Tấm lòng và tầm nhìn của Phan Châu Trinh qua đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta”.
- Mở bài:
“Về luân lí xã hội ở nước ta” có thể xem là một bài viết tiêu biểu cho tư tưởng chính trị, cho cốt cách và văn phong của Phan Châu Trinh. Đây là đoạn trích trong bài Đạo đức và luân lí Đông Tây được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19-11-1925 tại Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Bài viết cho ta thấy tấm lòng yêu nước sục sôi, cháy bỏng và tầm nhìn cách mạng mới mẻ, tiến bộ của nhà chí sĩ cách mạng hồi đầu thế kỉ XX.
- Thân bài:
Một tấm lòng yêu nước sục sôi, cháy bỏng, tràn đầy dũng khí. Tấm lòng yêu nước của Phan Châu Trinh toát lên trong bài viết là một tấm lòng thật đáng trân trọng: nó sục sôi, cháy bỏng, lại tràn đầy dũng khí của một con người yêu nước bất chấp mọi gian nguy, không hề biết sợ, không né tránh, dám tố cáo, đấu tranh vì vận mệnh, tiền đồ của đất nước – được thể hiện ở các mặt sau đây:
Đau xót trước hiện tình đất nước thua kém so với phương Tây. Những người yêu nước chân tình và sâu sắc không thể không đau xót trước sự thua kém của xã hội ta so với phương Tây. Phan Châu Trinh là một con người như vậy. Ông đau xót trước cảnh “người bên ta thì điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì”, “người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai!”, lại “bén mùi làm quan” chạy theo danh lợi… trong khi “cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu đã rất thịnh hành”.
Dám vạch trần thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đây là một biểu hiện rất đáng ghi nhận của nhà chí sĩ bởi không phải ai cũng dám làm điều này và làm được điều này như Phan Châu Trinh trong bài viết của mình (lại là bài diễn thuyết trước đông đảo công chúng ở chính ngay trên thuộc địa Sài Gòn của thực dân Pháp). Phải có dũng khí “xung thiên” thì mới dám vạch trần, tố cáo như vậy. Lại nữa, ông xuất thân từ xã hội phong kiến, lại vạch trần thực trạng đen tối của chính cái trật tự phong kiến ấy là một điều hiếm có, một thái độ dũng cảm, bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước sâu sắc, từ một bức xúc không thể không lên tiếng, ông đã vạch trần, tố cáo cái xã hội ấy như thế nào? Đó là nọn học trò thì ham quyền tước, ham vinh hoa mà sinh ra giả dối, nịnh hót, “chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân”. Triều đình thì trì trệ, hủ bại: “có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong!”. Vua quan thì hưởng lạc, tham nhũng, vơ vét của dân không ai phẩm bình, không ai chê bai. Quan lại đời xưa đời nay “chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy”.
Thiết tha kêu gọi mọi người hãy tỉnh ngộ, cùng nhau chấn hưng lại đất nước: “Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do, độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này”. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, mấy ai đã có lời kêu gọi cứu nước chí tình, thiết tha và dũng cảm như vậy? Tất cả đều bắt nguồn từ tấm lòng vì dân, vì nước của Phan Châu Trinh.
Một tầm nhìn cách mạng mới mẻ, tiến bộ: Cùng với tấm lòng yêu nước cháy bỏng, bài viết còn cho ta thấy tầm nhìn cách mạng mới mẻ, tiến bộ của nhà chí sĩ. Tầm nhìn này đã vượt qua những hạn chế của một sĩ phu phong kiến để đến với những tư tưởng mới của thời đại. Phan Châu Trinh đã nhìn xa trông rộng ra cả thế giới, đặc biệt ở Âu châu, tiếp thu những luồng văn minh, những tư tưởng mới để duy tân cứu nước, làm cho dân giàu nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia. Quan niệm sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với cuộc cách mạng về xã hội, ông đã đề cao việc mở mang dân trí, tuyên truyền tư tưởng dân chủ, coi đó là cội nguồn cho sức mạnh dân tộc để tự giải phóng khỏi sự thống trị của thực dân phong kiến.
Trong bài viết này là việc đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng của đất nước. Tư tưởng đó được thể hiện sáng tỏ và nhiệt thành bằng một lập luận logic, chặt chẽ của tác giả. Ông khẳng định nước ta chưa hề có luân lí xã hội, tuyệt nhiên không ai biết đến điều này. Nhìn ra thế giới, so sánh với Âu châu, ông lại càng đau xót trước hiện tình đó của đất nước: “Thương hại thay! Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả”.
Ông chỉ ra nguyên nhân của tình trạng đó: do xã hội phong kiến bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, chế độ phong kiến chỉ biết duy trì, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, “chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân” nên đã “kiếm cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân”. Chúng đã bỏ mặc người dân, không hề quan tâm đến cuộc sống của họ, nói chi đến việc mở mang, nâng cao dân trí cho họ: “Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý!”.
Tình trạng đó ngày càng thảm hại, ngày càng bức xúc, không thể làm ngơ, phải lên tiếng: “Thương ôi! Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả. (…) ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế”.
Để chấm dứt tình trạng đó, đưa dân tộc đi lên, ông khẩn thiết kêu gọi: Muốn nước được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể.
- Kết bài:
Đoạn trích về luân lí xã hội ở nước ta là tấm lòng yêu nước sục sôi, cháy bỏng và tầm nhìn cách mạng mới mẻ, tiến bộ của nhà chí sĩ cách mạng Phan Châu Trinh. Tấm lòng yêu nước và tầm nhìn cách mạng ấy gắn bó máu thịt với nhau làm nên tính chiến đấu mạnh mẽ và sức thuyết phục to lớn của bài viết. Trong hoàn cảnh lịch sử hồi đầu thế kỉ XX, có thể xem đó là những lời tâm huyết của nhà chí sĩ đóng góp cho sự nghiệp cách mạng cũng như sự nghiệp văn học của nước nhà.
Phân tích tính thời sự của văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta” (Phan Châu trinh)