Bài thơ: Qua đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan) (đầy đủ) – SGK Ngữ văn 7

van-ban-qua-deo-ngang-ba-huyen-thanh-quan-day-du-ngu-van-7

Qua đèo Ngang
(Bà huyện Thanh Quan)

Bước tới đèo Ngang[1] bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ[2] mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Nguồn:

1. Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953
2. Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004
3. Thử bàn về vấn đề phiên Nôm, Nguyễn Ngọc San, Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, 11-2004

Chú thích:

Bà Huyện Thanh Quan (chưa rõ năm sinh, năm mất), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Bình ngày nay), do đó có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một nữ sĩ vào loại tài danh hiếm có thời phong kiến. Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng.

Bài thơ này được viết theo thể thất ngôn bát cú. Đây là một trong hai dạng cơ bản, phổ biến nhất của thơ Đường luật, gồm thất ngôn bát cú (7 chữ, 8 câu) và thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ, 4 câu). Thơ thất ngôn bát cú Đường luật có những quy định rất chặt chẽ về bố cục (tổ chức cơ bản về nội dung và hình thức), luật (quy định về vần, thanh trong cả bài, đối giữa các cặp câu 3 – 4, 5 – 6), niêm (sự liên kết giữa các câu 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7).

[1] Có bản chép là “Qua đỉnh đèo Ngang”.
[2] Chữ này nhiều bản chép là “chợ”, nhưng theo nhiều tài liệu thì đây phải là chữ “rợ” thì mới đúng và chuẩn, vì “chợ” không thể đối với “tiều” được. Có bản lại chép là “nọ”, cũng đối không chỉnh.

I. Đọc – hiểu văn bản:

Câu 1: Căn cứ vào lời giới thiệu về thể thất ngôn bát cú Đường luật ở chú thích, em hãy nhận dạng thể thơ của bài Qua Đèo Ngang về số câu, số chữ trong câu, cách gieo vần, phép đối giữa câu 3, câu 4, câu 5 với câu 6.

Câu 2: Cảnh tượng Đèo Ngang được miêu tả ở thời điểm nào trong ngày? Thời điểm đó có lợi thế gì trong việc bộc lộ tâm trạng của tác giả?

Câu 3: Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi tiết gì?

Câu 4: Hãy nhận xét về cảnh tượng đèo Ngang qua sự miêu tả của Bà Huyện Thanh Quan.

Câu 5: Hãy hình dung tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan khi qua Đèo Ngang. Tâm trạng đó được thể hiện qua hai hình thức: mượn cảnh nói tình và trực tiếp tả tình như thế nào?

Câu 6: Nói đến mảnh tình riêng giữa cảnh: trời, non, nước bao la ở Đèo Ngang thì có gì khác với cách nói một mảnh tình riêng trong một không gian chật hẹp.

* Ghi nhớ:

Bài thơ cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng của sự sống con người nhưng còn hoang sơ. Đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà và nỗi buồn, cô đơn thầm lặng của tác giả.

II. Luyện tập

Tìm hàm nghĩa của cụm từ “Ta với ta”.


* Soạn bài:

Qua đèo Ngang
(Bà huyện Thanh Quan)

Câu 1: Đặc điểm của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:

– Đường luật: luật thơ có tự đời Đường (618 – 907) ở Trung Quốc.

– Số câu: 8 câu (bát cú)

– Số chữ: 7 chữ trong mỗi dòng thơ (thất ngôn)

– Hiệp vần: ở chữ cuối của câu 1 – 2 – 4 – 6 -8 tất cả đều vần bằng và một vần duy nhất (còn gọi là độc vần): tà – hoa – nhà – gia – ta (vần a).

– Phép đối: trong mỗi bài thơ có 2 cặp câu đối nhau về cả nghĩa lần thanh điệu: câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6.

Câu 2: Cảnh vật được miêu tả vào lúc chiều tà. Thời điểm đó dễ gợi lên tâm trạng buồn, cô đơn nhất là với người lữ thứ nơi đất khách quê người.

Câu 3:

Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi tiết: cỏ cây, hoa lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, tiếng chim quốc, chim đa đa, có vài chú tiều phu. Các chi tiết này cho thấy cảnh Đèo Ngang um tùm, rậm rạp. Con người thì ít ỏi, thưa thớt.

Các từ láy: “lom khom”, “lác đác”, các từ tượng thanh: “quốc quốc”, “đa đa” có tác dụng lớn trong việc gợi hình, gợi cảm và càng gợi lên cảm giác hoang vắng, quạnh hiu.

Câu 4: Cảnh Đèo Ngang là cảnh thiên nhiên, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng rất hoang sơ. Cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà, lại được nhìn từ tâm trạng của kẻ xa quê nên cảnh gợi lên cảm giác buồn, hoang sơ, vắng lặng.

Câu 5: Tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan được thể hiện qua hai hình thức:

– Mượn cảnh nói tình: thông qua thời gian và không gian hình thức:

+ Gia gia – vừa mô phỏng tiếng chim như đồng âm với nó còn có nghĩa là nhà. Nỗi nhớ nhà đang trào dâng trong lòng người nữ sĩ xa quê, trong cảnh chiều hôm người ta tìm về mái ấm gia đình, còn bà lại đang dừng chân chống hoang sơ hiu quạnh, nhớ nhà là phải lắm.

+ Con quốc quốc – mô phỏng tiếng chim kêu và đồng âm với nó quốc quốc là đất nước, Tổ quốc. Bà là nho sĩ xứ Bắc Hà quặn lòng nhớ về Thăng Long xưa, nhớ về quá khứ của đất nước lúc còn hưng thịnh, lúc triều Nguyễn chưa dời kinh đô vào Huế.

– Trực tiếp tả tình: Thể hiện qua câu cuối của bài thơ “Một mảnh tìn riêng ta với ta”. Mảnh tình riêng đó thật sâu sắc, thấm thía.

Câu 6:

Giữa cảnh trời, non, nước và một mảnh tình riêng có quan hệ đối lập nhau. Cảnh càng rộng lớn thì tình càng cô đơn, con người càng nhỏ bé. Như thế, rõ ràng cảnh góp phần khiến nỗi cô đơn của tác giả càng lớn hơn, nặng nề hơn.

Cảm nhận bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.