gần gũi mà giàu xúc cảm. Từ đó, khắc họa bức tranh thiên nhiên giao quyện bức tranh cuộc sống con người nơi núi rừng hoang dã. Đặc biệt giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh, thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin dai dẳng của Người vào tương lai phía trước. Với những giá trị sâu sắc, “Chiều tối” đã trở thành một trong những thi phẩm tiêu biểu của hồn thơ Hồ Chí Minh và thời đại. Dù cho bao năm tháng trôi đi, độc giả vẫn luôn rung động trước vẻ đẹp thiên nhiên và cảm xúc nhân vật trữ tình trong tác phẩm.
Tham khảo:
Phân tích bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống trong bài thơ “Chiều tối” (Mộ) của Hồ Chí Minh
1. Bức tranh thiên nhiên chiều tà qua 2 câu đầu:
– Bức tranh thiên nhiên được thể hiện bằng vài nét vẽ tiêu biểu cho thời khắc cuối cùng của một ngày trước khi bóng tối buông màn phủ lên vạn vật:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
– Mọi vật dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Cánh chim mỏi mệt sau một ngày rong ruổi, trong giờ khắc của ngày tàn đang về rừng tìm tổ ấm (quyện điểu). Áng mây cô lẻ đang lững lờ trôi chầm chậm giữa bầu trời cao rộng (cô vân). Giữa bầu trời mênh mông, cánh chim và chòm mây càng cô đơn lẻ loi.
– Cảnh chiều trong thơ Bác còn mang một vẻ đẹp vĩnh hằng vì hình ảnh cánh chim, chòm mây đã được sử dụng rất nhiều trong thơ cổ:
Hạc vàng bay mất từ lâu
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.
(Thôi Hiệu)
Trong ý thơ có sự hòa hợp, đồng điệu giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật thiên nhiên. Trên trời cao, cánh chim đang mệt mỏi với hành trình của sự sống thì dưới mặt đất, một người tù cũng đang lê bước trên đường dài gian lao. Vật và người đều cô đơn, mệt mỏi, mong muốn tìm được tổ ấm, chốn nghỉ.
Nhưng giữa thiên nhiên và con người có sự khác biệt. Cánh chim, chòm mây còn được tự do trên bầu trời cao rộng. Cánh chim chiều được tìm về chốn ngủ, những đám mây cũng lững lờ nghỉ ngơi trên bầu trời bao la. Trong khi đó, Bác là người tù vẫn đang mang xiềng xích, bị tước đoạt tự do, bị áp giải và không biết đâu là chốn dừng chân nghỉ ngơi dù chiều sắp hết, ngày đã gần tàn.
Trong hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt mà cảm hứng thơ vẫn đến với Bác. Tâm hồn Bác vẫn tha thiết hướng về thiên nhiên và tìm thấy ở thiên nhiên sự đồng cảm. Cội nguồn của sự đồng cảm ấy là tình yêu thương mênh mông của Bác dành cho mọi sự sống trên đời. Hai câu thơ đầu mang đến cảm nhận thiên nhiên thật sâu sắc và tinh tế. Những câu thơ mềm mại nhưng lại có “chất thép” bên trong. Không có chân dung người tù khổ ải mà chỉ hiện ra dáng vẻ phong độ của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung, thư thái thưởng ngoạn cảnh chiều hôm nơi rừng núi. Qua đó, ta thấy được chân dung tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tâm hồn đã vượt lên cảnh ngục tù, xiềng xích thể hiện ý chí nghị lực phi thường, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ cách mạng.
* Đánh giá chung: Thiên nhiên trong thơ Bác mang nét đẹp cổ điển với những hình ảnh thơ gần gũi, bình dị. Đồng thời bức tranh thiên nhiên và con người có sự giao hòa với Ẩn sau bức tranh thiên nhiên là những nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ – tả cảnh ngụ tình.
2. Hai câu cuối: Bức tranh đời sống con người.
Nếu như trong hai câu thơ đầu bức tranh thiên nhiên mang tính chất ước lệ cổ điển thì trong hai câu thơ sau, bức tranh đời sống con người lại được miêu tả một cách cụ thể, sinh động như một bức tranh hiện thực. Chính nét vẽ đời thường ấy đã làm cho bài thơ thêm dáng vẻ hiện đại:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Câu thơ thứ ba đã diễn tả một cách chân thực, giản dị hình ảnh cô gái Trung Hoa đang xay ngô trong buổi chiều nơi núi rừng heo hút. Công việc mệt nhọc nhưng hình ảnh cô gái xay ngô lại toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh, đầy sức sống.
Trong thơ cổ, con người ẩn dật hoặc hoà tan vào thiên nhiên. Hình ảnh con người chỉ tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời thiên nhiên: “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” (Qua đèo Ngang). Khác thơ cổ, hình ảnh con người trong thơ Bác là con người lao động đời thường, bình dị quen thuộc nổi bật lên như là trung tâm của cảnh vật. Hình ảnh con người lao động xuất hiện làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh. Bức tranh cuộc sống lao động của con người tuy vất vả mà tự do đã mang lại cho Bác – một người tù đang trên đường chuyển lao nhọc nhằn chút hơi ấm của sự sống, niềm vui và hạnh phúc. Nhờ đó, cảnh chiều tối bỗng dưng có sinh khí. Tuy khổ sở về cảnh ngục tù nhưng Bác vẫn kiên cường, lạc Đó cũng là tinh thần “thép” của người chiến sĩ cộng sản.
Câu thơ không chỉ miêu tả một cô gái nghèo vùng sơn cước gắn với cuộc sống lao động mà còn diễn tả sự chảy trôi của thời gian. Bài thơ độc đáo ở chỗ viết về cảnh chiều tối, bài thơ nguyên tác tên “Mộ” mà suốt bài thơ không có một chữ “Mộ” nào. Vậy mà cảnh chiều và hồn chiều vẫn hiện lên rất rõ, rất đẹp và đầy vẻ gợi cảm ở miền sơn cước hoang vắng. Người đọc vẫn nhận ra trời tối bởi vòng quay khẩn trương của cối xay ngô và bếp lửa rực hồng. Sự nối âm liên hoàn giữa cụm từ “ma bao túc” ở câu 3 với “bao túc ma hoàn” ở câu 4 tạo nên một nhịp điệu đều và khoẻ khoắn diễn tả vòng quay nhịp nhàng không dứt của cối xay ngô. Thể hiện sự chăm chỉ, cần mẫn với công việc của cô gái xóm núi cũng như dòng lưu chuyển của thời gian. Nhịp điệu hơi thở của cuộc sống đời thường đi vào thơ Bác hết sức tự nhiên. Nhịp điệu đó âm vang tình yêu của Bác đối với nhũng kiếp người cần lao.
Thi pháp cổ điển lấy ánh sáng để tả bóng tối: “Xay hết lò than đã rực hồng” giúp người đọc hình dung ra bóng tối đang buông xuống xóm núi. Vì trời tối người tù trên đường chuyển lao mới nhìn thấy ánh lửa rực hồng lên đến thế.
Trong chữ Hán, chữ “hồng” không có nghĩa là “đỏ” mà còn là “ấm”. Trong bài “Mộ”, chữ “hồng” được xem là điểm sáng thẩm mỹ, là “nhãn tự” của bài thơ. Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng ấm cả không gian chiều tối. Đêm tối không lạnh lẽo, âm u mà ấm áp, bừng sáng bởi ngọn lửa hồng, tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người đang cất bước trên đường xa. Nhà thơ Hoàng Trung Thông từng nhận xét rằng: “Chữ hồng đã gánh được 27 chữ còn lại, xua tan đi bóng đêm, sự lạnh lẽo, tỏa hơi ấm, niềm vui, ánh sáng cho cả bài thơ”.
Ý thơ vận động từ bóng tối đến ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui. Hình ảnh cô gái và bếp lửa gợi cảnh gia đình, những hạt ngô đã xay xong gợi niềm vui lao động, sự nghỉ ngơi và sum vầy. Thấp thoáng trong những hình ảnh ấy như có một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người tù đang lưu lạc xa nhà, xa quê hương đất nước. Sự luân chuyển về thời gian: buổi chiều kết thúc, chuyển sang đêm tối nhưng là đêm tối ấm áp, bừng sáng.
Hình ảnh thơ vừa mang tính cổ điển (điệp vòng, nhãn tự “hồng”,…) vừa mang tính hiện đại (hình ảnh con người dân dã, giản dị là chủ thể trung tâm của bức tranh, mạch thơ vận động hướng về sự sống, ánh sáng). Tâm hồn của Bác – nhà cách mạng đã vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để chia sẻ niềm vui lao động với cô gái vùng sơn cước, đồng cảm trước sự vất vả của người lao động. Trung tâm bài thơ chính là con người lao động và ngọn lửa của sự sống. Vì thế, bài thơ tuy viết về cảnh chiều tối nhưng lại thắp sáng lên trong lòng người đọc một ngọn lửa hồng ấm áp của niềm tin yêu đời. Niềm lạc quan, yêu đời của một tâm hồn luôn hướng về sự sống, ánh sáng, tương lai. Đó cũng chính là tinh thần thép của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh.