»» Nội dung bài viết:
Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác (Dẫn theo Khravchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, NXB Tác phẩm mới, 1978)
Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.
1. Giải thích.
– Tiếng nói của mình: dấu ấn riêng trong cách nhìn, cách cảm thụ, cách thể hiện mang đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
– Giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác: nét độc đáo không trộn lẫn hòa tan trong sáng tạo văn học.
→ Ý kiến nhằm khẳng định: Khi đánh giá một tài năng văn học thì phong cách là tiêu chí quan trọng, mang tính quyết định.
2. Bàn luận.
– Đặc trưng của văn học là sáng tạo và phát hiện những điều mới mẻ, văn học không minh họa cho những tư tưởng có sẵn, vì thế cái quan trọng là nhà văn phải tạo lập được cho mình một cá tính sáng tạo riêng biệt.
– Cá tính sáng tạo biểu hiện ở cách nhìn mang tính phát hiện, cách cảm thụ có tính khám phá, đưa đến cho người đọc một cái nhìn mới về cuộc đời thông qua những hình thức nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ
(HS lấy dẫn chứng chứng minh).
– Chính cá tính sáng tạo đem đến sức sống lâu bền cho tác phẩm và chỗ đứng vững chắc cho tác giả trong mọi thời đại.
(HS lấy dẫn chứng chứng minh).
3. Mở rộng, nâng cao.
– Tiếng nói riêng không có nghĩa tạo sự dị lập, khác biệt mà phải phù hợp văn hóa, quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương nghệ thuật, phải hướng đến phẩm chất thẩm mĩ, đem đến cho người đọc một sự hưởng thụ mĩ cảm dồi dào.
– Nhà văn phải không ngừng trau dồi năng lực văn chương, nỗ lực tìm tòi sáng tạo, mở mang vốn sống, có kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực mới có thể tạo nên tiếng nói riêng của chính mình.
Bài văn tham khảo:
Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác (theo Khravchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, NXB Tác phẩm mới, 1978)
Một giọng ca giống hệt như ca sĩ nỗi tiếng không phải gọi là tài năng của bản thân mà gọi là bắt chước. Một giọng ca đặt biệt không nhầm lẫn với ai khác đấy mới chính là giọng ca tài năng. Muốn nổi bật giữa đám đông thì đừng để đám đông làm nhòe đi tầm để ta lần mò đi trong đám đông bằng sự riêng biệt. Trong văn học cũng vậy, tài năng là thứ không giống với bất kì ai. Vì thế mà nhà văn Tuốc Ghe-nhép nói: “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong bất kì cái cổ họng của một người khác”.
Con người có tài năng văn học là con người thực sự có khả năng, có điêu luyện để dùng lời lẽ ngôn từ của mình để làm nên sự sáng tạo trong nghệ thuật, làm nên cái hay trong từng tác phẩm. Tài năng văn học không chỉ dừng ở đó mà nó còn là phép hoán dụ chỉ đến những nhà thơ, nhà văn giỏi giang, có tài. Đúng thực là như vậy, vì không có tài thì làm sao được gọi là tài năng.
Nói nếu hiểu cách thông thường đó chính là diễn đạt thành lời, phát âm thành tiếng một nội dung nào đó cho người nghe. Còn tiếng của mình, cái giọng riêng biệt của chính mình của nhà văn thì mới là điều khác. Vì nó không đơn thuần là nói mà sự diễn đạt, cách thể hiện độc đáo, sáng tạo riêng của bản thân cá nhân đối với vấn đề nào đó. Nếu đã nói là riêng biệt thì nó “không thể tìm thấy trong bất kì cái cổ họng của một người khác”. Đó chính là cái duy nhất, cái chỉ có ta mới có được, không thể có người thứ hai. Nếu đã có người thứ hai, thì đó chỉ được coi là sự lặp lại. Mà lặp lại một sự nhàm chán thì tài năng đâu còn có thể tồn tại được nữa. Vì vậy, nếu hiểu đúng nghĩa về điều mà nhà văn muốn nói về tài năng văn học, đó là một nghệ sĩ cần phải có lối đi riêng, không nhầm lẫn, không giống với bất cứ ai, không chỉ riêng mà còn phải độc đáo, phải có cái gọi là “độc nhất vô nhị” của chính mình. Đó mới đúng là tài năng thực thụ theo nghĩa hoàn toàn chính đáng.
Nhắc đến sự riêng biệt của người nghệ sĩ phải nhắc đến phong cách của họ. Mỗi con người ai không tìm cho mình một phong cách riêng, phong cách về ăn uống, phong cách về thời trang,……Còn người nghệ sĩ thì lại có phong cách khác. Đó chính là phong cách sử dụng ngôn từ, phong cách biểu đạt để làm sao mà người đọc dễ thấm thía trong từng câu văn, lời thơ. Để văn học trái ngược với sự nhàm chán là sự độc đáo, mới lại giúp người đọc cảm thấy thú vị hơn khi đọc tác phẩm do chính tay nghệ sĩ sáng tác. Mặc dù có lặp đi lặp lại về nội dung và hình thức, các tác phẩm không gây chán, mà gây hứng thú hơn với người đọc. Thế nên phải nói đấy chính là sự bền vững, xuyên suốt, không thể thiếu của văn học.
Thậm chí ta có thể nói phong cách nghệ thuật còn đem đến cho tác phẩm không chỉ hay mà còn độc đáo trong từng nội dung, từng cách diễn đạt. Từ đó mà sự sáng tạo của nhà văn không chỉ nằm một chỗ mà còn tiến xa hơn nữa khi đem đến cho người đọc những sự trải nghiệm mới mẻ về cuộc sống, tôn lên vẻ đẹp của cuộc đời thông qua phương tiện nghệ thuật chỉ có nhà văn mới có. Và đấy không gì khác là sự biểu hiện tài năng xuất chúng của người nghệ sĩ trong tác phẩm văn học làm đậm dấu ấn trong lòng người đọc không ai khác chính là những người biết thưởng thức thơ văn, vì chỉ có họ mới cảm nhận được văn hay, chỉ có họ mới thấy được tài năng của người nghệ sĩ nằm trong từng câu văn, câu thơ.
Phong cách nghệ thuật ngoài sự độc đáo ra còn có trong nó những tính chất đặc biệt. Là sự khám phá giúp người đọc tò mò, có thêm những nhiều biết mà chỉ có khám phá từ sâu bên trong mới biết được là từ các hình tượng ta hình dung ra được bài văn như thế nào. Bởi hình tượng là thứ quan trọng, nếu thiếu nó thì nghệ sĩ không thể nào gọi là có tài được. Và đặc biệt hơn, đó chính là giọng điệu riêng biệt. Phải có nó nghệ sĩ mới làm nên được điều khác lạ, có nó mới có cái tôi trong tác phẩm của mình.
Sáng tác riêng biệt là yếu tố không thể thiếu đối với người nghệ sĩ. Vì nó làm tôn lên tài năng vốn có, để rồi từ đó đưa người đọc đến một chân trời mới, đến với cái hay không thể thiếu của thơ văn. Là tiêu chuẩn để biết được nghệ sĩ có thật sự tài năng hay không. Nếu đã đáp ứng đủ thì không còn gì để nói khi cho rằng tài năng văn học của người nghệ sĩ là không thể nào phủ nhận được.
Điển hình như trong thơ của Xuân Diệu, ta phần nào thấy được tài năng văn học của ông. Bài thơ “Đây mùa thu tới” với ngòi bút tài năng của tác giả đã thấm đượm lên nó là một nỗi buồn sâu thẳm. là cái buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn thời đại, là buồn của riêng “thơ Mới”. Tại sao cảnh thu đẹp nhưng lại buồn? Là vì lòng người buồn. Cảm xúc ấy được đưa vào khung cảnh đất trời chuyển vào thu.
“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo phơ mai dệt là vàng”
Câu thơ như một tiếng rao khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của mùa thu. Tài năng của Xuân Diệu còn được thể hiện qua cách cảm nhận mùa thu, sự cảm nhận mà chỉ riêng ông mới có. Sự cảm nhận bằng tất cả các giác quan. Cành lá run rẩy, sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh đến tận xương khô, rét mướt buồn trong gió. Cuối cùng là gửi gắm thông qua nỗi lòng của người thiếu nữ: “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì” là tư thế suy tư của người muốn hướng về cuộc đời. Qua đó ta thấy được đậm chất tài năng của Xuân Diệu bằng những cảm nhận tinh tế, sáng tạo, một hồn thơ riêng biệt , đi vào lòng người.
Giọng văn của Nam Cao là giọng văn triết lí, lạnh lùng, khinh bậc và buồn thương. “Một bữa no” là tác phẩm phê phán, lên án xã hội thối nát lúc bấy giờ. Kể về một bài lão chồng mất sớm, cả đời nuôi con nhưng khi lớn con cũng ra đi vĩnh viễn. Vợ con bà sau khi chịu tang con trai bà mà vội vàng đi lấy chồng. Nuôi cháu bảy năm trời, vì quá khó khăn nên cho nhà bà phó làm con nuôi. Nhưng sau đó cuộc sống của bà không mấy dễ dàng. Bao nhiêu tiền bạc lo tang con trai, sau đó bà còn phải bị bệnh nặng, sức khỏe không cho phép bà làm bất cứ việc gì. Hôm ấy bà đi thăm cháu, nhưng lại bị bà phó chà đạp lên lòng tự trọng, bữa cơm no nhất của bà cũng chính là bữa cơm cuối cùng. Ta thấy được Nam Cao đã vạch tội ác của con người trong xã hội lúc bấy giờ. Bằng tài năng của mình ông đã đưa câu chuyện như thấu trong lòng người đọc một nỗi đau khó tả, có cảm giác hận thù đối với những con người tệ bạc. Câu chuyện mang một triết lí sâu sắc đối với tình thương, tình người.Nếu không có tình thương thì chẳng khác gì cầm thú. Nhờ Nam Cao mà ta không nhũng biết về xã hội xưa mà còn giúp ta khám phá được bên trong nội tâm độc đáo của con người làm nên dấu ấn khó quên trong lòng người đọc.
Một tài năng văn học không thể nào thiếu được phong cách sáng tạo, độc đáo của mình. Và không có nó độc giả không thể nào khám phá hiểu biết được hết ý nghĩa của văn học cũng như ý nghĩa của cuộc đời. Vì có sáng tạo mới cho ta biết hết thảy về cuộc sống, cuộc đời. Có sáng tạo ta mới tìm được thú vui, cảm giác đắm chìm trong văn học. Vì thế nên tài năng văn học chính là sự riêng biệt của người nghệ sĩ.
Bài văn tham khảo 2:
Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác (Dẫn theo Khravchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, NXB Tác phẩm mới, 1978)
Sáng tạo là đặc trưng cơ bản của văn chương, là điều kiện tiên quyết của văn học. Theo Tề Bạch Thạch: “Nghệ thuật vừa giống vừa không giống với cuộc đời. Nếu hoàn toàn giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật mị đời. Còn nếu hoàn toàn không giống cuộc đời thì đó là nghệ thuật dối đời”. Nghệ thuật thường vừa hư vừa thực, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa bình thường vừa phi thường. Mỗi tác phẩm văn học, mỗi nhân vật, mỗi câu chữ trong tác phẩm phải tạo được sự bất ngờ, lý thú đối với người đọc.
Cùng viết về con người những năm 1930 – 1945, người đọc bắt gặp bao dáng cấy, dáng cày nhọc nhằn vất vả. Nhưng đọc “Chí Phèo” của Nam Cao, người đọc bao đời vẫn dâng lên cảm xúc đau đớn, xót xa trước sự quằn quại, quẫy đạp của con người trước Cách mạng tháng Tám khi họ buộc phải lựa chọn giữa hai con đường: sống thì phải làm quỷ, không muốn làm quỷ thì phải chết. Chí Phèo đã chết giữa ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện để giữ lấy nhân cách cho bản thân. Đọc “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, người đọc lại cảm thương trước cuộc sống mỏi mòn, leo lét của hai đứa trẻ. Chúng đang âm thầm tiến đến cái “chết” ngay khi còn đang tồn tại. Đọc “Chữ người tử từ” của Nguyễn Tuân, độc giả chợt nhận ra “cái đẹp cứu vãn thế giới”, cái đẹp về nhân cách và tài năng của Huấn Cao đã “cảm được tấm lòng trong thiên hạ” của Quản Ngục.
Rõ ràng, Nam Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân,… bằng tài năng của mình đã tạo nên những khám phá riêng đầy giá trị trên nền hiện thực xã hội. Các nhà văn ấy đã chứng minh cho quy luật: Nghệ thuật không chấp nhận sự lặp lại của người khác cũng như lặp lại chính bản thân mình, không chấp nhận sự sao chép đời sống bởi “chân lý thuật chỉ thống nhất chứ không đồng nhất với chân lý đời sống”.
Tác phẩm văn học là tấm gương soi chiếu hiện thực cuộc sống nhưng phải qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Chính vì vậy, hiện thực trong tác phẩm còn thực hơn hiện thực ngoài đời sống vì nó đã được nhào nặn qua bàn tay nghệ thuật của người nghệ sĩ, được thổi vào đó không chỉ hơi thở của thời đại mà cả sức sống tư tưởng và tâm hồn người viết. Hiện thực đời sống không phải chỉ là những hiện tượng, những sự kiện nằm thẳng đơ trên trang giấy mà phải hòa tan vào trong câu chữ, trở thành máu thịt của tác phẩm. Chất hiện thực làm nên sức sống cho tác phẩm và chính tài năng người nghệ sĩ đã bất tử hóa sức sống ấy. Bởi đặc trưng của văn học là hoạt động sáng tạo có tính chất cá thể. Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt, không tạo được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng thì đó là sự tự sát trong văn chương.
Phong cách chính là nhà văn phải đem lại một tiếng nói mới cho văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng, bền vững mà luôn đổi mới. Đặc biệt, nó phải có tính chất thẩm mĩ, nghĩa là đem lại cho người đọc sự hưởng thụ thẩm mĩ dồi dào. Phong cách không chỉ là dấu hiệu trưởng thành của một nhà văn mà khi đã nở rộ thì nó còn là bằng chứng của một nền văn học đã trưởng thành.
Văn chương gắn với sự sáng tạo, phong cách nghệ thuật của nhà văn lý luận văn học nghệ thuật phong cách sáng tạo văn chương văn học. Nhà văn Tuocghenhev khẳng định: “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác”. Văn chương gắn với sự sáng tạo, phong cách nghệ thuật của nhà văn lý luận văn học nghệ thuật phong cách sáng tạo văn chương văn học. Nguyễn Tuân cũng từng nhấn mạnh: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy, nó đòi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét gì đó rất mới, rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình.” Cùng quan điểm ấy, nhà văn Lê ô nốp viết “Không có tiếng nói riêng, không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết”.
Phong cách nghệ thuật có cội nguồn tạo là sự hợp thành của những yếu tố như thế giới quan, tâm lí, khí chất, cá tính sinh hoạt… Phong cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Thời gian cứ trôi đi lặng lẽ mà vô tình nhưng thời gian cũng chính là thứ nước rửa ảnh làm nổi bật lên những tác phẩm hay, độc đáo. Có một nữ văn sĩ từng nói đại ý rằng “Sẽ không bao giờ chúng ta gặp lại mình như chiều nay”. Cũng như một triết gia từng đúc rút “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Mỗi khoảnh khắc trôi đi sẽ không bao giờ trở lại. Sẽ chẳng bao giờ ta gặp lại một Nam Cao, Thạch Lam, một Nguyễn Tuân, Xuân Diệu ,… thứ hai trên cõi đời này nữa. Bởi lẽ văn chương không bao giờ là sự lặp lại và mỗi nhà văn có một tạng riêng, một phong cách riêng.
“Mỗi công dân có một dạng vân tay
Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn”.
(Lê Đạt)
Phong cách nghệ thuật của nhà văn là sự độc đáo, giàu tính khám phá, phát hiện về con người và cuộc đời thể hiện qua hình thức nghệ thuật độc đáo và những phương thức phương tiện mang đậm dấu ấn sáng tạo của cá nhân người nghệ sĩ được thể hiện trong tác phẩm. “Đừng cho tôi đề tài, hãy cho tôi đôi mắt”. Đôi mắt nhìn đời khác nhau sẽ đem lại những trang văn khác nhau và mang đậm cá tính sáng tạo. Đây không chỉ đơn thuần là vấn đề về cái nhìn mà rộng hơn là vấn đề phong cách nghệ thuật của nhà văn
Phong cách chính là vấn đề về cái nhìn. Mỗi nhà văn phải có cách nhìn mới mẻ, độc đáo, cách cảm thụ giàu tính khám phá và phát hiện đối với cuộc đời. Cuộc sống này có gì khác biệt đâu? Từ xưa đến nay, vẫn bốn mùa không thay đổi, vẫn là những vấn đề bức thiết mang tính quy luật về đời sống và con người. Thế nhưng, mỗi nhà văn lại nhìn thấy trong cái cũ kĩ, quen thuộc ấy những khía cạnh, những góc khuất chưa ai nhìn thấy, hoặc có thấy nhưng không để ý và giả lơ đi.
Cuộc đời qua con mắt của nhà văn lúc nào cũng chứa nhiều điều bí ẩn mãi mãi không khám phá hết. Đó chính là ý thức nghệ thuật của nhà văn chân chính. Họ không bao giờ cho phép bản thân sống lặp lại, sống nhạt nhòa, viết hời hợt và nhìn đời thờ ơ hờ hững. Những người cầm bút chân chính bao giờ cũng mang đến cho người đọc mỗi lần đọc tác phẩm của họ là mỗi lần mở ra trước mắt thêm những điều khác lạ, mới mẻ hơn.
Sáng tạo là kết quả của quá trình dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, hun đúc, một tiến trình cọ xát dữ dội. Sáng tạo không có nghĩa là bịa đặt. Sáng tạo nghệ thuật giống như sáng tạo cuộc sống, cần có yếu tố thẩm mỹ, tính chân thực cao, có khả năng tác động mạnh mẽ vào nhận thức của người đọc.
Bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo, một sự lao động miệt mài không ngừng nghỉ. Văn chương sẽ ra sao nếu tác phẩm này là bản sao của tác phẩm kia? Nếu mỗi người nghệ sĩ đều bằng lòng với những điều có sẵn? Câu chữ mòn sáo, lời văn đơn điệu, quen nhàm? Ấy là cái chết của nghệ thuật, cái chết của người nghệ sĩ trong mỗi nhà văn. Bởi “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao)
Khi tìm đến yêu cầu sáng tạo đối với nghệ thuật, đã có người băn khoăn tự hỏi: Văn học cùng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, vậy tại sao không có sự gặp gỡ, trùng lặp? Thật vậy, cuộc đời là lạch ngầm nơi dòng sông văn chương bắt nước. Thế nhưng hiện thực ấy được chảy qua bầu cảm xúc mãnh liệt của mỗi nhà thơ, nhà văn.
Mỗi người nghệ sĩ là một tiểu vũ trụ, tác phẩm văn học là sự phản ánh tiểu vũ trụ ấy. Vì vậy, không có những tác phẩm “song sinh” dù tâm hồn anh cùng đồng điệu, tri kỷ với tâm hồn tôi.
Mặt khác, người đọc tìm đến với văn học nói chung, thơ ca nói riêng để đắm mình trong vẻ đẹp của sự sáng tạo. Có ai yêu những áng thơ mòn cũ, quen nhàm; có ai nhớ những vần điệu nhạt nhẽo, sáo rỗng. Không đi theo con đường sáng tạo, nhà thơ sẽ chỉ còn lại một mình giữa sự thờ ơ, quên lãng của người đọc. Như thế, cuộc đời cầm bút của anh trở nên vô nghĩa. Bởi “điều còn lại đối với mỗi nhà văn chính là cái giọng nói riêng của mình”. Yêu cầu về sáng tạo ấy gợi nhắc trong lòng người đọc nỗi nhớ khôn nguôi về những nhà thơ đã dành trọn cuộc đời mình cho văn chương, nghệ thuật.
Văn học là một trong những hình thái nghệ thuật phản ánh đời sống. Nếu các nhà khoa học lấy mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu là nhằm đạt tới chân lý khách quan biểu thị qua những định lý, định luật mang tính khuôn mẫu, là nguyên tắc chung… thì các nhà văn lại phải tìm trong hiện thực cuộc sống bộn bề những vấn đề cá biệt mang tính bản chất và phản ánh vào trong tác phẩm thông qua những hình thức nghệ thuật riêng với quan điểm của riêng mình.
Văn chương không thể được tạo ra theo hình thức sản xuất có tính dây chuyền, không phải là sản xuất hàng loạt. Tác phẩm văn học khi được viết ra bằng ngôn từ nghệ thuật nhất thiết phải thể hiện được cách nhìn về hiện thực riêng, những tìm tòi về nghệ thuật riêng của người nghệ sĩ. Hình ảnh cuộc sống trong tác phẩm là hình ảnh của hiện thực đã đi qua một tâm hồn, một cá thể và dấu ân cá thể in vào trong đó “càng độc đáo càng hay”. Xuân Diệu đã nói: chỉ có những tâm hồn đồng điệu chứ không thể có những con người là phiên bản của nhau. Bởi vậy, sáng tác văn học, một thứ sản xuất “đặc biệt và cá thể” nhất quyết không thể tạo ra những tác phẩm giống nhau như khuôn đúc.
Giọng nói riêng của nhà văn có thể hiểu là một tâm tư tình cảm riêng, một thái độ sống, cách nhìn, cách đánh giá về hiện thực cuộc sống riêng được biểu hiện trong tác phẩm bằng hình thức nghệ thuật phù hợp. Nam Cao từng nói rất thấm thía một điều: “Văn chương không cần đến…. sáng tạo những gì chưa có”.
Cuộc sống phong phú muôn màu muôn vẻ luôn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn, chứa nhiều điều bí mật, kỳ diệu cần được khám phá. Bề dày lịch sử văn học thế giới đã được tạo dựng hàng loạt những khám phá riêng ấy. Song điều đó không có nghĩa người nghệ sĩ được phép lùi bước trong sáng tạo. Viên Mai cho rằng: “Làm thơ quý nhất là lật đổ cái án cũ mới hay”. Điều Viên Mai cho rằng “quý nhất” ấy thực chất cần thiết với văn học nói chung, nào phải chỉ riêng thơ ca. Chỉ có điều: với tư cách là loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng phương thức trữ tình, yêu cầu “lật đổ cái án cũ” với thơ ca được đề cao hơn hết thảy.
Người nghệ sĩ phải có một con mắt tinh sắc, một tâm hồn nhạy cảm và một tài năng đã đến độ chín để gửi vào trong tác phẩm giọng nói riêng của mình. Anh có thể học tập, tiếp thu tinh hoa trong tác phẩm của các nhà văn lớp trước nhưng phải trên cơ sở sự sáng tạo. Nói như M. Gorki: “các anh hãy học tập tất cả những nhà văn có phong cách điêu luyện, nhưng các anh hãy tìm lấy nốt nhạc lời ca cho riêng mình”. Người nghệ sĩ không được phép lười biếng hay bắt chước mà phải luôn trong tâm thế tìm tòi, sáng tạo. Tất nhiên điều đó không có nghĩa nhà văn được phép tìm tòi theo hướng cực đoan, viết những điều không ai hiểu được.
Để thơ trở thành thơ, để nghệ thuật trở thành nghệ thuật, người làm thơ phải luôn ý thức: sáng tạo cái độc đáo. Không ai đòi hỏi khuôn mẫu cho nghệ thuật, cũng không ai dạy nhà thơ phải phản ánh thế này, xúc động thế kia. Đấy là công việc của nhà làm thơ. “Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể”. Bởi vì mỗi tâm hồn là một “vương quốc riêng”, mỗi bài thơ là một đứa con tinh thần riêng của người nghệ sĩ, thật khó tìm thấy sự trùng lặp trong sáng tạo. Bởi vì “tầm thường là cái chết của nghệ thuật”, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của thơ ca. Độc đáo luôn là yêu cầu muôn đời của văn chương nghệ thuật.
Đối với nhà văn, để sáng tạo nên những vần thơ đích thực, để vươn tới đỉnh cao của nghệ thuật chân chính, người nghệ sĩ không những phải có tài mà cần phải có tâm, có tình cảm mãnh liệt, sống hết mình với cuộc đời, biết xúc động nhạy cảm trước mọi niềm vui nỗi buồn của con người. Đồng thời, nhà văn cũng phải biết làm lây lan tình cảm, gửi đến bạn đọc những thông điệp sâu sắc qua các phương tiện, hình thức nghệ thuật đẹp đẽ.
Đối với người đọc, để đánh giá một tác phẩm, không chỉ chú ý đến hình thức ngôn từ mà phải khám phá ra chiều sâu tư tưởng, tình cảm mãnh liệt mà tác giả gửi gắm.