»» Nội dung bài viết:
Từ (thể thơ).
Từ (giản thể: 词; phồn thể: 詞; bính âm: cí; Wade–Giles: tz’ŭ, đôi khi cũng được viết là 辭 hay 辞) là một thể loại văn học, hình thành vào đời Đường, và phát triển mạnh vào đời Tống ở Trung Quốc.
Nguồn gốc thể từ.
Từ vốn bắt nguồn từ dân gian. Sự phát hiện từ ở Đôn Hoàng (Cam Túc) đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên, từ phát triển theo sự phồn vinh của kinh tế thành thị ở đời Đường, cùng sự phát đạt của âm nhạc (nhạc nước Yên) thời bấy giờ.
Ở thời kỳ đầu, từ là một loại thơ (nhưng khác với thơ ở chỗ nó có quan hệ với âm nhạc), phải đến thời Vãn Đường, từ mới thành một thể độc lập mang đầy đủ những đặc điểm của chúng, và phát triển mạnh ở đời Tống.
Đặc điểm thể từ.
Thể từ có số chữ trong bài cố định, câu dài ngắn, và phối hợp chặt chẽ với âm nhạc. Song, nó khác nhạc phủ ở chỗ “cách luật nghiêm nhặt”, khác Đường luật ở chỗ “câu dài ngắn”, khác thơ cổ phong ở chỗ “cách luật nghiêm nhặt và số chữ cố định”.
Đời Tống có khoảng 870 điệu từ với những biến thể của chúng. Tên điệu từ thoạt đầu chính là đề tài của tác phẩm, như Dương liễu chi để vịnh liễu, Lăng đạo sa để vịnh cát, Đạp ca từ để tả điệu múa…song về sau chỉ còn là tên gọi đơn thuần.
Mỗi điệu từ có một từ phổ. Điệu ngắn nhất là Trúc chi từ (14 chữ), dài nhất là Oanh đề tự (240 chữ). Những điệu tương đối dài, thường chia làm hai đoạn, công thức có thể giống nhau hoặc hoàn toàn khác nhau. Số chữ trong câu có thể dài trên mười chữ, cũng có thể chỉ là một chữ.
Luật bằng trắc của từ rất chặt chẽ, nhìn chung không có lệ “bất luận” như ở thơ Đường luật.
Một bài có thể dùng nhiều vần. Vần có trắc hoặc bằng, hoặc cả hai (xen kẽ); song chủ yếu gieo vần bằng ở trong điệu Cán khê sa, Lãng đào sa, Nhất tiễn mai…và chủ yếu gieo vần trắc ở Ức tần nga, Như mộng lệnh, Nguyễn lang quy…
Trình tự gieo vần ở từ cũng rất đa dạng, có thể là vần liền, vần gián cách, vần ôm…Thí dụ như:
aa bb cc dd ở trong điệu Chiêu Quân oán, Bồ tát man
abba ở trong điệu Tây giang nguyệt
ababbb ở trong điệu Sa song hận
aa bbb ccc ở trong điệu Điều tiếu lệnh…
Đề tài của thể từ.
Số đông người làm từ (từ nhân hay từ gia) ở Trung Quốc, từ Ôn Đình Quân (813?-870?), Vi Trang (khoảng 836-910) thuộc phái “Hoa gian” (Trong hoa); đến Chu Bang Ngạn (1056-1121), Lý Thanh Chiếu (1084-khoảng 1151) thuộc phái “Cách luật”, phái “Uyển ước” đều quá chú trọng đến việc trau chuốt kỹ xảo cho từ, và chỉ dùng từ thể hiện những vấn đề cá nhân, cho nên vấn đề đời sống xã hội ở trong từ của họ rất hạn chế.
Mãi đến thời Bắc Tống, phái “Hào phóng” (tiêu biểu là Tô Thức) và những nhà yêu nước thời Nam Tống (tiêu biểu là Tân Khí Tật) mới mở rộng đề tài của từ, khiến cho từ phản ánh cuộc sống rộng, và có khả năng biểu hiện tư tưởng, tình cảm, cá tính của tác giả rõ rệt hơn.
Quá trình phát triển.
Thời đại hoàng kim của từ.
Đời Tống là hoàng kim thời đại của từ, vì từ vua chúa đến người dân, nhiều người rất thích thể ấy, vì nó ca được và không bị niêm luật câu thúc như thơ, lại dễ biểu tình, đạt ý hơn thơ. Xét về hình thức, có hai lối từ: “tiểu từ” (ngắn) và “mạn từ” (dài).
Từ thời Bắc Tống (911-1125), có thể chia làm bốn thời kỳ:
– Mới đầu, từ chịu ảnh hưởng văn phong của thời Ngũ Đại Thập Quốc, nên diễm lệ, tình tứ và ngắn (“tiểu từ”). Hai từ nhân nổi danh nhất là Án Thù và Âu Dương Tu.
– Trong thời kỳ thứ nhì, xuất hiện lối “mạn từ”, nhưng vẫn là những lời diễm lệ để tả những tình thương nhớ, sầu tủi. Ở đây, có thể kể đến Liễu Vĩnh, Trương Tiên, Tần Quan, Chu Bang Nhan.
– Kế tiếp, Tô Thức, Hoàng Đình Kiên…chủ trương bỏ niêm luật, không cần theo âm nhạc, chỉ cần lời được hào hùng.
– Sau, vì thể trên phóng túng quá, khó ca quá, nên Tống Huy Tông, Lý Thanh Chiếu…lại bắt lời từ phải theo âm nhạc.
Từ thời Nam Tống (1125-1234) có hai phái:
– Phái Bạch thoại chủ trương lời bình dị mà tư tưởng cao khiết. Đại biểu của phái này là Tân Khí Tật, Lục Du…
– Phái Nhạc phủ chỉ chú trọng đến âm nhạc mà bỏ phần nội dung. Từ gia trong phái ấy có Trương Viêm, Chu Mật,…
Tóm lại, từ do âm nhạc mà sinh, cực thịnh trong đời Tống; rồi cũng vì quá chú trọng đến âm nhạc mà suy lần.
Ảnh hưởng của thể từ ở Việt Nam.
Bài từ sớm nhất hiện còn ở Việt Nam là bài “Vương lang quy” (Chàng Vương trở về) của thiền sư Khuông Việt (Ngô Chân Lưu), bắt nguồn từ điệu Nguyễn lang quy của Trung Quốc.
Song so với thơ Đường luật, do quy luật phát triển của thể loại văn học trong lịch sử dân tộc Việt, từ ít được sử dụng hơn rất nhiều. Chỉ có một số ít nhà thơ cổ điển Việt Nam, như Nguyễn Húc, Miên Thẩm, Đào Tấn, Phạm Thái… là có làm từ bằng chữ Hán, hoặc họ đã tiếp thu cấu trúc và âm nhạc của từ để đổi mới thơ Nôm.