buc-tranh-ho-huyen-va-hinh-anh-con-nguoi-hat-hiu

Cảm nhận bức tranh phố huyện nghèo và hình ảnh con người hắt hiu qua cảm nhận của nhân vật Liên

Cảm nhận bức tranh phố huyện nghèo và hình ảnh con người hát hiu qua cảm nhận của nhân vật Liên.

1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn.

a. Bức tranh thiên nhiên.

– Âm thanh đơn điệu: Tiếng muối vo ve, tiếng ếch nhái, tiếng trống thu không tĩnh vắng, u buồn.

– Hình ảnh màu sắc gay gắt: đỏ rực ánh hồng. Dấu hiệu của sự tàn lụi.

So sánh:

+ Bức tranh thiên nhiên hiu quạnh trước lầu Ngưng Bích: “Bốn bề bát ngát xa trông; Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” (Truyện kiều – Nguyễn Du). Thúy Kiều cô đơn, chỉ có cát không có dấu hiệu của con người.

+ Bức tranh thiên nhiên hoang vắng, tiêu điều: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” (tràng giang – Huy Cận). Mong muốn tìm hơi ấm của con người nhưng chỉ thấy bờ bãi.

– Đường nét ảm đạm: “Dãy tre làng …”.

* Nghệ thuật:

– Sử dụng nhịp thơ chậm rãi, giàu tính nhạc, hình ảnh. Cộng hưởng tạo nên nét êm dịu.

– Nét vẽ giản dị, chân thực à Lột tả được thần và hồn về miền quê.

Bức tranh thiên nhiên lúc chiều tàn đẹp thơ mộng, yên ả, thanh bình nhưng đồng thời có gì đó u buồn, êm ả. Cảm nhận bằng thính giác, thị giác.

b. Bức tranh sinh hoạt:

* Cảnh chợ tàn:

– Âm thanh: Tiếng ồn ào, âm thanh tắt dần, trả lại sự yên tĩnh vốn có cho phố huyện. ( Liên hệ âm thanh tan chợ: “Hàng quán người về nghe xáo xác” Chợ đồng – Nguyễn Khuyến)

So sánh: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” (Tràng Giang  Huy Cận ) hiện lên thật buồn, khắc khoải, làm cho không gian vắng vẻ.

– Hình ảnh: “ Một vài người bán hàng về muộn” ở lại dọn hàng, trò chuyện; “ Của những đứa trẻ con nhặt thanh tre”.

Hình ảnh phố huyện tàn tạ, u buồn, nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều sau khi tan chợ.

– Mùi vị “Âm ẩm bốc lên” “ Hơi ấm trộn với cát bụi”: Nồng đậm, không hề dễ chịu. Đối với Liên đã trở nên quen thuộc.

* Hình ảnh kiếp người tàn:

– Hình ảnh đứa trẻ “Cúi lom khom dưới mặt đất”: Thương tâm, tuổi thơ không được vui đùa.

– Mẹ con chị Tí “ Ban ngày mò cua, đêm bán nước cho người quen”: Thế nhưng thu nhập của chị chẳng kiếm được bao nhiêu, kiếp đời la lắt, không tương lai, ánh sáng của chị.

– Bà cụ Thi “Hơi điên, nghiện rượu”: Tiếng cười ám ảnh, nổi đau bật lên bằng tiếng cười, tiếng cười như báo hiệu tương lai của người dân phố huyện sẽ vơi đi một nửa.

– Chị em Liên sống mưu sinh, bán cửa hàng tạp hóa à Tuổi thơ bất hạnh, cơ cực không được như những đứa trẻ khác, mất đi tuổi thơ tươi đẹp vốn có.

– Mẹ Liên: trụ cột gia đình, nuôi cho chị em Liên sinh sống.

→ Cuộc sống cơ cực quẩn quanh, tăm tối những vẫn hi vọng chờ đợi, hi vọng.

c. Bức tranh tâm hồn nhân vật Liên:

– Tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong thời khắc chiều tàn. Điều đó thể hinwj qua sự cảm nhận của Liên về đất và tình yêu của Liên dành cho đất hết sức thân thuộc. Cảnh vật dịu êm khiến cho Liên cảm nhận nỗi buồn cân xứng nhịp nhàng, hài hòa, êm dịu, ngây thơ, man mác.

–  Nhân hậu, thương yêu: Hỏi han chị Tí. Nhìn mấy đứa trẻ con nhà nghèo. Rót đầy rượu cho bà cụ.

2. Bức tranh phố huyện lúc đêm xuống.

* Khung cảnh phố huyện.

– Được tái hiện bằng hai mảng màu đối lập tương phản.

*  Bóng tối: “Đường phố và các … Bóng tối”. Chứa đầy bóng tối. Bao trùm Tối hết cả – Sẩm đen               bóng tối → Bóng tối hiện diện ở khắp nơi, mỗi lúc.

* Ánh sáng:

– Phát ra từ nhiều nguồn khác nhau: Ánh sáng của đèn ( cửa chỉ để hé ra …; Quầng sáng thân mật… Chị Tí; Giờ chỉ còn … lỏm qua phen nứa). Nguồn sáng của bếp lửa (cái bếp lửa … đất cát). Ánh sáng nhạt nhoà. Nguồn sáng sao trời và đom đốm (vòm trời … đom đóm; qua kẽ lá của cành bàng… nhấp nháy) à chân thực.

– Ánh sáng hiện ra với nhiều sắc độ và hình thù: khe sáng, quầng sáng, chấm sáng; hột sáng, vệt sáng, vùng sáng.

– Điểm chung: ánh sáng len lỏi, yếu ớt, mong manh >< bóng tối bao trùm, dày đặc. Ánh sáng không đủ sức xua tan màn đêm, bị bóng đêm nuốt chửng.

– Ý nghĩa biểu tượng: Ánh sáng tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh ở phố huyện bị bóng tối nuốt chửng. Bóng tối là biểu tượng cho màng đêm mênh mông của xã hội cũ, năm trước cách mạng thời kì thực dân phong kiến, mang nhiều hệ lụy cho người dân Việt Nam.

* Hình ảnh con người.

– Cảnh sống cơ cực, nghèo nàn:

+ Bác xẩm: “góp chuyện … rác bẩn” ở phố huyện nghèo, nhu cầu vật chất chưa được thỏa mãn nói gì đến nhu cầu tinh thần, món hàng xa xỉ.

+ Chị Tí: “phe phẩy … thức hàng”. Hàng vắng khách, ế khách, trông chờ mong đợi vẩn vơ.

+ Bác Siêu: Niềm mơ ước khó thành của người dân phố huyện, thức hàng rất xa xỉ, ế khách.

+ Chị em Liên: Sợ trái lời mẹ dặn, không dám hòa vào đám đông, chuyển hướng nhìn dáng người thiểu não (“Đêm tối đối với Liên quen lắm…”. Liên đã từng rất sợ bởi vì Hà Nội là thế giới hào quang ánh sáng, mà ở nơi đây bóng tối bao trùm khắp nơi đi kèm với nghèo nàn (Nhân vật cô Mị “ Ở lâu trong cái khổ mình đã quen với cái khổ” – Vợ chồng A Phủ.).

– Ước mơ đổi đời: “Chừng ấy người … của họ”. Sự mơ hồ, chính họ cũng không biết họ mơ hồ. Ước mơ đổi đời, mong ước những điều tươi sáng hơn. Điều đó thể hiện ở họ còn biết ước mơ vươn tới những điều tốt đẹp đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng, thương cảm của nhà văn đối với những cuộc đời hắt hiu, lầm lụi.

* Bức tranh tâm hồn nhân vật Liên.

– Những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh. Thời khắc bóng đêm dần buông xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời với ngàn sao lấp lánh, Nhìn sao tưởng tượng ra sông Ngân Hà, tưởng tượng ra hai con vịt. Thế giới cổ tích thời xa xưa ùa về, thế giới tuổi thơ trong trẻo, thế giới thần tiên.

– Cảm nhận tinh tế. Liên bắt nhảy với những chuyển biến tinh vi trong cuộc sống đời thường hàng ngày, Liên cảm nhận thấy những nguồn sáng của đom đốm , nguồn sáng khác nhau à Tinh tế nhạy cảm.

– Ước mơ đổi đời: Hướng về nguồn sáng bởi vì thế giới phố huyện tăm tối, mờ mịt bế tắc, khao khát ánh sáng cuộc đời tươi đẹp. Liên đi tìm nguồn sáng để xua tan bóng tối, nguồn sáng mong manh, yếu ớt. Hà Nội là thế giới thần tiên ánh sáng thực sự rực rỡ, âm thanh náo nhiệt, vui tươi. Ánh sáng của hoài niệm không hiện hữu. Liên tìm ở đoàn tàu, mang theo ánh sáng thỏa mãn, ánh sáng thèm thuồng, mê say à Khao khát đổi đời thoát khỏi cuộc sống tăm tối lẩn quanh bế tắc của thực tại.

* Tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam:

– Sự thương cảm với những kiếp người ở phố huyện.

– Trân trọng ước mơ thay đổi của người dân, của Liên.

– Kín đáo thể hiện ước mơ thay đổi cuộc sống cho người dân.

3.  Bức tranh phố huyện lúc đoàn tàu đến và đi qua.

* Hình ảnh chuyến tàu đêm.

– Nguyên nhân dẫn đến cảnh đợi tàu:

+ Vì cuộc sống của người dân phố huyện và chị em Liên nghèo nàn, đơn điệu, buồn tẻ.

+ Vì đoàn tàu khơi dậy những kỉ niệm đẹp đẽ, trong sáng của chị em Liên. Đoàn tàu đem đến kí ức về một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ, huyên náo.

+ Vì hai chị em muốn nhìn chuyến tàu. Đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Trong con mắt trẻ thơ, đoàn tàu không chỉ là hoạt động chạy đến, chạy đi mà là một thế giới khác, thế giới của ước mơ, khát vọng về một tương lai tươi sáng, ý nghĩa hơn.

– Xuất hiện qua những dấu hiệu đầu tiên:

+ Tiếng reo đèn ghi, ngọn đèn của người gác. Tiếp đến là tiếng còi xe lửa kéo dài theo ngọn gió và làn khói bừng sáng ở đằng xa.

–  Sự xuất hiện:

+ Âm thanh: Tiếng dồn dập rít mạnh vào ghi à to à rộn rã. Tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Tiếng còi rít lên. à Âm thanh thực sự rộn rã náo nhiệt ><phố huyện không âm thanh, tĩnh vắng à đáng quý.

+ Sự chuyển động: Đoàn xe vượt qua, tàu rầm rộ đi tới à Mạnh mẽ nhanh chóng >< Nhịp sống ngưng đọng ở phố huyện.

+ Ánh sáng: Sáng trưng soi ánh cả xuống đường, cửa kính sáng rực lên chói lóa gắn liền với sang trọng à say mê đắm đuối à thế giới mong muốn.

– Đoàn tàu đi qua:

+ Đốm than đỏ bay tung trên đường sắt lẫn vào bóng đêm. Chấm nhỏ của chiếc đèn xanh à Nhìn theo đắm đuối sau khi tàu khuất sau rặng tre (Liên tưởng câu thơ của Lý Bạch: “ Cô phàm viễn ảnh bích không tận”). Lặng theo mơ tưởng: Mơ tưởng về Hà Nội. Sự cảm nhận về bối cảnh xã hội đương thời, cuộc sống ngày càng khó khăn, mang thế giới hoài niệm, cháy bỏng ước mơ.

→ Trong sự so sánh tương phản, ánh sáng đoàn tàu như sao băng><vầng sáng ngọn đèn của chị Tý, ngọn lửa của bác Siêu, đêm tối hiện diện khắp mọi nơi. + Sự chuyển động náo nhiệt rộn rã của tàu >< trả lại đồng ruộng mênh mang yên lặng, đêm khuya tiếng chó sủa, tiếng trống cầm canh, âm thanh ảo não. + Sự đông đúc sang trọng của tàu >< vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu, tiêu điều, thảm hại, vắng tanh. Bóng tối ngập tràn vào giấc ngủ yên tĩnh, bóng tối, nỗi buồn.

* Ý nghĩa của chuyến tàu:

– Chứng kiến sự hoạt động cuối cùng của đêm.

– Chuyến tàu là hình ảnh của quá khứ Hà Nội, nó mang hình ảnh của Hà Nội, sống trong hạnh phúc chốc lát à Đánh thức hạnh phúc.

– Biểu tượng thế giới hai đứa trẻ khao khát hạnh phúc, về một thế giới hạnh phúc hơn: sự giàu sang, ánh sáng rực rỡ,…

4. Giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc.

– Sự xót thương cho đứa trẻ, người dân sống trong bóng tối.

– Trân trọng ước mơ đổi đời.

– Thông điệp: Nhắc nhở mọi người chúng ta nên vượt qua sự vô vị tẻ nhạt, áo đời phẳng lặng để hướng đến sự đẹp đẽ, tuyên ngôn nghệ thuật về một đời, cứu lấy những đứa trẻ đừng để chúng nó phải đợi tàu để tìm cuộc sống đáng sống hơn.

→ Qua chi tiết đợi tàu của chị em Liên, nhà văn gửi gắm thông điệp về tình người và tình đời: Hãy biết nâng niu, trân trọng những ước mơ nhỏ bé của tuổi thơ, hãy hướng về cuộc sống ý nghĩa hơn, hãy đốt mình lên như Xuân Diệu: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.

* Nhận xét:

Cái tài của Thạch Lam là ở chỗ : thật dung dị, thật nhẹ nhàng, chỉ bằng vài trang văn xuôi giàu chất thơ mà đưa được người đọc về một thế giới của một cuộc sống tối tăm, buồn tẻ, đáng thương… đáng thương nhất là hai đứa trẻ. Vì lẽ ấy, tác phẩm là một lời kêu cứu : Hãy cún lấy cuộc sống của những con người như Liên và An, hãy tìm cách cải tạo sự tẻ nhạt của những “ao đời” tù đọng…

Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học. Mặc dù in ra ít, sách Thạch Lam có đánh dấu lại được cái tâm hồn súc tích, rộng rãi và tiến bộ của một nhà văn xuôi chân chính…

Phân tích hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.


Tham khảo:

Cảm nhận bức tranh phố huyện nghèo và hình ảnh con người hát hiu qua cảm nhận của nhân vật Liên.

  • Mở bài:

Khác với các nhà văn đương thời cố đi tìm những điều mới mẻ hoặc lớn lao, khác thường, Thạch Lam một mình lặng lẽ tìm về với những giá trị nguyên sơ vốn bị chìm khuất trong cuộc đời tàn lụi. Ông cũng không cố công kết cấu những câu chuyện hoàn chỉnh, bởi với Thạch Lam, cuộc đời chưa bao giờ là hoàn chỉnh. Truyện của ông thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Phong cách ấy thể hiện rõ nét trong tác phẩm Hai đứa trẻ. Bức tranh phố huyện u buồn, cô tịch và hình ảnh con người hiu hắt, mòn mỏi được gợi lên thật cảm động qua cái nhìn của nhân vật Liên.

  • Thân bài:

Thạch Lam thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh nhưng rất tinh tế. Ông rất chậm rãi và nhẹ nhàng đi vào thế giới nội tâm sâu thẳm của nhân vật như sợ gây ra tiếng động làm đổ vỡ thế giới ấy. Ông chắt chiu từng chút một, đứng ngắm nhìn thật lâu một trạng thái, một chuyển biến cho đến khi nó dứt hẳn mới thôi. Bởi thế, đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các giác quan, chứ ít khi có thể tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt chuyện.

Hai đứa trẻ có kết cấu thật đơn giản. Đơn giản ở chi tiết và kết cấu nhưng lại phức tạp ở chiều sâu suy nghĩ. Truyện chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Ai có tâm hồn hời hợt hẳn sẽ không thích cái kiểu kể chuyện lòng vòng, nhạt nhẽo ấy. Thế nhưng, tác phẩm đã gây được sự chú ý và làm rung động biết bao tâm hồn. Điểm cốt yếu đó là, Thạch Lam đã khéo léo nắm bắt tâm hồn người đọc ngay khi họ mới chạm bước chân đầu tiên vào thế giới trong truyện.

Dưới ngòi bút Thạch Lam, Hai đứa trẻ không hề nhạt nhẽo, trái lại rất ám ảnh, thấm thía, đầy dư vị với cảm xúc buồn thương và giọng thủ thỉ trầm lắng, thiết tha.

Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh buổi chiều tàn nơi phố huyện sinh động như một bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất thi vị. Buổi chiều không tàn đi vô nghĩa mà động lại trong từng chữ, từng câu, bám chặt lấy mặt đấy, dẫn bước con người vào thế giới thanh bình của cảnh vật. Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị, đưa độc giả trở về khung cảnh êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời cơ cực, tăm tối.

Sức dồn nén của một tác phẩm truyện ngắn là ở những chi tiết nghệ thuật đầy sức nặng. Thạch Lam lại làm một cuộc đảo ngược đầy thú vị. Ông lặng lẽ tìm tòi trong ngổn ngang chất liệu mà người ta không màn để tâm đến. Nhà văn ấy đã lặng lẽ mỉm cười khi phát hiện ra những hạt bụi vàng trong ngổn ngang đất đá. Hai đứa trẻ không có những tình tiết ly kỳ, gây cấn nhưng ít có những người dám cam đoan thấy tâm hồn nhẹ tênh, vô hồn, không cảm xúc khi một lần bước qua thế của cái phố huyện nghèo và lặng lẽ ấy.

Hai đứa trẻ trong truyện ngắn của một ngày từ chiều tàn tới đêm khuya. Khung cảnh của câu chuyện chỉ vận động qua ba mảng màu sáng – tối: chiều tàn – chợ tan – đêm tối.  Ấy vậy nó vẫn để lại trong lòng độc giả biết bao thế hệ những ám ảnh đến lạ lùng. Như thế, sức hấp dẫn của thiêng truyện này đâu phải được tạo ra từ những chi tiết nghệ thuật ly kỳ, lôi cuốn. Cái hấp lực vô cùng mạnh mẽ trong Hai đứa trẻ hóa ra lại thoát ra từ chính hơi ấm của tình người lan tỏa trong truyện.

Ai có thể cầm lòng không cảm xúc khi đọc những dòng văn như thế: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran từ ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn Buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.

Hóa ra, tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiêu tàn nơi phố huyện cũng chính là của chúng ta trước khoảnh khắc sự sống ban ngày bắt đầu tàn lụi, ánh sáng nhường chỗ cho bóng tối, chia ly nhường chỗ cho sum họp, tha hương nhường chỗ cho trở về..  Văn chương giúp níu giữ trong ta những xúc cảm của tình người; giúp Đánh thức phần sâu thẳm của tâm hồn mà bấy lâu ta không thể thốt lên. Hai đứa trẻ dù không có cốt truyện hấp dẫn nhưng vẫn đủ sức thu hút người đọc là bởi nó giúp níu giữ và đánh thức những phần hồn như thế.

Như một vị khách bộ hành bền bỉ kiếm tiềm, gom nhặt và kế nối thành những vần thơ từ cuộc đời bình dị, Thạch Lam đã khẽ khàng nhắn nhủ tới tất cả chúng một thông điệp: Cái đẹp của cuộc sống có thể bắt gặp từ những cảnh vật, những con người rất đỗi bình thường mà chúng ta không hề để ý.

Cảnh vật của buổi chiều tàn lụi làm đọng lại trong ta dư vị của nỗi u hoài thường trực. Nhưng quan trọng hơn, nhói lòng ta mãi bâng khuâng thương nhớ một miền quê có “tiếng trống thứ không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một văng ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây anh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và các hình rõ rệt trên nền trời.

Quê hương nước Việt muôn đời nay vẫn đẹp dịu dàng êm ả và yên tĩnh như tâm hồn Liên, một cô gái mới lớn tinh tế và nhạy cảm đầy sự trân trọng và nâng niu một mảnh hồn của làng quê thân thuộc. Tiếng ếch nhái, tiếng muỗi kêu vo ve Như một dàn đồng ca hòa mình vào thinh không, nhắc nhở mỗi chúng ta về sự trân trọng và níu giữ tình yêu với quê hương, xứ sở.

Làng quê trong hai đứa trẻ nghèo nàn, vắng người, vắng tiếng nhưng vẫn khơi dậy trong lòng ta những cảm xúc chân thành: “Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm ru như nhung và thoảng qua gió mát. Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm, bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ , nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về vầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tý”.

Thạch Lam đã làm thức dậy trong mỗi chúng ta về một miền kí ức xa xăm trong tuổi thơ diệu vợi. Ngắm bầu trời đêm, tìm sông Ngân Hà, dõi theo con vịt bước sau ông Thần Nông,… liệu có ai đã không từng có những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm và đẹp đẽ như thế? Hai đứa trẻ đánh thức trong ta ấn tượng về cái đẹp thăng hoa từ những hình ảnh bình thường, nhỏ nhặt. Nó nhắn nhủ tất cả chúng ta hãy trân trọng và níu giữ hồn quê. Bởi đó cũng chính là hồn người, hồn nước, hồn của những con người mãi chung tình với quê hương, xứ sở.

  • Kết bài:

Đọc Hai đứa trẻ, những tâm hồn đa sầu, đa cảm, nặng lòng với đất, với người, với quê hương sẽ không khỏi cảm thấy bồi hồi, thổn thức. Bức tranh phố huyện hắt hiu và hình ảnh con người với những kiếp người mỏi mòn như tiếng mọt kêu thổn thức trong buổi chiều tàn tạ, nhưng in đậm trong lòng người đọc bởi một trái tim nồng ấm yêu thương.


Bài tham khảo:

Bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất ,trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng.Dưới con mắt của ông , đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả trời đất ,quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hoà cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo  mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, lẩn quẩn của con người.

Bức tranh đời sống phố huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với cảnh chờ tàu của chị em Liên và mọi người. Toàn bộ bức tranh là bóng tối, bóng tối lan toả, bao trùm lên cảnh vật, tạo nên bầu không khí nặng nề, u uất. Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một mầu đen xám xịt. Bóng tối ở rặng tre ,bóng tối ở góc quán, bóng tối ở ánh sáng lập loè của đom đóm. Tất cả, tất cả đều chìm vào bóng tối. Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không sung túc gì lại bị màn đêm bao trùm, đè nặng lại càng trở nên côi cút , ẻ loi đến tội nghiệp. Đâu đó vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng vào lúc nửa đêm. Chị em Liên quanh quẩn cùng quán hàng xén vốn đã vắng khách .Hàng phở của bác Siêu lặng lẽ lăn bánh …

Những hình ảnh lẻ loi, đơn chiếc ấy cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng tối dày đặc, lan toả đang dần đẻ lên cuộc sống của họ – những con người mà số lượng có thể đếm được trên đầu ngón tay “mấy chú”, “mấy người”. Bóng tối cùng người bạn đồng hành của mình là sự im lặng đã thống trị trên cõi người. Thời gian bỗng chốc trở nên im lặng, uất ức đến kỳ lạ. Không gian bị thu hẹp còn vài mảnh đời nho nhỏ. Không khí nặng nề như dồn nén bao nhiêu uất nghẹn của kiếp người. Bức tranh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.

Nhưng Thạch Lam – người nghệ sĩ của tâm hồn ấy, không dừng lại ở khắc hoạ bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn, Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên ở do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên; là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tý; là quán phở của bác Siêu… Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào.Cả một sự tẻ nhạt đén kinh khủng hiện ra.

Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cũng biết tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu. Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lặp đi lặp lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời họ. Nhưng sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát ,không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn,quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hy vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoay lên nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu tuy vẫn lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người .Ho tìm kiếm với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn u uất lặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ.

Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ở tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của cuộc sống để lại ước mơ – một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người …

Nếu như nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn đã xa rời thực tại ,thi vị hoá cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt với ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên củ cốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm ,khi đâu đớn, lúc xô bờ (Hồn bướm mơ tiên, trăng sáng ,tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau.Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất xắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi sắp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan ,không phải là cái xót xa đến tận xương tuỷ như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng ,nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn : Văn chương không phải là một cách để thoát ly hay lãng quên, mà trái lại ,văn chương “phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”, là tiếng kêu thương thoát ra từ những kiếp lầm than, khổ cực, Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang