V

Tác giả Tố Hữu (SGK Ngữ văn 12, tập 1).

Tác giả Tố Hữu

I – VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ TỐ HỮU

Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tinh Thừa Thiên – Huế. Ông thân sinh Tố Hữu là một nhà nho nghèo, bà mẹ nhà thơ cũng là con một nhà nho, cả hai người đã truyền cho con tình yêu tha thiết với văn học dân gian. Năm 12 tuổi, Tố Hữu mồ côi mẹ, một năm sau lại xa gia đình vào học Trường Quốc học Huế. Bước vào tuổi thanh niên, Tố Hữu tham gia phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế, rồi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối tháng 4 – 1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao Thừa Thiên, rồi lần lượt bị giam giữ trong nhiều nhà tù ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Tháng 3 – 1942, Tố Hữu vượt ngục Đắc Lay Kon Tum), tìm ra Thanh Hoá, bắt liên lạc với tổ chức cách mạng, tiếp tục hoạt động. Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tố Hữu là Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa ở Huế. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tố Hữu công tác ở Thanh Hoá rồi lên Việt Bắc đặc trách về văn hoá văn nghệ ở cơ quan Trung ương Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (từng là viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).

Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

II – ĐƯỜNG CÁCH MẠNG, ĐƯỜNG THƠ

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.

Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.

Tập thơ Từ ấy (1937 – 1946) là chặng đường đầu tiên của đời thơ Tố Hữu, đánh đấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm đi theo ngọn cờ của Đảng Tập thơ chia làm 3 phần. Máu lửa gồm những bài sáng tác trong thời kì Mặt trận Dân chủ, là tâm sự của người thanh niên đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Nhà thơ cảm thông sâu sắc với cuộc sống cơ cực của những người nghèo khổ trong xã hội (lão đầy tớ, chị vú em, cô gái giang hồ, những em bé mồ côi, đi ở, hát dạo,…), đồng thời khơi dậy ở họ ý chí đấu tranh và niềm tin vào tương lai. Xiềng xích gồm những bài sáng tác trong các nhà lao lớn ở Trung Bộ và Tây Nguyên. Đó là tâm tư của một người trẻ tuổi tha thiết yêu đời và khao khát tự đo, là ý chí kiên cường của người chiến sĩ quyết tâm tiếp tục cuộc chiến đấu ngay trong nhà tù. Giải phóng gồm những bài sáng tác từ khi Tố Hữu vượt ngục đến những ngày đầu giải phóng vĩ đại của toàn dân tộc. Nhà thơ nồng nhiệt ca ngợi thắng lợi của cách mạng, nền độc lập, tự do của Tổ quốc, khẳng định niềm tin tưởng vững chắc của nhân dân vào chế độ mới. Tập thơ Việt Bắc (1946 – 1954) là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng chiến. Họ là những người lao động rất bình thường và cũng rất anh hung. Với tấm lòng yêu thương thắm thiết và cảm phục sâu xa, Tố Hữu đã miêu tả và ca ngợi anh vệ quốc quân, bà mẹ nông dân, chị phụ nữ, em liên lạc,… Nhà thơ ca ngợi Đảng và Bác Hồ đã khơi nguồn và phát huy sức mạnh cửa quân dân ta để đánh thắng kẻ thù. Nhiều tình cảm lớn được thể hiện sâu đậm: tình quân dân “cả nước”, tiền tuyến với hậu phương, miền xuôi với miền ngược, cán bộ với quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, tình cảm quốc tế vô sản,… Tập thơ kết thúc bằng những bài hùng ca vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng, biết bao tình cảm bồi hồi, xúc động của dân tộc trong những giờ phút lịch sử.

Bước vào giai đoạn cách mạng mới, tập thơ Gió lộng (1955 – 1961) dạt dào bao nguồn cảm hứng lớn lao. Nhà thơ hướng về quá khứ để thấm tha như nỗi đau khổ của cha ông công lao của những thế hệ đi trước mở đường, từ đó ghi sâu ân tình của cách mạng. Qua sự cảm nhận của Tố Hữu, cuộc sống mới trên miền Bắc thực sự là một ngày hội lớn, nhìn vào đâu cũng thấy tràn đầy sức sống và niềm vui. Đất nước đau nỗi đau chia cắt, thơ Tố Hữu là tình cảm thiết tha, sâu nặng với miền Nam ruột thịt. Đó là nỗi nhớ thương quê hương da diết, tiếng thét căm hận ngút trời, lời ngợi ca những con người kiên trung, bất khuất, niềm tin không gì lay chuyển được vào ngày mai thắng lợi, thống nhất non sông.

Hai tập thơ Ra trận (1962 -1971), Máu và hoa (1972 – 1977) âm vang khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui toàn thắng. Ra trận là bản anh hùng ca về “Miền Nam trong lửa đạn sáng ngời” với bao hình ảnh tiêu biểu cho dũng khí kiên cường của dân tộc: anh giải phóng quân “con người đẹp nhất”, người thợ điện “Dáng hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu những “em thơ cũng hoá anh hùng”, bà mẹ “Một tay lái chiếc đò ngang”, anh công nhân “lấp hố bom mà dựng lò cao”, cô dân quân “vai súng tay cày”,… Máu và hoa ghi lại một chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh, khẳng định niềm tin sâu sắc vào sức mạnh tiềm tàng của xứ sở quê hương, cũng như của mỗi con người Việt Nam mới, biểu hiện niềm tự hào và niềm vui phơi phới khi “toàn thắng về ta”.

Một tiếng đờn (1992)Ta với ta (1999) là hai tập thơ đánh dấu bước chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu. Dòng chảy sôi động của cuộc sống đời thường với bao vui buồn, được mất, sướng khổ, mừng lo khơi gợi trong tâm hồn nhà thơ nhiều câm xúc suy tư. Tố Hữu tìm đến những chiêm nghiệm mang tính phổ quát về cuộc đời và con người. Vượt lên bao biến động thăng trầm, thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lí tưởng và con đường cách mạng, tin vào chữ nhân luôn toả sáng ở mỗi hồn người.

III – PHONG CÁCH THƠ TỐ HỮU

Về nội dung, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc. Hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lởn của con người cách mạng, của cả dân tộc. Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc. Với cái tôi trữ tình ngày càng có ý nghĩa khái quát rộng lớn hơn như thế, lẽ sống cũng có sự vận động. Nếu ở tập Từ ấy, Tố Hữu khẳng định lí tưởng đẹp nhất cửa mới người lúc đó là dũng cảm dấn thân vào con đường cách mạng giai phóng dân tộc thì từ tập Việt Bắc trở đi, nhà thơ nhấn mạnh mục đích cao cả của đời người là phấn đấu vì cuộc sống tươi đẹp của dân tộc và cũng “Vì thiêng liêng giá trị Con Người – Vì muôn đời hoa lá xanh tươi” (Bài ca xuân 68). Thơ Tố Hữu không đi sâu vào cuộc sống và những tình cảm riêng tư mà tập trung thể hiện những tình cảm lớn, mang tính chất tiêu biểu, phổ biến của con người cách mạng: đó là tình yêu lí tưởng (Từ ấy), tình cảm kính yêu lãnh tụ (Sáng tháng Năm), tình cảm đồng bào đồng chí, tình quân dân (Cả nước), tình cảm quốc tế vô sản (Em bé Triều Tiên),… Niềm vui trong thơ Tố Hữu không nhỏ bé, tầm thường mà là niềm vui lớn; sôi nổi, hân hoan nhất và cũng rực rỡ, tươi sáng nhất là những vần thơ về chiến thắng (Huế tháng Tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Toàn thắng về ta).

Thơ Tố Hữu mang đậm tinh sử thi, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân. Nhà thơ ít chú ý tới những diễn biến bình thường của đời sống mà thường tập trung khắc hoạ những bối cảnh rộng lớn, những biến cố quan trọng tác động mạnh mẽ đến vận mệnh dân tộc – đó là cảnh xây dựng đất nước thật vĩ đại, hào hùng (Bài ca mùa xuân 1961), cảnh cả nước lên đường ra trận chiến đấu vì độc lập, tự do (Chào xuân 67). Cảm hứng chủ đạo trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lịch sử – dân tộc, chứ không phải cảm hứng thế sự – đời tư; nổi bật trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh cộng đồng, chứ không phải vấn đề số phận cá nhân. Điều đó đã dẫn tới con người trong thơ Tố Hữu là con người cửa sự nghiệp chung với những cố gắng phi thường, các nhân vật trữ tình thường mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc, thậm chí mang tầm vóc lịch sử và thời đại – đó là anh vệ quốc quân trong bài Lên Tây Bắc, anh giải phóng quân trong bài Tiếng hát sang xuân, anh Nguyễn Văn Trỗi trong bài Hãy nhớ lấy lời tôi hay chị Trần Thị Lý trong bài Người con gái Việt Nam,…

Đáng chú ý là những tư tưởng, tình cảm lớn của con người, những vấn đề lớn lao của đời sống đã được Tố Hữu thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình rất tự nhiên, đằm thắm, chân thành. Nhà thơ đặc biệt rung động với đời sống cách mạng, với nghĩa tình cách mạng cho nên thường hướng về đồng bào, đồng chí mà trò chuyện, nhắn nhủ, tâm sự:

Ta với mình, mình nới ta
Lòng ta sau trước mặn mà định ninh

(Việt Bắc)

Nhưng không chỉ ở lời xưng hô mà “tình thương mến đặc biệt trong thơ Tố Hữu là sự cảm hoà với người với cảnh… một thứ nhạc tâm tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ” (Xuân Diệu). Những lời tâm tình đó có cội nguồn từ “chất Huế” của hồn thơ Tố Hữu, từ quan niệm của ông về mối giao cảm giữa nhà thơ và người đọc thơ: “Thơ là chuyện đồng điệu, nó là tiếng nói của một người đến với những người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý đồng tình…”

Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà. Về thể thơ Tố Hữu có tiếp thu những tinh hoa của phong trào Thơ mới, của thơ ca thế giới cổ điền và hiện đại, nhưng ông đặc biệt thành công khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc. Những bài thơ lục bát như Khi con tu hú, Việt Bắc, Bầm ơi, Kính gửi cụ Nguyễn Du,… mang cơ sắc thái lục bát ca dao và lục bát cổ điển, dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc. Những bài thơ theo thể thất ngôn như quê mẹ, Mẹ Tơm, Bác ơi!, Theo chân Bác,… trang trọng nhưng không khuôn sáo, trái lại, hơi thơ rất liền mạch, tự nhiên, diễn tả được hiện thực đa dạng và nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau.

Về ngôn ngữ, Tố Hữu không chú ý sáng tạo những từ mới, cách diễn đạt mới mà ông thường sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt, thơ Tố Hữu đã phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, nhà thơ sử dựng rất tài tình các từ láy, các thanh điệu, các vần thơ:

Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn

(Em ơi… Ba Lan…)

Thác, bao nhiêu thác, cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyên ta trên đời.

(Nước non ngàn dặm)

IV – KẾT LUẬN

Tố Hữu từng nhận xét: “Thơ là tấm gương của tâm hồn”. Thực tế cho thấy thơ Tố Hữu đã là tấm gương trong sáng phản chiếu tâm hồn một người chiến sĩ cách mạng suốt đời phấn đấu hi sinh vì tương lai tươi đẹp của dân tộc, cuộc sống hạnh phúc của con người, đấy cũng là tấm gương phản chiếu tâm hồn dân tộc, đời sống dân tộc trên con đường lớn của cách mạng. Nói cách khác thơ Tố Hữu là bằng chứng sinh động về sự kết hợp hài hoà hai yếu tố cách mạng và dân tộc trong sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo thi ca. Qua phong cách thơ Tố Hữu, có thể thấy một thành tựu xuất sắc của thơ ca cách mạng, một nên thơ luôn coi vận mệnh của dân tộc là lẽ sống lớn nhất.

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Nêu những nét lớn trong cuộc đời Tố Hữu.
2. Những chặng đường thơ Tố Hữu gắn bó như thế nào với những chặng đường cách mạng của bản thân nhà thơ, với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam?
3. Tại sao nói thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị?
4. Tính dân tộc trong hình thức nghệ thuật thơ Tố Hữu biểu hiện ở những điểm cơ bản nào?

GHI NHỚ: Đường đời, đường thơ Tố Hữu luôn song hành cùng con đường cách mạng của cả dân tộc. Với những tác phẩm giàu chất trữ tình chính trị và đậm đà tính dân tộc, Tố Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại.

LUYỆN TẬP

1. Chọn một bài thơ cửa Tố Hữu mà anh (chị) yêu thích nhất. Phân tích cả bài hoặc một đoạn trong bài thơ đó.
2. Xuân Diệu viết: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình” (Tố Hữu với chúng tôi, Tlđd. Anh (chị) hiểu nhận xét đó như thế nào?


* Soạn bài:

Tác giả Tố Hữu

Câu 1: Vài nét về tiểu sử.

Tố Hữu (1920-2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Quê quán ở Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế

– Thân sinh là nho nghèo, thân mẫu là con một nhà nho, thuộc và hát dân ca rất hay. Cả hai truyền cho nhà thơ tình yêu văn học dân gian.

– Năm 13 tuổi: Học trường Quốc học Huế, tham gia phong trào đấu tranh cách mạng.

– 1938 ông được kết nạp Đảng.

– Cuối tháng 4-1939 bị thực dân Pháp bắt giam.

– Tháng 3-1942: vượt ngục ra Thanh Hoá tiếp tục hoạt động.

– Cách mạng tháng Tám 1945: Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa Huế.

– 1947: Ra Thanh Hoá, lên Việt Bắc công tác ở cơ quan Trung ương Đảng, phụ trách văn hoá văn nghệ.

– Trong hai cuộc kháng chiến đến năm 1986: Giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.

– Năm 1996: Được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

– Năm 2002: Qua đời

Câu 2: Đường cách mạng, đường thơ.

1. Tập thơ Từ ấy (1937-1946), chặng đường đầu tiên của đời thơ Tố Hữu đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm theo Đảng. Tập thơ 72 bài chia thành làm ba phần:

+ “Máu lửa” sáng tác trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Cảm thông sâu sắc những người nghèo trong xã hội, khơi dậy ý chí đấu tranh.

+ “Xiềng xích” sáng tác trong nhà lao. Thể hiện tâm tư tha thiết yêu đời, yêu tự do, ý chí kiên cường, quyết tâm chiến đấu của người chiến sỹ.

+ “Giải phóng” sáng tác khi vượt ngục đến những ngày giải phóng. Ca ngợi thắng lợi của cách mạng, độc lập tự do của Tổ quốc, tin tưởng vào chế độ mới.

2. Việt Bắc (1946-1954): Ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khó, anh dũng của dân tộc. Gồm 27 bài

– Tiếng ca hùng tráng thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và con người kháng chiến: 9 anh vệ quốc quân, người mẹ, chị phụ nữ, em liên lạc…

– Thể hiện những tình cảm lớn: tình quân dân, tiền tuyến – hậu phương, miền xuôi – miền ngược, cán bộ – quần chúng, nhân dân – lãnh tụ, tình yêu thiên nhiên đất nước, tình cảm quốc tế vô sản…

3. Gió lộng (1955-1961): Sáng tác trong hoàn cảnh Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Gồm 25 bài

– Hướng về quá khứ để ghi sâu ân tình cách mạng.

– Ngợi ca cuộc sống trên miền Bắc.

– Tình cảm thiết tha, sâu đậm vối miền Nam ruột thịt.

4. Ra trận (1962-1971), gồm 34 bài, Máu và hoa (1972-1977), gồm 13 bài, ra đời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

– Ra trận: bản hùng ca về “Miền Nam trong lửa đạn sáng ngời”.

– Máu và hoa ghi lại chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, khẳng định niềm tin, niềm tự hào phơi phới khi toàn thắng về ta.

5. Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999), sáng tác khi đất nước hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng, đổi mới.

– Những suy tư, chiêm nghiệm mang tính phổ quát về con người, cuộc đời.

– Niềm tin vào lý tưởng và con đường cách mạng, tin vào chữ “nhân” luôn toả sáng trong tâm hồn mỗi con người.

Câu 3:

– Thơ Tố Hữu chủ yếu khai thác cảm hứng từ đời sống chính trị của đất nước, từ hoạt động cách mạng và tình cảm chính trị của bản thân tác giả.

– Lí tưởng cách mạng là ngọn nguồn mọi cảm hứng nghệ thuật của Tố Hữu. Lí tưởng thực tiễn cách mạng ở mỗi thời kỳ là đề tài, chủ đề sáng tác của nhà thơ.

Ví dụ: Việt Bắc gắn liền với cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp.

Tố Hữu là nhà thơ cách mạng, nhà thơ của lí tưởng cộng sản. Con đường thơ bắt đầu cùng lúc với sự giác ngộ lí tưởng cộng sản, quá trình sáng tác gắn dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Câu 4:

Về nghệ thuật: đậm đà tính dân tộc

+ Về thể thơ: Tố Hữu sử dụng thành công các thể thơ thuần dân tộc (thơ lục bát, thơ bảy chữ) ngôn ngữ thơ gần với lối nói quen thuộc của dân tộc, thơ giàu nhạc điệu.

+ Về ngôn ngữ: dùng những từ ngữ và cách nói quen thuộc với dân tộc, phát huy tính nhạc phong phú của tiếng Việt.



Tác giả Tố Hữu

I/ CUỘC ĐỜI:

– Tên khai sinh nguyễn Kim Thành (1920 – 2002). Quê ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ – Phong Điền – Thừa Thiên Huế (ảnh hưởng lớn đến hồn thơ TH). Xuất thân trong 1 gia đình nhà nho nghèo, có ảnh hưởng đến thơ ca của Tố Hữu.

– Giác ngộ cách mạng thời kì mặt trận dân chủ và trở thành người lãnh đạo thanh niên dân chủ Huế, được kết nạp Đảng cộng sản năm 1937.

– Từ sau Cách mạng tháng 8 đến 1986 Tố Hữu giữ nhiều cương vị trọng yếu của Đảng và nhà nước.

– Cuộc đời của Tố Hữu là cuộc đời của 1con người tự nguyện dâng hiến cho Tổ quốc cho cách mạng.

– Ông đạt được nhiều giải thưởng về văn học nghệ thuật.

II/ ĐƯỜNG CÁCH MẠNG ĐƯỜNG THƠ:

– Chặng đường thơ THữu cũng song hành với các giai đoạn của cuộc đấu tranh đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của  nhà thơ.

– Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946): gồm 3 phần nói về 10 năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng giai đoạn mới

+ “Máu lửa”: tiếng reo náo nức của 1 tâm hồn trẻ đang băn khoăn đi tìm lẽ sống thì gặp gỡ ánh sáng lí tưởng. Giọng điệu thiết tha, sôi nổi, chân thành và chất lãng nạm trong trẻo

+Xiềng xích”: ghi lại những cuộc đấu tranh đầy cam go trong nhà tù thực dân, nhưng tâm hồn vẫn tha thiết yêu đời, hướng về cuộc sống và con người ở bên ngoài.

+ “Giải phóng”: Cái nồng nhiệt say sưa gợi ca cách mạng, nền độc lập, tự do của tổ quốc với cảm hứng lãng mạn dâng trào.

– Tập thơ “Việt Bắc” (1946-1954): những bài thơ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tập trung thể hiện con người quần chúng, trước hết là công nông binh, với  nghệ thuật thơ giàu tính dân tộc và đại chúng. Cuối cuộc kháng chiến hồn thơ bay bổng và rộng mở trong cảm hứng sử thi – trữ tình.

– Tập thơ “Gió lộng” (1955 – 1961) phản ánh được tình cảm và tư thế của toàn dân khi bước và giai đoạn mới. Với sự kết hợp độc đáo giữa cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi đã đem lại cho tập thơ 1 vẻ đẹp hài hoà đầy sức lôi cuốn.

– Tập thơ “Ra trận” (1962 – 1971), “Máu và hoa” (1972-1977). Là chặng đường thơ TH trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước cho tới ngày toàn thắng. Thơ TH giai đoạn này mang đậm tính chính luận và cảm hứng sử thi, nhiều chổ vươn tới âm hưởng hùng ca.

– Tập “Một tiếng đờn” (1992) “Ta với ta” (1999). Khuynh hướng trữ tình chính trị không phải là mạch duy nhất nổi trội nữa. Nhà thơ muốn chiêm nghiệm về cuộc sống về lẽ đời, giọng thơ trầm lắng thấm đẫm chất suy tư.

III/ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ TỐ HỮU:

– Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ Tố hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị.

– Thơ Tố Hữu biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người và cuộc sống cách mạng.

– Thơ Tố Hữu mang đậm khuyh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, cái tôi trong thơ là cái tôi chiến sĩ, cái tôi nhân danh cộng đồng nhân danh Đảng và dân tộc

– Thơ Tố Hữu mang giọng tâm tình, ngọt ngào thiết tha, giọng của tình thương mến. Thể hiểnõ trong cách xưng hô với đối tượng trò chuyện như: Bác ơi, hỡi người bạn, anh vệ quốc quân ơi..

– Nghệ thuật thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc: sử dụng đa dạng các thể thơ truyền thống và luôn luôn được hiện đại, ngôn ngữ gần gũi, hình ảnh so sánh ví von mang nội dung mới của thời đại, có biệt tài phát huy tính nhạc phong phú của tiếng Việt..

IV/ TỔNG KẾT:

Tố Hữu không những là nhà hoạt động cách mạng tiêu biểu mà ông còn là thà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Thơ Tố Hữu là sự kết hợp độc đáo vẻ đẹp truyền thống và tinh thần thời đại. Thơ Tố Hữu luôn đại diện cho thơ ca cách mạng Việt Nam, và luôn thu hút được độc giả yêu thơ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang