bi-quyet-lam-phan-doc-hieu-de-thi-tuyen-sinh-vao-lop-10-mon-ngu-van

Bí quyết làm phần đọc hiểu đề thi Tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ Văn

Bí quyết làm phần đọc hiểu đề thi Tuyển sinh vào lớp 10 môn Ngữ Văn 

* Phạm vi kiến thức:

+ Kiến thức Tiếng Việt: nội dung kiến thức Tiếng Việt đã học.
+ Kiến thức văn bản: Văn bản văn học, văn bản nhật dụng, văn bản báo chí,….
+ Kiến thức xã hội: các vấn đề trong đời sống xã hội.

* Kiểu dạng đề bài:

+ Cho một văn bản và các câu hỏi xoay quanh nội dung, ý nghĩa văn bản ấy.
+ Cho 2 văn bản cùng chủ đề và các câu hỏi xoay quanh nội dung, ý nghĩa văn bản ấy.

* Yêu cầu:

+ Nhận biết.
+ Thông hiểu.
+ Vận dụng.
+ Vận dụng cao.

* Các dạng câu hỏi trong phần đọc – hiểu:

+ Câu hỏi về phương thức biểu đạt của văn bản, kiểu văn bản.
+ Câu hỏi về chủ đề của văn bản: Xác định nội dung chính của văn bản.
+ Câu hỏi về biện pháp nghệ thuật (ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhan hóa,…) được sử dụng trong văn bản, nêu tác dụng của chúng.
+ Câu hỏi về phương châm hội thoại, các phép liên kết câu, các thành phần biệt lập,, thuật ngữ khởi ngữ, nghĩa tường minh, hàm ý,…
+ Câu hỏi về ý nghĩa một hình ảnh, chi tiết, từ ngữ, lời nhận định, quan điểm trong văn bản có liên hệ bản thân.
+ Câu hỏi liên hệ với một vấn đề trong thực tế đời sống.


Đề bài tham khảo:

ĐỀ 1:

PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Tiến sĩ Nguyễn Bá Hải: Đi tìm “mắt thần” cho người khiếm thị

Sau khi hoàn thành bằng tiến sĩ về robot học (cảm biến và giác quan của ro-bot), ông Nguyễn Bá Hải từ chối công việc bên Hàn với mức lương khổng lồ mà trở về Việt Nam giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm kỹ thuật và làm “mắt thần”. Dự án đó chính là chiếc kính dành cho người mù. “Mắt thần ”là thiết bị đầu tiên ở Việt Nam hỗ người khiếm thị nhận biết được vật cản trước mặt trong khoảng một mét. Thiết bị này sau bốn năm trải qua nghiên thử nghiệm thực tế và thành công ở phiên bản thứ 9 vừa ra mắt gần đây. Và phiên bản 9 này nhẹ bằng 1/10 và giá thành giảm 10 lần so với phiên bản đầu tiên.

Đã có người mua bản quyền nghiên cứu “mắt thần” với giá 2,3 tỷ đồng để sản xuất bán ra thị trường nhưng anh nhất định không bán mặc dù vợ chồng anh vẫn ở trọ trong thời gian vừa giảng dạy vừa nghiên. Anh cho rằng thật là vô nhân đạo nếu thương mại hóa sản phẩm này. Chỉnh vì vậy, anh đồng ý hợp tác với một công ty phi lợi nhuận sản xuất kính này với giá thành rẻ nhất với mong muốn 5000 người khiếm ở Việt Nam có “mắt thần”

Không dừng lại ở “mắt thần”, chàng trai trẻ hoài bão còn muốn cải tiến thiết bị này hơn nữa. Có thể chiếc kính giúp người khiếm thị đọc sách, nhận biết được các mệnh giá tiền, xác định được họ đang đứng ở đâu, nhận biết đồ ăn… Và xa hơn là trung tâm chăm sóc người khiếm thị một địa chỉ giống “1080” cho người mù, sẵn sàng giúp đỡ họ bất cứ lúc nào. Anh quan niệm: “Mình không giàu có bằng ai nhưng cứ cho đi bất cứ khi nào trong khả năng của mình. Vì thực sự cho đi giúp cuộc sống nhân văn hơn và mình hạnh phúc hơn”

(Lê Tuyết, báo Lao Động ngày 16/02/2016)

Câu 1 (1 điểm): Nêu hai thuật ngữ và một thành phần biệt lập được sử dụng trong văn bản.
Câu 2 (1 điểm): Nêu nội dung chính của phần trích trên.
Câu 3 (1 điểm): Viết một đoạn văn khoảng 5-7 dòng nêu suy nghĩ của mình về quan niệm sống của tiến sĩ Nguyễn Bá Hải được kể trong văn bản trên: “Mình không giàu có bằng ai nhưng cứ cho đi bất cứ khi nào trong khả năng của mình. Vì cho đi giúp cho cuộc sống nhân văn hơn và mình hạnh phúc hơn”.

PHẦN 2: LÀM VĂN 

Câu 1: (3 điểm)

Dưới đây là nỗi lo lắng của không ít các vị phụ huynh về con em của mình:

“Không biết nấu ăn, không biết rửa chén, không biết giặt quần áo… là điểm chung của việc “nghèo nàn’’ kinh nghiệm sống ở một bộ phận bạn trẻ hiện nay. Con đi học về, hôm thì: “Bộ quần áo này của con bẩn, mẹ giặt cho con nhé”. Hôm thì: “Tại mẹ quên bỏ chai nước vào ba lô của con, để con khát khô cả họng?” Có hôm con cằn nhằn: “Mẹ soạn sách thiếu cho con rồi”.                               ”.

Nhiều hôm, tôi bực mình với thái độ hững hờ của con kiểu như: “Món này con không thích, mẹ nấu món khác cho con ăn”. Đến chiếc xe đi học bẩn con cũng phải nhờ bố đi rửa. Thú thật, có tôi nhận ra con chẳng biết làm gì ngoài cái việc học xuất sắc. Hằng năm, con đều nhận danh hiệu học sinh giỏi, nhưng tôi không cảm thấy vui bởi lẽ con đang bị khuyết kỹ năng sống”.

(Con thiếu kỹ năng sống, lỗi mẹ cha? tác giả Ngọc Liên, báo Tuổi trẻ)

Hãy viết bài văn nghị luận ngắn trình bày suy nghĩ của em về thực trạng này ở giới trẻ hiện nay.


ĐỀ 2

PHẦN 1:  ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

“Bạn đã thả diều bao giờ chưa? Nếu đã từng thả diều, bạn có bao giờ đế ý thấy khi chiếc diều bay lên đến một độ cao, sợi dây luôn bị cong đi không ? Khi ban đầu mới thả diều, độ cong của sợi dây diều rất nhỏ, nhưng khi diều càng bay lên cao thì phần giữa của dây diều càng rũ xuống. Nguyên nhân là do dây diều ngoài chịu sự tác động của lực kéo lên trên và lực từ tay cầm của chúng ta giữ phía dưới, bản thân dây diều cũng có trọng lượng nhất định, cho nên mới khiến cho phần giữa của dây bị rũ xuống dưới và tạo độ cong. Dây diều trong không trung càng dài thì trọng lượng của nó càng lớn, lực hút của Trái Đất tác động lên nó càng cao và độ cong của dây diều càng rõ ”

(Theo Phi Lan Hội, Khám phá khoa học Vật lý lý thú, Hoàng Lan Linh dịch, Nxb Bách khoa Hà Nội, 2017)

Câu 1 (1 điểm): Nêu phương thức biểu đạt của văn bản. Chỉ ra hai phép liên kết được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 2 (1 điểm): Vì sao dây diều thường bị cong khi diều bay cao?
Câu 3 (1 điểm): Từ việc con diều bay lượn trên không trung dẫn dắt chúng ta liên tưởng đến điều gì ? Hãy viết về sự liên tưởng đó bằng một đoạn văn ngắn (khoảng 5- 7 dòng).

PHẦN 2 : TẬP LÀM VĂN

Câu 1 : (3 điểm)

Bức vẽ sau đây gợi cho em suy nghĩ gì ? Hãy trình bày suy nghĩ bằng bài văn nghị luận ngắn (khoảng 1 trang giấy thi).

khac-biet


ĐỀ 3

PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

“Và sao không là gió, là mây để thấy trời bao la
Và sao không là phù sa dâng mỡ màu cho hoa
Sao không là bài ca của tình yêu đôi lứa
Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư
Và sao không là bão, là giông, là ánh lửa đêm đông
Và sao không là hạt giống xanh đất mẹ bao dung
Sao không là đàn chim gọi bình minh thức giấc
Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư”

(Trích bài hát Khát vọng, Phạm Minh Tuấn)

Câu 1 (1 điểm): Chỉ ra một biện pháp tu từ theo em là độc đáo nhất được sử dụng trong bài, nêu tác dụng.
Câu 2 (1 điểm): Nêu nội dung chính của phần trích trên. Nội dung của bài hát khiến em liên tưởng đến bài thơ nào đã học trong chương trình Ngữ văn 9 ?
Câu 3 (1 điểm): Viết một đoạn văn ngắn về nhan đề “Khát vọng” mà tác giả đặt cho lời bài hát trên.

PHẦN 2: TẬP LÀM VĂN

Câu 1 (3 điểm)

Văn bản 1:

Khi đã trưởng thành, chúng ta nhận ra rằng điểm số cao hay thấp không phải là điều gì ghê gớm lắm, không phải ai học giỏi, điểm cao khi đi học cũng sẽ thành đạt và không phải bị vài ba điểm kém sẽ là người kém cỏi. Nhớ lại thời học sinh đã từng lo lắng, căng thẳng ra sao mỗi lần đến tiết kiểm tra hay hồi hộp, hy vọng khi giáo viên trả bài, đọc điểm… mới thấy việc người lớn luôn yêu cầu hay kỳ vọng con cái phải đạt điểm cao là không cần thiết.

Điểm số không nói lên điều gì trong tương lai mỗi người nhưng cách ứng xử của chúng ta với điểm số thì lại tạo ra rất nhiều tiêu cực trong hiện tại. Bởi thế, tôi rất đồng cảm với điều ước ngây thơ của con: “Không phải làm nhiều bài kiểm tra và mỗi lần kiểm tra thì toàn được điểm cao”.

(https://dantri.com.vn/ Bố mẹ tạo áp lực điểm số cho con)

Văn bản 2:

Có những bậc cha mẹ còn xem thành tích học tập như một tiêu chuẩn chủ yếu, thậm chí là duy nhất để đánh giá trẻ. Họ vô cùng nhạy cảm với sự cao – thấp của điểm số. Nếu con được điểm 9, điểm 10 thì vui mừng phấn khởi, lập tức khen ngợi, có khi còn dùng cả tiền để làm phần thưởng. Còn nếu con bị điểm thấp không đúng theo nguyện vọng của mình thì bắt đầu giận dữ, la mắng, quát nạt, đến nỗi con trẻ phải run rẩy lên vì sợ hãi.

Trẻ em rất nhạy cảm, nếu cha mẹ quá quan tâm đến điểm số, chúng sẽ có phản ứng nhạy cảm hơn với điểm số. Nếu cha mẹ còn la mắng, giận dữ sẽ làm tổn thương đến lòng tự trọng của các con, ảnh hưởng tới sự tự tin và lòng nhiệt tình đối với việc học tập của trẻ. Điều này hoàn toàn không có lợi cho việc tự học của con. Cha mẹ cần nắm rõ một nguyên tắc: Động viên trẻ học tập vì kiến thức chứ không phải vì điểm số.

(dkn.vn/Đừng để điểm số tạo thành gánh nặng cho con trẻ!)

Từ 2 văn bản trên, em rút ra được bài học gì cho bản thân. Hãy viết bài văn ngắn (khoảng 1 trăng giấy thi), trình bày suy nghĩ của em về vấn chạy đua thành tích trong học tập của phụ huynh và học sinh ngày nay.


ĐỀ 4

PHẦN I:  ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc hai văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới.

Văn bản 1:

Con trai yêu dấu!

Những lời khuyên để con ghi nhớ này, là kết quả bao kinh nghiệm xương máu, thất bại đắng cay trong cuộc đời mà bản thân cha đã trải nghiệm. Nó sẽ giúp con tiết kiệm nhiều những nhầm lẫn hoang phí trên bước đường trưởng thành của con sau này.

Dưới đây là những điều con nên ghi nhớ trong cuộc đời:

– Gia đình thân nhân chỉ là duyên phận một đời. Bất luận trong kiếp này chúng ta sống chung với nhau được bao lâu và như thế nào, nên trần quý khoảng thời gian sum họp, gia đình đoàn tụ. Kiếp sau, dù ta có thương hay không, cũng không chắc sẽ còn gặp lại

– Tuy có nhiều người thành công trên đường đời mà học hành chẳng đến đâu. Nhưng điều đó củng không có nghĩa là không cần học hành mà vẫn thành công. Kiến thức đạt được do việc học hành, là vũ khí trong tay của mình. Ta có thể lập nên sự nghiệp từ hai bàn tay trắng, nhưng không thể thiếu sự hiểu biết. Nên nhớ kĩ điều này!

– Công việc, cuộc sống đôi lúc sẽ có những khó khăn, trở ngại đòi hỏi con phải luôn nỗ lực. Để có được những thành công thì không thể thiếu sự cố gắng và say mê, con ạ. Hãy nhớ rằng “thành công không phải là một đích đến, đó là một quá trình”. Vì thế, con hãy tiếp tục ước mơ, tiếp tục tin tưởng và không ngừng nỗ lực, con nhé!

(Dựa theo Lá thư dạy con của Tôn Vận Tuyền, Báo Yeutre.vn, ngày 16/9/2014)

Văn bản 2:

“Maliava Sasha thân yêu!

Khi còn trẻ, cha nghĩ cuộc đời tất cả là về bản thân mình – làm cách nào cha có thể tạo dấu ấn được nơi cõi đời này, trở nên thành công và đạt được những gì mình muốn. Thế rồi hai con bước vào cuộc đời cha với tất cả những sự tò mò, láu lỉnh cùng những nụ cười chưa lúc nào thôi làm tràn ngập trái tim cha và làm rạng ngời những tháng ngày đi qua. Bất ngờ cha nhận ra những kế hoạch to tát cha vạch ra cho chính mình không còn quan trọng nữa.

Cha nhanh chóng thấy niềm vui lớn nhất trong đời mình chính là niềm vui cha thấy được ở các con. Cha nhận ra cuộc đời chẳng còn ý nghĩa nếu cha không đảm bảo cho các con có mọi cơ hội để được hạnh phúc và phát huy được hết những gì nơi các con. Cuối cùng, các con à, đó chính là lý do cha chạy đua làm tổng thống: vì những gì cha muốn dành cho các con và mọi đứa trẻ ở đất nước này.

(………………..)

Cha mong cả hai con sẽ gánh nhận trách nhiệm này, hãy sửa những sai lầm mà các con thấy, hãy làm việc để trao cho người khác những cơ hội các con đang có. Hãy làm không phải vì các con có nghĩa vụ phải đáp đền một đất nước đã trao cho gia đình ta rất nhiều, dù thực tế các con có trách nhiệm đó. Mà hãy làm bởi vì các con có trách nhiệm với chính bản thân mình. Bởi vì chỉ khi các con phấn đấu cho một cái gì lớn hơn bản thân mình, các con mới có thể nhận ra hết những gì tiềm tàng thật sự các con đang có”.

(Dựa theo Lá thư gửi con gái của Tổng thống Mĩ Barack Obama, diễn đàn kenhsinhvien.vn, ngày 30/8/2014)

Câu 1 (1.0 điểm): Chỉ ra điểm giống nhau về hình thức và nội dung của hai văn bản trên.
Câu 2 (1.0 điểm): Hai văn bản cho em hiểu thêm điều gì về tình cảm của những người cha dành cho con cái?
Câu 3 (1.0 điểm): Viết đoạn văn ngắn (từ 5-7 dòng), nêu suy nghĩ về ý nghĩa câu nói: “thành công không phải là một đích đến, đó là một quá trình”

PHẦN II: TẬP LÀM VĂN 

Câu 1 (3 điểm)

Bằng trải nghiệm thực tế và lí tưởng sống của mình, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) với chủ đề: Thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa?


ĐỀ 5

PHẦN I: ĐỌC-HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới.

Như chúng ta đã biết, nghề mộc là nghề phổ biến nhất của người An Nam. Bên cạnh việc trang trí các công trình xây dựng và các bức tượng, khả năng đặc biệt của họ còn được thể hiện trong lĩnh vực chế tác đồ gỗ quý.

Trong lĩnh vực này, chuyên ngành quan trọng nhất là sản xuất đồ thờ. Chùa thường có khung cảnh thâm nghiêm và khắc khổ nên cần những đồ gỗ được trang trí cầu kì để tạo nên sức cuốn hút. Đồ đạc chủ yếu trong chùa là các bàn thờ và bàn bày lễ thường có hình dáng khá nặng nề. Các loại gỗ được sử dụng rất đa dạng. Người An Nam có thể lựa chọn giữa những loại gỗ cứng là các loại cây rừng: phổ biến nhất là gỗ hoặc gỗ sao, tương tự như gỗ sồi;gỗ cẩm lai, gỗ mun được sử dụng chủ yếu cho những đồ vật có kích thước nhỏ; gỗ gụ khi được sử dụng theo thời gian sẽ lên nước bóng thẫm rất đẹp; gỗ trắc là một trong những loại gỗ đẹp nhất, rất chắc, khó gia công nhưng gần như không thể hư hại. Quả thật, cần phải tính đến sự phá hoại của côn trùng, nên việc sử dụng những loại gỗ mềm, mặc dù đã có lớp sơn bảo vệ, cũng không phải là không bất tiện. Tuy nhiên, đây lại là những loại gỗ được sử dụng nhiều nhất do chi phí thấp và dễ gia công hơn.

(Trích Nghệ thuật xứ An Nam, Henri Gourdon, NXB Nhã Nam, 2017, Trương Quốc Toàn dịch)

Câu 1 (1.0 điểm). Xác định phương thức biểu đạt của văn bản. Đoạn trích cho em hiểu gì về khó khăn của người thợ mộc khi lựa chọn gỗ để chế tác?
Câu 2 (1.0 điểm). Vận dụng các phương châm hội thoại đã học để giải thích vì sao tác giả lại dùng cụm từ “như chúng ta đã biết” ở đầu văn bản.
Câu 3 (1.0 điểm). Theo em, cần làm gì để bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống trong bối cảnh hiện nay? (Học sinh trả lời trong 3 đến 5 cầu).

PHẦN II: TẬP LÀM VĂN

Câu 1 (3 điểm)

Văn bản 1:

Với thành công hiện tại, một câu nói của Bill Gates được mọi người lan truyền trở thành huyền thoại đó là: “Tôi đã học mọi thứ nhưng chưa bao giờ đứng đầu. Nhưng ngày nay, những người đứng đầu của các trường đại học tốt nhất là nhân viên của tôi”.

Tuy có sự nghiệp lẫy lừng sau khi bỏ học, nhưng theo Bill Gates thì: “Một tấm bằng tốt nghiệp đại học vẫn là con đường chắc chắn và an toàn hơn để dẫn đến thành công”.

Dù chưa bao giờ tốt nghiệp, năm 2007 ông vẫn được Đại học Harvard cấp bằng danh dự. Phát biểu trong một buổi lễ tốt nghiệp của sinh viên, Gates từng chia sẻ: “Tôi là một tấm gương xấu. Đó là lý do vì sao tôi được mời đến đây. Nếu tôi chia sẻ trong buổi định hướng khi các bạn mới vào trường, chắc một số bạn sẽ không ngồi đây”.

Thế mới biết để trở thành một tỷ phú “bỏ học” như Bill Gates, nhà sáng lập Facebook Mark Zuckerberg,… các sinh viên phải có ý chí, sự sáng tạo cùng một bộ óc hơn người, chứ không đơn thuần chỉ có đam mê rồi cứ nghỉ học là sẽ xây dựng được đế chế tầm cỡ như họ.

Văn bản 2:

Một giảng viên tài chính đã trò chuyện với nhiều sinh viên tại một buổi giao lưu.
Sinh viên hỏi:
– Thưa thầy, em muốn được thành công như Bill Gates thì phải làm thế nào?
Giảng viên hỏi lại:
– Em có biết ông ấy thành lập công ty nào không?
– Em biết, đó là Microsoft ạ.
– Vậy em có biết Bill Gates đã học trường nào không?
– Ông ấy từng học Harvard, nhưng đã bỏ học giữa chừng. Cho nên người có năng lực thì không nhất thiết phải học đại học nữa đúng không thầy?”
Giảng viên hỏi tiếp: Vậy em có biết ai là người hợp tác đầu tiên với Bill Gates hay không?
– Dạ…
Giảng viên tiếp:
– Là IBM. Em có biết tại sao IBM hợp tác với một công ty nhỏ bé vừa thành lập hay không? Vì mẹ của Bill Gates là Chủ tịch ủy ban điều hành United Way toàn quốc, người đã trực tiếp giới thiệu con trai với Giám đốc IBM.
Sau khi sinh viên đó ngồi xuống suy ngẫm, một người khác lại đứng lên hỏi giảng viên tiếp:
– Thưa thấy, vậy còn Warren Buffett thì sao ạ?
Giảng viên cười:
– Em có biết tỷ phú Buffett bắt đầu đầu tư chứng khoán từ năm bao nhiêu tuổi không?
– Năm 11 tuổi ạ!
– Đúng thế! Vậy em nghĩ tại sao một đứa trẻ 11 tuổi có thể mua cổ phiếu ở sàn giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ?”
Sinh viên ấp úng:
– Dạ…
Giảng viên mỉm cười:
– Đó là bởi vì cha ông ấy là thượng nghị sĩ Hoa Kỳ!
Thầy giáo nói tiếp:
– Hoàn cảnh của mỗi người mỗi khác, bạn không thể lấy thành quả của người ta để áp đặt lên bản thân mình. Họ được cha mẹ cho mối quan hệ. Kiến thức có thể học dần, nhưng mối quan hệ tốt rất tốn kém mà chưa chắc mua được.

Viết bài văn nghị luận (khoảng 1 trang giấy thi) về bài học rút ra từ ý nghĩa 2 văn bản trên.


ĐỀ 6:

PHẦN I: ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc hai văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới.

Văn bản 1

Mỗi lần ở xa về, việc đầu tiên của những đứa cháu là đến bên ông bà “seo-phi”. Chính xác là sau tiếng chào, đứa nào đứa nấy tranh nhau seo-phi cùng ông bà, rồi tản ra mỗi đứa một góc, ôm chiếc điện thoại, lướt, chỉnh, thỉnh thoảng phá lên cười xem ra thích thú lắm. Chốc chốc, trong bữa ăn, có đứa giơ chiếc điện thoại hiện đại to gấp đôi bàn tay của bà thì thầm: “Ông bà xem này, ai cũng khen ông bà đẹp lão cả”.

Đến đây thì cả ông và bà đều giật mình. Bà hỏi đi hỏi từng đứa rằng đây có phải là hình chụp bà khi nãy không, sao môi bà hồng và da bà láng bóng thế? Sao không thấy vành khăn nhung bà quấn quanh mái tóc, rồi chiếc áo bà ba màu đất nay đâu? Ông gượng cười, giọng thủ thỉ như sợ những đứa cháu giận, rằng đây là diễn viên trên tivi chứ không phải ông lẫn bà.

Lừa nhau. Bà nói bằng giọng giận hờn, rồi lủi thủi vào buồng trong ra tấm hình chụp đại gia đình từ hồi nào, hồi mà những đứa cháu này còn trên tay bồng bế. Bà nói thích như thế này, nhìn nó thật.

Những đứa cháu nhìn nhau lắc đầu, chúng thầm thì có khi ông bà lẫn thật, rồi chúi mắt vào điện thoại. Cứ thế, chuyến về thăm ông bà khiến những đứa cháu ở phố ở hai ba ngày là than chán. Chúng quẩn quanh điện thoại, chẳng đứa nào đến cạnh ông, cạnh bà líu lo như ngày còn bé xíu.

(Theo Cách một màn hình, Đức Lộc, Báo Người lao động, 31/5/2018)

Văn bản 2

Tôi là người nhập cư, tôi hiểu, chúng tôi sống trên đất này nên tôi buộc phải gửi con cái tôi đi học ở trường Pháp, học sử dân tộc Gaulois, học Tướng de Gaulle, nhưng về nhà, chúng phải nói ngôn ngữ của chúng tôi, chúng nghe mẹ chúng, chúng ngồi trên đùi tôi khi tôi đi họp hội đồng hương, để chúng không quên nguồn gốc. Đánh mất xuất xứ là mất tất cả cô à. Vậy mà giờ hễ động tới cái gì ở quê hương là con cái tôi bĩu môi dè bỉu, chúng nghĩ đó là quê mùa, chúng nghĩ những người ở đó là mọi rợ. Mỗi lần tôi mở một đĩa nhạc truyền thống là chúng kêu ầm Chúng thì biết gì về âm nhạc cơ chứ? Chúng đâu hiểu rằng những bài hát đó giữ cho tôi không rời xa quê hương dù tôi sống ở xứ khác. Chúng chê tôi lạc hậu, phải nghe nhạc này nhạc kia mới là mốt, là văn minh. Tôi đâu có như chúng, chỉ chăm chăm xem cái gì hợp thời. Cô à, người trẻ như cô chỉ muốn nghe những bài nhạc mới, tìm đến các bảng xếp hạng, tâm niệm rằng bằng cách đó chắc chắn cô sẽ tìm ra ngay lập tức những bài nhạc hay nhất. Cô không tốn thời gian đi bới móc lục tìm trong những thứ không được xếp hạng, những thứ bị lãng quên. Cô và các con tôi muốn có câu trả lời trước khi tự mình tìm hiểu.

(Trích 5 múi giờ, 10 tiếng bay và một cái khép mi, Nguyễn Mai Chi, NXB Hà Nội, 2016)

Câu 1 (1.0 điểm). Văn bản 1 đề cập tới hiện tượng nào đang phổ biến ở giới trẻ? Điểm gặp gỡ về nội dung của hai văn bản trên là gì?
Câu 2 (1.0 điểm). Chỉ ra 1 câu văn sử dụng cách dẫn gián tiếp trong văn bản 1, sau đó hãy chuyển thành cách dẫn trực tiếp.
Câu 3 (1.0 điểm). Theo em, thông điệp mà các tác giả gửi gắm đến thế hệ trẻ trong hai văn bản trên là gì? (HS trả lời trong 3 đến 5 câu).

PHẦN II: LÀM VĂN

Câu 1 (3 điểm).

Bức tranh bên dưới minh hoạ cho một quan điểm về sách và điện thoại di động: sách mang đến cả biển kiến thức vô bờ trong khi điện thoại di động trói chân con người vào những thú vui nhỏ bé.

Em có đồng ý với quan điểm trên hay không? Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) để bày tỏ ý kiến của mình.

sach-va-dien-thoai


ĐỀ 7

PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

“Chim nhạn (một loài chim sống ở biển) được coi là nhà lữ hành xuất sắc trong không trung. Mùa xuân nó xếp thành hình chữ “nhất” hoặc chữ “nhân” bay từ phương Nam tới phương Bắc; mùa thu, cũng với đội hình như vậy nó bay trở lại phương Nam. Mỗi hành trình kéo dài từ một tới hai tháng, năm nào cũng lặp như vậy. Trong hành trình, bầy chim nhạn có kỷ luật rất nghiêm ngặt, chúng thường xếp thành hình chữ “nhân” hoặc hình chữ “nhất”, vừa bay vừa phát ra tiếng kêu “cạc cạc”. Tiếng kêu này có tác dụng như hiệu để quan tâm lẫn nhau, kêu gọi, cất cánh hay dừng chân.

Vậy chim nhạn xếp thành hình chữ “nhất” và hình chữ “nhân ”để làm gì? Thì ra, đội hình này giúp tiết kiệm sức lực, con chim đầu đàn khi vỗ cánh sẽ tạo ra một luồng khí di chuyển lên trên, con phía sau bám sát có thế lợi dụng dòng khí này để bay nhanh hơn bay đỡ mất sức. Cứ như vậy con sau theo sát con trước, bầy chim nhạn tự nhiên mà xếp thành đội hình như vậy.

Ngoài ra, hình chữ “nhất” hay hình chữ “nhân” mà chim nhạn xếp còn là một biểu hiện bản năng của tập tính bầy đàn, điều này giúp chúng phòng tránh nguy hiểm. Con chim có kinh nghiệm trong đàn nhất thường được bầu làm “đội trưởng”, bay đầu tiên, nhưng do “đầu đàn” không thể dụng được luồng khí nào để di chuyến lên nên rất dễ bị kiệt sức. Vậy trong hành trình di chuyển tương đối dài, đàn nhạn sẽ luân phiên thay đổi vị trí cho nhau, kể cả trí “đầu đàn”. Chim non hay những con có thể trạng yếu thường được sắp xếp vào giữa đội hình. Khi nghỉ ngơi bên dòng nước, tìm kiếm thức ăn, sẽ có một con nhạn dày dạn kinh nghiệm canh gác cho đàn.

(Theo “Bách khoa toàn thư”, Tủ sách thức phổ thông, trang 168, NXB Hồng Đức)

Câu 1 (1 điểm): Chỉ ra một phép liên kết và một thành phần biệt lập có trong văn bản trên.
Câu 2 (1 điểm): Nêu nội dung chính của văn bản trên và đặt nhan đề cho văn bản.
Câu 3 (1 điểm): Từ nội dung của văn bản, em liên tưởng đến những phẩm chất gì mà con người cần học tập ở loài chim nhạn ? Hãy nêu suy nghĩ về phẩm chất đó bằng một đoạn văn từ 5 đến 7 câu.


Đề 8

PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

“Newton từ nhỏ đã là một cậu bé ham suy nghĩ, khám phá. Vào một buổi chiều tối, đang nằm dưới cây táo trĩu quả chín trong vườn nhà, bỗng nhiên, một cơn gió thổi qua làm rụng một quả táo xuống người Newton. Trong đầu Newton lúc đó vụt qua một ỷ nghĩ: Tại sao quả tảo không hướng lên mà rụng xuống? Điều gì đã thu hút nó? Năm 1687, Newton đã phát biếu về định luật vạn vật hấp dẫn, giải thích giữa các thế có tác dụng hấp dẫn lẫn nhau.

Lực vạn vật hấp dẫn nghe có vẻ xa đối với cuộc sống chúng ta, nhưng thực ra nó tồn tại ngay bên cạnh con người. Có vạn vật hấp dẫn nên chúng ta mới có môi trường sống ổn định. Không có vạn vật hấp dẫn thì Trái Đất không có tầng khí quyến, không có gió thổi, không có mưa rơi, con người không thế tồn tại…Và nếu như không có lực hấp dẫn, tất cả những cá thế trên Trái Đất sẽ đều chuyến động tâm. Như vậy, Trái Đất sẽ động tan rã ”.

(Theo Phi Lan Hội, Khám phá khoa học Vật, Hoàng Lan Linh dịch, Nxb Bách khoa Hà Nội, 2017)

Câu 1 (1.0 điểm): Hiện tượng vật lý nào được nói đến trong văn bản trên? Hiện tượng vật lý đó có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong đời sống con người?
Câu 2 (1.0 điểm): Xác định phương thức biểu đạt của văn bản. Tìm một phép liên kết có trong văn bản.
Câu 3 (1.0 điểm) Từ câu kết của đoạn văn: “Và nếu như không có lực hấp dẫn, tấ cả những cá thế trên Trái Đất sẽ đều chuyến động tâm. Như vậy, Trái Đất sẽ động tan rã ”, em có liên tưởng gì đến sự gắn kết giữa con người trong đời sống? Điều gì sẽ xảy ra nếu mỗi cá nhân trong cộng đồng “chuyển động li tâm”? Hãy trả lời câu hỏi trên bằng một đoạn văn (khoảng 5-7 câu).

PHẦN 2: LÀM VĂN

Câu 1 : (3 điểm)

Văn bản 1:

“Bằng một sự kiêu căng hồn nhiên hay vô tâm bất cần, họ vứt lại giày rách, khẩu trang bẩn, vừa đi vừa hát như cắm trại, tay đeo găng, đầu đội nón bảo hiểm, áo quần son phấn kool ngầu trẻ đẹp. Và đó là một chuyến thăm chùa – nơi có nhiều tu sĩ tập luyện ngồi thiền và đọc kinh nhiều giờ mỗi ngày.

Họ bước vào nơi không phải nhà mình, nhổ nước bọt xuống và trở về nhà với những tấm ảnh đẹp rực rỡ… như người văn minh ích kỷ và trịch thượng.“.

(Theo https://news.zing.vn/cong-troi-that-thu-post717381 .html)

Văn bản 2:

Toàn cầu hóa như một cơn lốc mạnh. Mặc dầu đã có sự chuẩn bị, song chúng ta chưa lường hết được tác động phức tạp của quá trình đó, vì vậy, văn hóa của chúng ta đang chịu những sức ép, sự va đập mạnh và sâu, đang đứng trước những thử thách gay gắt chưa từng có.

Nhận thức sâu sắc đặc điểm, thách thức và quy luật đó của quá trình toàn cầu hóa, cần phải khẳng định rằng, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa, trước những thách thức và tác động phức tạp của mặt trái toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa, chúng ta sẵn sàng và chủ động mở cửa, hội nhập, hòa mình vào xu thế chung của thế giới hiện đại, đồng thời đứng vững trên những nguyên tắc quan trọng, làm cơ sở cho việc tranh thủ thời cơ, vượt qua trở ngại, thách thức và tự lực, chủ động xây dựng văn hóa dân tộc bằng sức mạnh, bản lĩnh, cốt cách của chính dân tộc ta.

Từ ý nghĩa 2 văn bản trên, trình bày suy nghĩ của em về vấn đề trách nhiệm xây dựng hình ảnh con người Việt nam trong thời kì hội nhập của giới trẻ ngày nay.


ĐỀ 9

PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Chúng ta hoàn toàn có thể trở thành nạn nhân của cái gọi là “văn hóa sỉ nhục online” (online culture  of humiliation) hay theo ngôn ngữ thượng là “ném đá”… Chắc chắn bạn sẽ không thấy xa lạ gì về điều này khi mà cần vào facebook là có thể nhìn thấy một vụ đá nào đó. Điều càng nguy hiểm hơn là có những người “ném đá” vô vạ bất kể nạn nhân thật phạm lỗi hay không.

Việc “sỉ nhục” nhau trên mạng xã hội này nếu không có cách ngăn chặn sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí đối bằng sinh mạng của các nạn nhân. Tàn nhẫn với người khác chẳng có chuyện gì mới, nhưng ở trên mạng, sự sỉ nhục gây ra bởi công nghệ đã được khuyếch đại hơn, bị phơi bày, bị lưu lại vĩnh viên. Thật là khó lường, đừng nên share bất cứ cái gì mà mình chưa xác tín là có thật và không gây hại cho ai khác.. Khi càng có nhiều người dùng có trách nhiệm, mạng internet mới càng có thể đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho xã hội.

(Theo Phạm Hồng Phước, Sỉ nhục online, https://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/si-nhuc-online-3225312.html ngày 1/6/2015)

Câu 1 (1.0 điểm): Chỉ ra một thành phần biệt lập và một phép liên kết được sử dụng trong đoạn văn.
Câu 2 (1.0 điểm): Nêu phương thức biểu đạt và nội dung của phần trích trên.
Câu 3 (1.0 điểm): Trong đoạn văn, người viết nhắc nhở: “Thật là khó lường, đừng nên share bất cứ cái gì mà mình chưa xác tín là có thật và không gây hại cho ai khác”. Hãy nêu ý kiến của em về điều này bằng vài câu ngắn gọn.

PHẦN 2: LÀM VĂN

Câu 1 : (3 điểm)

Văn bản Bức thư của thủ lĩnh da đỏ khép lại là lời của thủ lĩnh Xi-at-tơn nói với Tổng thống thứ 14 của nước Mĩ Phreng-klin Pi-ơ-xơ: “Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất đ là xảy ra đổi những đứa con của Đất. Con người chưa biết làm to đế sống, con người giản đơn một sợi tơ trong cái tổ sổng đó mà thôi.Điều gì con người làm cho tô sống đỏ, tức làm cho chính mình(Theo Ngữ văn 6, tập hai, Nxb Giáo dục, 2004)

Em có suy nghĩ gì về hiện tượng trên, hãy trình bày bằng một bài văn nghị luận ngắn (khoảng 1 trang giấy thi).


ĐỀ 10

PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Văn bản 1:

Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.

Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hoà về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thoả mãn cho yêu cầu của đời sống văn hoá nước nhà qua các thời kì lịch sử.

(Sự giàu đẹp của tiếng Việt – Đặng Thai Mai)

Văn bản 2:

Không thể đổ lỗi cho quá trình hội nhập quốc tế hay sự phát triển công nghệ thông tin. Trước đây, khi nền văn hóa phương Tây ồ ạt xâm nhập vào nước ta thông qua các nhà truyền giáo, người Pháp hay người Mỹ, có làm cho ngôn ngữ giao tiếp nước ta thay đổi nhưng theo chiều hướng tích cực. Nó bổ sung vào hệ thống từ vựng và làm trong sáng thêm Tiếng Việt dựa trên các nguyên tắc chuẩn mực. Còn ngày nay, với ý thức sử dụng ngôn ngữ tùy tiện, cẩu thả, thiếu trách nhiệm của sinh viên làm cho ngôn ngữ giao tiếp bị xáo trộn, tối nghĩa, thậm chí còn dung tục.

Có thể đưa ra một vài minh chứng rõ ràng về hiện tượng này. Thay vì nói “đồng ý” sinh viên lại dùng “ok”, “tình yêu” thành “tềnh iu”, biến đơn vị ngàn trong tiền tệ thành “k”. Chê bai ai thì gọi là “cùi bắp”, “cục gạch”, “sến”. Lại còn lối bắt chước thành ngữ tạo nên những cụm từ vô nghĩa như: “chán như con gián”, “ghét như con bọ chét”, “nhỏ như con thỏ”, “xinh như yêu tinh” Hay lối chơi chữ dung tục, khiếm nhã như: “tốc độ bàn thờ” (tốc độ chết người), “báo lá cải” (tờ báo tự phát), “tin vịt” (không đáng tin cậy), “óc chó” (ngu ngốc), “hại não” (khó hiểu), “thiếu muối” (ngu dốt),

Lại còn có kiểu ghép từ nửa tây nửa ta hết sức khập khiễng: “Ugly tiger” (xấu hổ), “bye nhé” (tạm biệt), “4U” (For you là cho bạn), “2NT” (Tonight tối nay), “G92U” (Good night to you). “y2k” (thế hệ năm 2000) …

Không những thế, sinh viên ngày nay còn nảy sinh lối viết tắt hết sức buồn cười: “dzạy là zui ròi đó”, “bjo mk di dau”, “vk ck vs nhau ko nen to tieng”, “m wen no tu bjo”

Câu 1 (1.0 điểm): Theo văn bản 1, những bằng chứng nào chứng tỏ tiếng Việt ta là một thứ tiếng giàu và đẹp.
Câu 2 (1.0 điểm): Chỉ ra một phép liên kết và một thành phần biệt lập có trong văn bản 2.
Câu 3 (1.0 điểm): Trình bày trách nhiệm của bản thân đối với việc sử dụng tiếng Việt hiện nay.

PHẦN 2: LÀM VĂN

Câu 1 (3 điểm)Hãy viết bài văn nghị luận bàn về ý nghĩa của 2 bức tranh bên dưới.

du-dinh-va-thuc-te

Hình: Giữa dự định và thực tế khác nhau rất xa. Hãy chuẩn bị tinh thần vững chắc để đương đầu với mọi khó khăn”


Đề 11:

PHẦN 1: ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

“Sính ngoại” đang là hiện tượng tâm lý tiêu cực, được thể hiện ở tất cả các khía cạnh từ nhận thức, tư duy và hành động, có tốc độ lan truyền mạnh mẽ trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. Sự ham thích, lạm dụng thái quá các sản phẩm vật chất, tinh thần ngoại nhập đã, đang và sẽ tiếp tục hình thành, cổ vũ cho nhận thức, lối sống cho rằng “cái gì của ta cũng dở, cũng kém và cái gì ngoại nhập cũng hay, cũng tốt hơn”.

Chẳng cần phân tích cũng thấy sính ngoại đang dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực. Ở góc độ tinh thần, văn hóa xã hội, nó tác động làm ảnh hưởng, thậm chí phá vỡ các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc những “báu vật” hơn bao giờ hết đang rất cần bảo tồn, gìn giữ, phát huy. Ở góc độ kinh tế, nó tác động tiêu cực, kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời cũng gây ra nhiều điều không mong muốn khác.

Sính ngoại tạo điều kiện cho sự thâm nhập, chiếm lĩnh của các giá trị nước ngoài vào trong nước, làm suy giảm các giá trị Việt, nảy sinh những rào cản đối với nỗ lực xây dựng và phát triển đất nước. Mỗi sản phẩm do người Việt tạo ra đều mang trong đó mồ hôi, công sức, trí tuệ, tâm huyết. Sính ngoại đã “vô tình” ngăn trở những nỗ lực, cố gắng, khát khao, cống hiến, phát triển của cộng đồng các doanh nghiệp trong nước.

Câu 1 (1.0 điểm): Nêu phương thức biểu đạt của văn bản. Văn bản trên đề cập đến vấn đề gì?
Câu 2 (1.0 điểm): Hãy nêu 3 tác hại do tâm lí “sính ngoại” gây ra.
Câu 3 (1.0 điểm): Bản thân em cần làm gì để góp phần giũ gìn, phát hay và nâng cao các giá trị truyền thống của dân tộc? (HS viết đoạn văn từ 5-7 dòng).

PHẦN 2: LÀM VĂN

Câu 1 (3 điểm): Viết bài văn nghị luận bàn về thông điệp từ bức tranh bên dưới.

no-luc-va-thât-vong

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang