»» Nội dung bài viết:
Nghị luận: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ” (André Chénien)
- Mở bài:
Sê khốp từng nói: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy”. Nghĩa là, mỗi tác phẩm đều lấy con người làm đối tượng phản ánh trọng tâm nhất. Văn học thoát ra từ đời sống và quay lại phục vụ cho cuộc sống ấy. Bàn về vai trò của nghệ thuật và thiên chức của người nghệ sĩ, André Chénien cho rằng: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ”.
- Thân bài:
1. Giải thích:
– “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ”: Nghệ thuật ở đây là những đặc sắc về hình thức tạo nên vẻ đẹp của lời thơ (tứ thơ, thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh…)
– “Trái tim mới làm nên thi sĩ”: Trái tim là thế giới của đời sống tâm hồn, tình cảm, tâm nguyện của người nghệ sĩ gửi gắm vào sáng tác nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng. Chính trái tim người nghệ sĩ mới làm nên cái hồn cho thơ.
⇒ Ý kiến của André Chénien khẳng định: Một bài thơ hay không chỉ có hình thức nghệ thuật đặc sắc mà quan trọng, phải là những tình cảm, những rung cảm mãnh liệt, chân thành của người nghệ sĩ. Chính thế giới tâm hồn ấy đã làm nên cái hồn thơ, là yếu tố không thể thiếu của một nghệ sĩ chân chính.
2. Phân tích, chứng minh, bàn luận:
– Trong văn chương hình thức luôn đóng vai trò thật sự nổi bật. Một bài thơ có giá trị phải có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo được làm nên từ tài năng thiên phú của người nghệ sĩ.
– Nếu thơ chỉ vẻn vẹn những hình thức nghệ thuật hoa mĩ mà không có những rung cảm mãnh liệt từ trái tim người nghệ sĩ khi đứng trước cuộc đời, thì những hình thức ấy dù đẹp, dù hấp dẫn đến đâu cũng chỉ làm nên bài thơ có xác mà không có hồn.
– Thơ phải là tiếng nói trữ tình, tiếng nói của cảm xúc, phải là thư kí trung thành của trái tim. Tâm hồn người nghệ sĩ mới là yếu tố quan trọng làm nên những câu thơ có tầm tư tưởng, những câu thơ có thể chạm đến cõi sâu kín nhất trong tâm hồn con người. André Chénien đã nhấn mạnh đến những rung cảm thẩm mỹ của người nghệ sĩ.
– Tuy nhiên, một tác phẩm thực sự có giá trị đều phải là “một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”(L.Lêônôp). Cái tài và cái tâm, “nghệ thuật” và “trái tim” đều là những nhân tố quan trọng để hình thành một tác phẩm thơ ca nổi tiếng và một nhà thơ vĩ đại. Trong hai yếu tố đó, cái tâm được coi là yếu tố cốt lõi để làm nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính
– Một nhà thơ chân chính phải có một trái tim đa cảm, phải biết yêu thương con người, biết đấu tranh với cái xấu, cái ác đồng thời phải gắn bó với cuộc đời “thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật đầy”. Và nhà thơ cũng phải biết “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.
3. Đánh giá, mở rộng:
– Đánh giá chung về tác phẩm (hoặc đoạn thơ).
– Nhận xét của André Chénien đã khẳng định vai trò quan trọng của tình cảm trong thơ và mối quan hệ hài hòa giữa nội dung và hình thức
– Nhận xét của André Chénien giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn, hiểu và biết trân trọng tấm lòng và cả những sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ cho đời.
– Là bài học cho người sáng tác và người tiếp nhận văn học.
- Kết bài:
Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên trái đất. Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói,tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn. Tất cả đều phụ thuộc vào trái tim của người nghệ sĩ vậy.
Bài văn tham khảo:
Anđré Chénien – nhà thơ Pháp đã viết: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm thi sĩ”. Anh/ chị hiểu câu trên như thế nào? Dựa vào đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” (trích Chinh phụ ngâm – Nguyên tác chữ Hán Đặng Trần Côn, bản dịch Đoàn Thị Điểm) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Hướng dẫn:
1. Giải thích ý kiến:
– “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ ”: Nghệ thuật ờ đây có thể hiểu là cái đẹp của lời thơ, ý thơ, tứ thơ và các yếu tố tổ chức câu thơ như thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, gieo vần, ngắt nhịp, giọng điệu; các biện pháp tu từ và các phương thức biểu đạt…
– “Trái tim mới làm nên thi sĩ”: Trái tim là thế giới của đời sống tâm hồn, tình cảm, tâm nguyện của người nghệ sĩ gửi gắm vào sáng tác nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng. Chính trái tim người nghệ sĩ mới làm nên cái hồn cho thơ.
– “Nghệ thuật” và “trái tim” là những chất liệu để là nên những câu thơ hay và sản sinh ra những nhà thơ vĩ đại.
– Ý kiến của Anđré Chénien khẳng định và đề cao thiên chức của nhà thơ và quá trình sáng tạo nghệ thuật: Mỗi một nhà thơ phải có một trái tim biết yêu thương cái đẹp cái thiện, phải biết đấu tranh với cái xấu, cái ác để bênh vực và bảo vệ cho quyền sống và nhân phẩm của con người nhất là những con người đau khổ, bất hạnh. Và nhà thơ cũng phải biết “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.
2. Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ(trích Chinh phụ ngâm – Nguyên tác chữ Hán Đặng Trần Côn, bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm) để làm sáng tỏ cách hiểu của mình.
a. Nghệ thuật của khúc ngâm được thể hiện ở những sáng tạo ấn tượng:
+ Thể thơ song thất lục bát với sự kết hợp hai câu thơ bảy chữ kiểu Đường thi hàm súc, trang nhã, đăng đối gợi cảnh, gợi tình tạo nên nhịp thơ buồn thương man mác.
+ Ngôn ngữ thơ tài hoa, đài các, tinh xác nhuần nhị; tính uyên bác, trang trọng được thể hiện ở hệ thống điển tích, điển cố.
+ Lời thơ mượt mà, luyến láy đằm thắm chất trữ tình được chuyển tải bằng hệ thống từ láy tượng thanh, tượng hình: phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, thăm thẳm, đau đáu, trùng trùng…
+ Hình ảnh thơ ước lệ, giàu tính tạo hình, biến hoá linh hoạt phù hợp với bức chân dung u sầu, ai oán của người chinh phụ.
– Nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm sắc sảo, tài hoa bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, tả cảnh ngụ tình để xây dựng được chân dung tâm trạng và số phận của người chinh phụ.
+ Các biện pháp tu từ, nhạc điệu đã làm nên giá trị nghệ thuật của khúc ngâm.
b. Trái tim của nhà thơ trong trích ngâm:
+ Một trái tim biết yêu thương, đồng cảm với nỗi bất hạnh của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến.
+ Một trái tim biết trân trọng tình yêu thuỷ chung và khát vọng cuộc sống bình yên, hạnh phúc của người chinh phụ.
+ Trái tim biết lên tiếng bênh vực cho quyền sống con người, gián tiếp tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã gây nên nỗi đau khổ, bất hạnh cho người chinh phụ, người phụ nữ nói chung.
+ Trái tim ấy ánh lên hào quang của giá trị nhân văn, luôn tri âm với đồng loại và sẽ đồng vọng mãi với nhiều thế hệ.
3. Đánh giá chung:
+ Chinh phụ ngâm luôn mãi chứa đựng những nỗi khắc khoải nhân sinh, đánh thức lương tri nhân loại về ý thức đấu tranh đòi quyền sống cho con người.
+ Ý kiến của Anđré Chénien giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn, hiểu và biết trân trọng tấm lòng và và những sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ cho đời. Học sinh biết chọn những dẫn chứng tiêu biểu, hay để làm sáng tỏ những ý kiến của mình.
Bài văn tham khảo 2:
Nhà thơ Pháp Andre Chanien cho rằng: “Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ”. Em hiểu quan niệm trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ quan niệm đó qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải (Ngữ Văn 9, tập hai, NXB Giáo dục)
- Mở bài:
Thơ ca từ lâu đã được xem là một món quà quý báu dành cho đời sống tinh thần của mỗi người. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là một tấm gương phản ánh một thế giới khách quan. Tác phẩm nghệ thuật, văn học chân chính là nơi để các tác giả gửi gắm tâm sự, tình cảm hay khát vọng sâu xa của mình thông qua những vần thơ, con chữ. Và nhà thơ người pháp Andre Chenien đã nhấn mạnh vai trò của nghệ thuật và tình cảm cảm xúc trong sáng tạo văn chương: “Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ”. Nghệ thuật trong thơ ca chính là sự sáng tạo, nó bắt nguồn từ chất liệu trong cuộc sống cũng như cảm xúc của các nhà thơ. Điều đó ta nhận thấy rõ qua tác phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
- Thân bài:
Văn học không phải chỉ là bức tranh về đời sống mà còn là tiếng nói của tình cảm con người. Văn học nâng đỡ, bồi đắp cái thiện của con người trong cuộc sống, chứ không chống lại con người. Giàu có mà lòng người không vui thì đây đó vẫn còn lắm rối ren cần được cởi nút. Và ở đó, tư duy cho sự phát triển con người mới là cứu cánh để văn học thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống. Cuộc sống là muôn hình vạn trạng, có những hạnh phúc, sung sướng, nhưng rồi đôi lúc cũng có đầy sóng gió, nhọc nhằn thì thơ ca cũng thế, thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống mà cuộc sống bao giờ cũng là cảm hứng mênh mông bất tận của những tâm hồn thi sĩ. Một trái tim yêu thương, gần gũi bao giờ cũng là một tâm hồn đẹp, một lí tưởng cao cả làm nên cái hồn cho thơ. Nếu chỉ là những câu chữ khô khan cằn cỗi thì đó chỉ mãi là những ngôn ngữ. Còn nghệ thuật ngôn ngữ nó phải xuất phát từ trái tim đó mới là yếu tạo nên dựng nên sự thành công của một tác phẩm. “Nghệ thuật” và “Trái tim” như lời khẳng định của Andre Chenien với tất cả nhân loại rằng đối với thơ ca nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì những tác phẩm sẽ không bao giờ có cái hồn trong thơ, vì giá trị của nghệ thuật và trái tim của người nghệ sĩ chính là cốt lõi làm nên một tác phẩm nghệ thuật. Một người nghệ sĩ thực thụ phải là người có cảm xúc, biết thấu hiểu lẽ đời, yêu thương trân quý những con người và những gì xung quanh trong cuộc sống.
Với nhà thơ Thanh Hải giữa giây phút giao thoa của đất trời đón mùa xuân, và trong thời khắc giữa cái sống và cái chết cận kề, tiếng thơ của ông vang lên như lời tự bạch chân thành với những tâm niệm đầy tính nhân văn về lẽ sống và đời thơ và thông điệp: hãy hiến dâng cho Tổ quốc. Thanh Hải đã vĩnh viễn ra đi ngay sau đó nhưng ông đã kịp dâng đời “Một mùa xuân nho nhỏ”.
Bài thơ nhanh chóng chinh phục người đọc trước hết bởi âm hưởng, ngân nga mà sâu lắng, bởi năng lượng cảm xúc dồi dào truyền tải và lan tỏa. Chính cái giọng điệu dịu ngọt, chan chứa tình yêu đời, yêu cuộc sống đã tạo nên giá trị nghệ thuật đặc sắc và góp phần làm nổi bật lên cấu tứ, hình ảnh, hình tượng và ngôn từ của bài thơ.
Ta dễ dàng nhận thấy bài thơ có cấu tứ “lộ thiên” theo chiều không gian mở. Mạch thơ đi theo trình tự: Xuân thiên nhiên – Xuân con người – Xuân đất nước – Xuân thi sĩ và cuối cùng là Xuân đất Huế quê hương. Đây là dạng cấu tứ thông thường. Nếu không có những thành công ở những yếu tố nghệ thuật khác loại cấu tứ này, dễ sa vào đơn giản, dễ dãi. Nhưng nhờ những hình ảnh độc đáo, bất ngờ, nhạc điệu, trạng thái xuất thần của cảm xúc đã khiến bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên như một dòng sông đầy ắp hiền hoà, ào ạt reo ca.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Mùa xuân được miêu tả bằng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc cùng với tiếng hót trong trẻo của chim chiền chiện. Cảnh mùa xuân ấy gợi ra một không gian tươi mát, dịu dàng và đằm thắm. Cảnh vật mùa xuân đã làm tác giả dâng lên một niềm cảm xúc. Tiếng ơi trong câu thơ là hô ngữ, là từ gợi cảm biểu lộ sự thân thiết, yêu thương. Hai tiếng hót chi là cách, nói dịu ngọt của người dân xứ Huế đã làm tăng tính biểu cảm của vần thơ. Tác giả đã mượn tiếng chim hót để biểu lộ cảm xúc của mình về bức tranh mùa xuân. Tác giả không chỉ biểu lộ sự trân trọng, nâng niu những cái đẹp trong mùa xuân ấy. Tiếng chim hồn nhiên, trong trẻo mà da diết phía bầu trời cao vút lại như kết đọng thành những giọt âm thanh rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu lặng, khuấy lên bao nỗi niềm, dìu nhà thơ vào cõi mộng: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Nhà thơ hứng lấy tiếng chim, (có thể hình dung) với một sự đón nhận, nâng niu, trân quí và cất giữ, như sợ rằng, nếu không làm như vậy cái âm thanh ngọt lành kia sẽ tắt vào thinh vắng. Đây là một chi tiết có sức tỏa sáng trong bài thơ. Và nó chỉ có thể được phát ra từ cảm xúc đặc biệt, hoàn cảnh đặc biệt của một con người nhiều trải nghiệm, hiểu rõ đời mình chỉ còn là những khoảnh khắc ngắn ngủi.
Mùa xuân thiên nhiên cũng là nguyên cớ tạo nên mùa xuân con người.
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”.
Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Lộc của lính là cành lá ngụy trang. Những cành lá ngụy trang biến thành lộc đầu mùa được mang đến theo từng bước chân người lính. Lộc mà người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là xương máu mà các anh đổ xuống, là công sức bảo vệ mùa xuân thanh bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà. Người lính biểu trưng cho những con người bảo vệ Tổ quốc và người nông dân là những con người tiêu biểu trong công cuộc xây dựng đất nước. Bằng hình thức sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối. Từ bàn tay người nông dân “lộc trải dài nương mạ”. Bàn tay của “người ra đồng” tô điểm cho mùa xuân đất nước. Đôi bàn tay kì diệu của những người họa sĩ ấy đã vẽ nên những mảng xanh của niềm tin, hi vọng lên đất nước. Cũng như người cầm súng, lộc của người ra đồng mang đến cũng đáng trân trọng biết bao. Lộc mà người nông dân tặng là mồ hôi, là bát cơm gạo, là cơm no áo ấm. Người cầm súng, người ra đồng là hình ảnh rất tiêu biểu cho những con người đóng góp, cống hiến cả thân mình để làm nên mùa xuân Tổ quốc.
Theo chiều không gian mở, cảm xúc của nhà thơ được nâng lên ở sự suy ngẫm về mùa xuân đất nước:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Khái quát về đất nước Việt Nam vất vả, gian lao, đau thương, ngời sáng là điểm gặp gỡ của rất nhiều nhà thơ: Nguyễn Đình Thi từng viết: “Anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”… Vậy mà cách nói giản dị hình ảnh quen thuộc trong thơ Thanh Hải vẫn “chạm” vào cái phần thiêng liêng trong sâu thẳm tâm hồn con người – tình yêu Tổ quốc. Ở đây số phận của đất nước, dân tộc đã hàm chứa số phận của công dân. Mỗi người là một phần thân thể của đất nước. Và đất nước dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn “như vì sao đi lên phía trước”, vẫn kiên cường vượt lên tăm tối, nô lệ, bần cùng mà toả sáng. Cảm hứng ngợi ca và khí thế hào sảng của câu thơ đã xác định vị trí của nhà thơ trong cuộc hành quân vĩ đại của dân tộc. Vị trí một công dân đất nước, một người lính trong đội ngũ. Niềm vinh dự tự hào như chất men say thôi thúc thơ ông cất lên tiếng hát:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Người đọc bất ngờ bắt gặp một mùa xuân thi sĩ. Bằng điệp khúc “Ta làm”, “Ta nhập”… bài thơ đã tấu nên khúc ca chan chứa nhiệt huyết tình yêu cuộc sống và khát vọng dâng hiến mùa xuân cho cuộc đời và cho thi ca.
Nhà thơ – người nghệ sĩ ngôn từ đã nhận lấy trách nhiệm của mình với nhân dân đất nước: Làm một con chim hót trong muôn loài chim, làm một cành hoa trong rừng hoa muôn sắc. Làm “một nốt trầm” trong bản hoà ca muôn điệu. Làm “một mùa xuân nho nhỏ” trong mùa xuân rực rỡ và bất tận của đất trời. Lời lẽ bình dị, nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng có sức khái quát cao về một lẽ sống chân chính, một quan điểm nhân văn về thơ ca và người nghệ sĩ.
Trở về với đất mẹ quê hương là quy luật tình cảm. Bởi sau những buồn vui, thành bại, quê hương vẫn là nơi đón nhận, neo giữ những gì còn lại của đời người. Nhà thơ Thanh Hải đã từng viết nhiều về đất Huế quê hương, và khúc ca cuối cùng của ông cũng là khúc ca dành cho Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. Giai điệu êm ái Nam ai, Nam bình, thiết tha hiền hòa như con người Việt Nam. Dù ở trên mảnh đất “nước non ngàn dặm” hay ở bất đâu cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
(Chế Lan Viên)
Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về một tình cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh Hải làm xao xuyến rung động biết bao trái tim người đọc. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía tự nhiên đi vào lòng người như một bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn, tấm gương cao thượng trong sáng của Thanh Hải làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải sống sao cho xứng đáng với Tổ quốc, Nhân dân.
Có thể nói những ý kiến của nhà thơ người pháp Andre Chenien đến nay vẫn có giá trị không chỉ về mặt lí luận mà cả về sáng tác. Đó là những ý kiến sâu sắc đóng góp cho nền thi ca Việt Nam. Nó có giá trị như kim chỉ nam giúp các nhà thơ của nhiều thế hệ không đi lệch hướng như con tàu không đi chệch đường ray của mình. Khi ta đọc mỗi tác phẩm văn học nào thì cũng phải mở lòng để cảm nhận, để thấu hiểu cho những giá trị thực thụ của chúng. Nếu cứ mãi thờ ơ, vô cảm mà không dùng trái tim để hiểu từng từ, từng câu thì ta sẽ không bao giờ nhận ra những thông điệp, tình cảm, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong mỗi tác phẩm. Nhờ có nghệ thuật mà các tác giả mới nói lên được tiếng lòng, lời giãi bày hay tâm tư của mình một cách hoàn mĩ và lâu bền nhất.
- Kết bài:
Sê-khốp từng nói “Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp, và cái nhân đạo của lòng người”. Thơ ca là như thế, nó giúp người thi sĩ thỏa mãn cái đam mê và đem lại cho đời những ý nghĩa, lẽ đời tinh tế. Chính điều đó thơ ca như một thước đó chuẩn mực về những cái đẹp những lí tưởng sống cũng như giá trị nhân đạo. Thơ ca chính là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, là nơi chữa lành những vết thương trong cuộc sống, là nơi mà ở đó luôn có tình người và tình cảm nỗi niềm của mỗi tác phẩm. Chúng ta có một trái tim nhưng nó không chỉ để duy trì sự sống mà hãy học cách “tôi hãy tôn trọng một trái tim một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ” (Dostoevski). Đó mới chính là một trái tim yêu thương và đầy lòng trắc ẩn.
Hay. QUá hay. Cảm ơn tác giả nhiều.