bat-sau-rung-u-minh-ha-son-nam-sgk-ngu-van-12-tap-2

Đọc thêm: Bắt sấu rừng U Minh Hạ (Sơn Nam) – SGK Ngữ văn 12, tập 2

Bắt sấu rừng U Minh Hạ (trích)
(Sơn Nam)

Văn bản.

(Lược phần đầu: Ở vùng U Minh Hạ, cá sấu thường đi ngược sông vào giữa rừng tràm sinh sống. Một người lên rừng lấy mật ong phát hiện ra ở ngọn rạch Cái Tàu có cái ao sấu “nhiều như trái mù u chín rụng”.)

Rừng U Minh có diện tích khoảng 2000 km2, trải dài từ sông Ông Đốc đến Rạch Giá, tựa lưng vào miền Tây Nam Bộ, mặt hướng ra vịnh Thái Lan. Sông Trẹm và sông Cái Tàu chia U Minh thành hai phần: U Minh Thượng phía bắc thuộc Kiên Giang, U Minh Hạ phía nam thuộc Cà Mau.

Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đại lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo, tức là vùng Rạch Giá ngày nay. Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu.

Từ sớm tới chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát:

Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Đầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan…

Giọng nghe ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kì lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kĩ. Đoán chừng ông lão nọ là người có kì tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.

Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo:

– Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này…

– Té ra ông là thợ câu sấu!

Ông Năm Hên lắc đầu:

– Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau. Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Đó là ở dưới nước. Đằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.

– Vậy chớ ông bắt bằng gì?

– Tôi bắt bằng… hai tay không.

Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hên cười giòn:

– Bà con cô bác không tin sao?

Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này? Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức.

– Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng? Nếu cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. Ở xóm này, thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.

Ông Năm Hên đáp:

– Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu đó. Có vậy thôi! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: ảnh bị sấu ở ngã ba Đình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như vậy, cũng như phá Tam Giang, truông Nhà Hồ của mình ngoài Huế.

Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch – một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản lại:

– Đi nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà.

Đã quá giờ ngọ.

Ngóng về phía ao sấu U Minh Hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời vừa xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi:

– Bà con ơi! Ra coi sấu… Bốn mươi lăm con còn sống nhăn.

Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.

– Diệu kế! Diệu kế! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè! Một đời người mới có một lần.

Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.

Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao? Người thì đứng há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị sự trừng phạt của quỷ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.

Đại khái, Tư Hoạch trình bày:

– Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ bờ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi, chặt ra khúc chừng ba tấc.

Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc mốp khoá miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại; chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.

– Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thực quá cao cường. Ổng đâu rồi? Sao không thấy ổng về? Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao?

Tư Hoạch nói:

– Mà quên! Ông biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng “đất đai vương trạch” rồi đi bộ về sau.

Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:

Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cột xa nhành,
Đầu bãi cuối gành,

Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan…

Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhất là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.

– Coi tướng của ổng ghê như tướng thầy pháp! – Một người thốt lên như vậy.

Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Đó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ?

Hương rừng Cà Mau gồm 18 truyện ngắn. Tập truyện đưa ta vào một thế giới bao la và kì thú của vùng rừng U Minh với những người dân lao động có sức sống mãnh liệt, đậm sâu ân nghĩa và cũng đầy tài ba, trí dũng, gan góc, can trường. Thấm đượm trong mỗi trang viết là tình yêu thiết tha của nhà văn với đất nước quê hương. Truyện Sơn Nam còn hấp dẫn người đọc bằng cách dựng truyện li kì, những chi tiết gợi cảm, nhân vật giàu chất sống, ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ. Có thể thấy rõ những điều đó qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ ở đây.

(Hương rừng Cà Mau, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1986)

Đọc hiểu văn bản.

Câu 1: Qua đoạn trích, anh chị nhận thấy thiên nhiên và con người vùng U Minh Hạ có những đặc điểm gì nổi bật?
Câu 2: Phân tích tính cách, tài nghệ của nhân vật ông Năm Hên. Bài hát của ông Năm gợi cho anh chị cảm nghĩa gì?
Câu 3: Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ của Sơn Nam trong tác phẩm.
Câu 4: Cảm nhận của anh (chị) về vùng đất và con người miền cực nam của Tổ quốc qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ.


* Soạn bài:

Câu 1: Thiên nhiên và con người vùng U Minh Hạ

– Thiên nhiên:

+ Rừng tràm xanh biếc.
+ Những cây cỏ hoang dại: lau sậy, mốp, cóc kèn.
+ Ở ngọn rạch Cái Tàu có ao cá sấu “nhiều như trái mù u chín rụng”.

– Con người:

+ Cần cù, mưu trí, gan góc, kiên cường.
+ Có sức sống mãnh liệt.
+ Đậm sâu, ân nghĩa.(Họ thương tiếc những bà con xóm giềng bị “hùm tha bắt sấu”, họ vượt lên gian khó hiểm nguy bằng tài trí và sức mạnh của mình,…)

Câu 2: Tính cách và tài nghệ của Năm Hên:

– Nhận vật ông Năm Hên là hình ảnh tiêu biểu cho người dân vùng U Minh Hạ nói riêng, người dân Nam Bộ nói chung. Ông là người tài trí khác thường, bắt sấu không cần vũ khí, không cần lưỡi câu. Ông bắt sấu trên khô “bằng hai tay không”, “chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện”, nghĩa là ông sẽ bắt hết ao cá sấu trong thời gian rất ngắn. Ông bắt cả đàn cá sấu chỉ bằng mấy câu mốp tươi và nắm dây cóc kén, đó chính là mưu trí và sự am hiểu tường tận về loài cá dữ này của ông.

– Ông là người giàu nghĩa khí, giàu tình cảm. Ông nói “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt tôi không màng thứ phú quới đó”.

– Ông bắt sấu vì nghĩa. Nghe đồn có ao cá sấu khiến cho người dân bất an, ông chẳng ngại đường xa đến để trừ tai hoạ cho họ. Ông bắt sấu còn là để trả thù cho người em trai bị cá sấu ăn thịt và bao nhiêu người bất hạnh đã chết oan vì sấy.

– Ông là người rất tôn kính thổ thần, có tình nghĩa nặng sâu với tổ tiên, với những người đã khuất. Điều này thể hiện qua bài hát của Năm Hên:

Hồn ở đâu đây

Ta thương ta tiếc
Lập đàn giải oan

Tiếng hát gọi hồn não nùng, bi ai theo ông hằng ngày. Tiếng hát của ông cũng là một sự hoá giải cho những linh hồn bất hạnh, những linh hồn vất vưởng nơi rừng thiêng nước độc.

Câu 3: Đặc sắc nghệ thuật kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ:

– Lối dẫn truyện rất thô mộc, tự nhiên mà gọn gàng, sáng rõ.

– Nhân vật giàu chất sống, thể hiện rõ nét tính cách con người Nam Bộ.

– Ngôn ngữ Nam Bộ được thể hiện rõ, phương ngữ được sử dụng thích hợp, với liều lượng vừa đủ để khắc hoạ sâu đậm vóc dáng tâm hồn của con người, đất rừng, sông nước Cà Mau.

Câu 4: Tác phẩm không chỉ đem đến cho người đọc những cảm giác khám phá đầy say mê, lý thú khi mở ra thế giới bí ẩn, độc đáo của thiên nhiên, con người vùng cực Nam của Tổ quốc mà còn khiến người ta yêu thương, gắn bó một phần đất, phần hồn của quê hương, đất nước mình. Đâu đây vẫn là vẻ đẹp giàu có và khắc nghiệt của đất Việt, vẫn hồn cốt cần cù, dũng cảm, tài trí, yêu đời của người Việt trong cuộc đấu tranh sinh tồn và mở mang, xây dựng đất nước. Sự kì thú khi khám phá những yêu thương, thân gần và một tình cảm tự hào tha thiết. Đó chính là những xúc cảm thẩm mĩ mà tác phẩm đã đem đến cho người đọc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang